add this

Friday, June 24, 2016

cây bồ đề, bài cũ

                                                                                          Christ Jaune, Gauguin 
cây bồ đề
tôn tht tu

Sống ở Saigon ai cũng thấy rõ ngoài vùng phố xá buôn bán, phần còn lại của đô thị nầy chia làm hai: một bên chen chúc, một bên biệt thự kiểu Pháp trong những vườn lá rậm, những bãi cỏ cắt mịn...Ngoài đường trong vùng sang trọng, cây xanh um tùm che mát bờ tường cổ kính quét vôi màu vàng. Tôi thường đưa nhà tôi qua vùng nầy. Vợ chồng phân tích từng nét kiến trúc trầm trồ khen ngợi nhà nầy nhà kia; rồi cũng có lúc bực mình vì một nhà mới mọc nửa quê nửa chợ.

Sau mấy lần vượt biên không thành và mất hộ khẩu ở vùng quê, tôi về sống bất hợp pháp ở Saigon. Những lúc cần tránh công an khu ở mới, tôi thường đi lang thang với đôi dép chiếc đực chiếc cái vào khu kiểu cách ấy nhưng không còn ngắm các biệt thự mà cúi đầu. Phần vì buồn cho kiếp lưu đày trên quê mẹ, phần để tìm các mẩu thuốc lá khá dài như Hoa Mai, Đà Lạt mà người hút bực mình không cháy liệng xuống đất.

Những bờ tường xi măng còn đó dưới những hàng cây xanh. Vĩa hè rác rưởi khá nhiều. Không ai buồn sơn lại những bức tường kia. Chủ cũ đã đi, chủ mới bận nuôi heo nuôi gà, thèm chi chút thẩm mỹ bên ngoài. Rêu phong ăn dần màu vàng.

Những cây non xé bờ vôi, mọc ra lởm chởm như hàm râu không cạo. Đó là những cây bồ đề, cây sanh non trước khi thành cổ thụ. Những cây bồ đề vắt vẻo ở bờ tường, mùa nắng chỉ còn vài ngọn lá vàng. Những rễ phụ quá khô không bám nỗi vào vách, buông thả trong gió như sợi tóc lạc lõng. Mới trông như ai nhặt một cây bồ đề đâu đó, dán vào tường cho nó khô nó héo mà chơi.

Mỗi lần đi trốn công an như vậy, tôi chỉ có một đồng dính túi để đi xe buýt lúc tối về nhà. Một hôm khi đứng nhìn cây bồ đề héo hắt, tôi đánh liều ngồi ở quán cà phê đầu đường, loại quán bỏ túi bán chui bán chạy ở đô thành đổ nát nầy. Vừa pha cà phê cô hàng vừa nhìn đôi dép hai thứ của tôi với con mắt là lạ. Vì thế tôi đứng dậy trả trước một đồng, đồng bạc duy nhất. Và để khỏi bị mời, dù mời đưa, mua thuốc Samit hay Ba Số Năm, tôi móc túi để ra bàn mấy mẩu tàn thuốc mới lượm như đánh canh bạc xả láng cuối cùng với người đẹp.

Tôi đưa cốc cà phê lên uống, mắt mãi nhìn đằng kia. Nếu có ai chú ý, có lẽ nhìn đôi mắt tôi không cú vọ như công an nhìn người. Thật thế, tôi đang nhìn cây bồ đề trên tường nứt màu vàng chen vào rêu héo. Tôi ngồi xuống đánh canh bạc cuối cùng với cô hàng nầy vì cây bồ đề ấy thôi. Nào có thích gì đâu.

Xin cô hàng lon nước rửa ly, tôi đến cây bồ đề tưới nhẹ. Nước rút vào bức tường khô không còn một giọt rơi xuống đất. Dấu nước chảy dài rồi bé phía dưới, in rõ lên nền vôi như một nét bút lông thủy mạc. Tay trái cầm cái lon, tay phải chống vào tường, tôi nghiêng mình hướng về cây bồ đề đang giành giựt nước với bức tường khô.

Khi tôi trở về, thấy tôi làm công việc khá kỳ quái, cô hàng tỏ vẻ bớt nghi kỵ. Cô lại đùa khi chỉ vào gốc cây lớn:
- Khi cây nầy tàn lụi, cây bồ đề kia sẽ lớn lên che phủ khu nầy; tôi sẽ dời cái bàn nầy qua đó.
- À ra thế, tôi đáp, tôi vừa giúp cô đấy nhé. Sao cô không tưới nước cho nó?
- Mặc kệ, cô ta trả lời, cây ngô đồng không trồng cũng mọc.

                                               ***
Tôi ngồi yên lặng. Tôi nhớ hồi bé khi đi thăm ông bà nội, tôi thích hòn non bộ đặt trên bể cạn, với những tiều phu, những tiên ông, những chiếc cầu nho nhỏ, con cá, con ốc... bằng sứ tráng men. Những thứ ấy ẩn hiện trong rừng cây nhỏ bé, có thác, có ghềnh, có sơn, có thủy. Những cây bồ đề vóc dáng sần sù thả chùm rễ râu xanh xuống nước để nuôi thân. Cả một cây cổ thụ nay chỉ thu nhỏ bằng gang tay, thân khẳn khiu với thời gian, với sương gió.

Cây cổ thụ tượng trưng sức mạnh vô biên phủ cả một góc trời mà thu lại trong tâm can, trở thành nhỏ bé vừa tầm của mọi người, mọi vật, len lỏi vào con tim của ai ai. Cây bồ đề lá nhỏ như quả tim. Thu rút lại mà không khắc khổ, trổ lá xanh tươi như nụ cười mà không nham nhở. Tuy nhỏ mà cây bồ đề vẫn tung ra cánh tay che con đường cheo leo nơi hòn non bộ hay phủ kín một nhịp cầu ước mơ.

Dưới khối núi với cỏ cây trùng điệp trong hồn nhiên tự tại, dưới đó là nước mát. Cá đỏ lội tung tăng hay nằm lững lờ như diều ngưng cánh buông thả trong gió chiều. Những con cá đứng yên như cây bồ đề đứng yên bên trên.

Giây phút bên bờ đường với cây bồ đề khô héo đưa tôi lạc cõi nào, không hiểu nằm đâu trong cung bực của thời gian và không gian, làm tôi quên bẵng cảnh lưu đày trên đất mẹ. Cây bồ đề nhỏ bé lọt lòng tay giờ đây nó an ủi tôi, nó làm bài học của lòng tôi.

Từ trước đến giờ, tôi chỉ làm việc để tung hoành, để bung ra để bành trướng và mãi mãi thêm lên. Vì thời cuộc đã khựng lại, khựng lại trong khung cửa hẹp của nhà tù, khựng lại trong đôi dép hai thứ, khựng lại trong sự săn đuổi của công an.

Cây bồ đề cổ thụ ngắn hơn gang tay, tích tụ cả gió sương thu lại thành sức mạnh, sức mạnh của yếu hèn, sức mạnh của con tim, sức mạnh của nguyện cầu. Cây bồ đề tượng trưng cho sự chuyển hoán tư thế trước những cục diện khác nhau mà tâm hồn vẫn là một. Nếu sự vươn ra đã là khó thì sự trở về với bản thể con người còn khó hơn nữa.

Từ hôm ấy tôi nhặt những cây bồ đề mọc ở vách tường mới lớn hay đã có hình thù cổ quái đem về trồng trong những phiến đá nhỏ ghép vào nhau, chưng trong nắp khạp nắp lu. Cứ mỗi sáng ra nhìn rễ trắng chạy trên đá hay thả xuống nước. Tôi uốn cành cong lên cong xuống, uyển chuyển theo mốc đá. Trong số những cây trồng, tôi thích nhất cây có gốc to bằng nắm tay mà chỉ có mầm lưa thưa, lá lại xanh như đôi mắt tinh khôi, khối lòng rộng mở. Tôi khen ngầm cây ấy chỉ biểu lộ bấy nhiêu sức sống.

Những cây bồ đề không mất tiền nầy là nguồn vui không riêng gì cho tôi mà cho cả gia đình. Mấy đứa con có quyền thêm một hòn sỏi, một viên bi hay một cành rau nước. Một hôm tôi đi về thấy một hình người bằng plastic ngồi dưới gốc cây. Tôi tưởng như một hiền nhân toạ tĩnh, tôi vái chào với tất cả cung kính. Tôi thấy mình nhỏ bé lại.

Gạt bỏ tính cách triết lý trong cây cảnh Đông phương, những cây bồ đề nhỏ bé trước mắt cho tôi một bài học kiên nhẫn, thu mình để giữ lại sự hiện hữu trước bão táp của cuộc đời. Mỗi cành cây uốn cong tượng trưng cho một u uẩn của lòng tôi. Chuẩn bị một tư thế vươn ra, một vùng đất soạn sẵn để trở về. Tôi chấp nhận sự lắng thinh để cố giữ thành trì cuối cùng làm tư duy thầm kín, một tự tại của cõi lòng. Không để cho nó nát tan.

Trước một bối cảnh của quê nhà như vậy, làm sao ta cố đừng điên lên mà giữ cho lòng thật yên, cho thật lắng cho dù có lao lung tả tơi. Rất nhiều lần vợ chồng tôi thấy như đang ở trong nhà thương điên. Báo chí Tây phương chỉ trích việc đưa vào dưỡng trí viện những nhà tư tưởng, những nhà khoa học mà họ không biết sau bức màn kia là một nhà thương điên rất lớn. Chỉ khác ở chỗ không có bác sĩ tâm thần.

Phải tự chữa lấy cho qua cơn khủng hoảng nầy. Chữa bằng những công việc đơn giản. Ở Nhật Bản, khoa xếp giấy thành hoa quả, chim muông là một phương pháp trị liệu tâm thần rất tốt.

Ngày ở quê, những lúc trời mưa không làm việc được, tôi rất đau buồn nhìn công việc bỏ bê mà khoai củ trong nhà đã hết. Mưa vẫn nhiều; mái tranh dột nát. Một bức bách tâm thần không tránh được. Tôi giải quyết bằng cách chú tâm tuyệt đối vào các thanh tre, những sợi lạt, những đóm thuốc lào tách nhẹ qua cái rựa bén trên tay. Những sợi lạt mềm nhủn dẻo kẹo, những đóm thuốc lào đều đặn xinh xinh xếp trước mắt như những tư tưởng mạch lạc trở về trong trật tự trước bức bách ngoại cảnh, của hiện tại chua xót, của tương lai mờ mịt.

Khi tôi trở về sống ở Saigon, những cây bồ đề thu hút cả chú tâm của tôi. Tôi đặt vào đấy cả cuộc sống và tìm từ đó sự lắng yên của tâm hồn trước sức công phá của thời cuộc đổi thay. Hình ảnh đạo sĩ bằng plastic nhỏ bé ở gốc bồ đề nhắc tôi một câu nguyện mà tôi xem như một thế liên hoàn chân vạc:

"Xin cho tôi ba điều: 1. Đủ sáng suốt để phân biệt thiện ác, xấu tốt. 2. Đủ bình thản chấp nhận những gì không thể thay đổi được. 3. Đủ can đảm làm những gì có thể làm được."

Thưa đạo sĩ, tôi đã bình thản như những cây bồ đề trước mắt. Tôi đủ can đảm chấp nhận mọi thứ để ra đi, ra đi một mình. Và nay nếu quyết định nầy đưa đến kết quả, chắc chắn tôi sẽ để lại sau lưng mấy cây bồ đề nầy và...và...

Những cây bồ đề được tưới mát săn sóc không làm tôi quên cây bồ đề héo hắt nơi bờ tường kia, cái cây cô hàng cà phê mong mỏi sẽ lớn lên che tàng bóng mát. Sau mấy lần xuống miền Tây vượt biên thất bại, tôi trở về Saigon. Một hôm có tin đi, tôi đưa nhà tôi dạo phố theo kiểu nhà nghèo. Chở nhau trên chiếc xe đạp đến góc đường mà tôi đã đánh canh bạc cuối cùng với người đẹp bằng mấy mẩu tàn thuốc lá mới lượm giữa đường. Đến quán tôi chỉ gọi một cốc ca phê đen, nhà tôi không uống gì. Giây lát sau, tôi đưa nàng lại cây bồ đề khô héo kia. Tôi đứng trong tư thế như lần trước.

Đó là ngày cuối cùng trước khi tôi đi. Tôi sờ cây bồ đề như ai mới dán vào tường. Với tất cả ngậm ngùi tôi nói:
- Hy vọng lần nầy anh đi được. Anh để lại cho em cây bồ đề héo hắt nầy.

Nhà tôi đứng buồn. Một lúc sau nàng nói:
-  Anh còn ngại gì mà không nói thẳng rằng anh để lại đằng sau một người vợ héo hắt. Nói quanh nói co làm gì cho buồn thêm.

Tôi đáp:
- Anh không can đảm nói thẳng như vậy. Nhưng thật ra anh còn để em lại với đống rác kia. Cái đống rác mà mỗi ngày con chúng ta đào xới tìm bao nylon bán ký, những mãnh chai sắc nhọn, những vật ngộ nghĩnh mà chúng làm đồ chơi. Anh để lại cho em tất cả, những dòng chữ yêu thương từ hồi em còn mười bốn. Anh để lại tất cả, kể cả cái héo hắt của cây bồ đề nầy. -
Thái Lan 1982











Friday, June 10, 2016

cây rau dền, truyện ngắn

                                                                                nội tâm, tranh Picasso
cây rau dền
tôn tht tu

Hắn vui sướng khi sáng tinh mơ vẫn thấy cây rau dền đỏ tươi. Đêm qua trong giấc ngủ chập chờn hắn cứ mơ tưởng đến thứ rau chát chát ngọt ngọt ấy. Hắn sợ sương đọng nặng đè gãy ngọn lá. Hắn sợ tiếng kẻng cầm canh đánh từ cái bọng bánh xe chát chúa không để cho cây rau dền yên lòng thở hút khí mát về đêm.
Hắn đã quen với tiếng thanh sắt đánh vào cái trống bằng sắt suốt ngày; đến mức độ thấy trống vắng khi thức nửa đêm mà không nghe thấy. Nhưng đêm qua hắn sợ cây rau dền kinh dật thần kinh. Hắn thương lắm vì cây rau dền măng non chưa tội tình gì mà phải về đây sống với hắn để chịu sự hành hạ của các tiếng kẻng như búa nện vào đầu.
Hắn van xin đừng có tiếng kẻng nào xáo động mối tương cảm giữa hắn và cây rau dền bé bỏng trong sương mai. Quanh hắn những luống rau muống trồng khô đã nở hoa trắng mộc mạc như loại ở bờ ao bờ hồ. Cây rau dền đỏ tía trổi lên giữa một luống rau phần nào già cỗi với cái khô của mùa đông. Nó hừng tía đỏ lên vì nắng hồng còn nhẹ. Hắn đưa tay nhổ hơn chục gốc muống xung quanh để tạo một khoảng sống cần thiết.
Chiều qua hắn nhổ cỏ ở bờ rào và tiếp xúc với một kẻ bên kia. Họ cho nhau một cây rau dền nhỏ. Hắn quay vội nhét xuống đất giữa luống rau muống, không có chỗ để ghi một tín hiệu, một mật mã. Không gì cả ngoài mấy ngọn lá và mớ rễ đứt ngang vì nhổ vội.
Cứ nhìn mãi cây rau đỏ, hắn yên lòng. Thứ nhất rau còn sống qua một đêm của tiếng kẻng; thứ hai chính hắn đã được an toàn sau công việc nguy hiểm là "quan hệ" vì một ngọn rau truyền giống.                    
Hắn thấy yên ổn vì bên kia bờ rào không có ai, nhất là không có chàng tuổi trẻ hào kiệt đã biếu cây rau dền đỏ nhổ vội từ đất khô để không ai có thể kết tội hắn tiếp tục trao đổi tin tức.
Nhiều anh em khác đã ra vườn rau. Nhưng chiếc áo rách bươm, may vội với vải bao cát màu rêu và đã rêu xanh thêm sau bao năm chứa cát dựng quanh nhà. Những gì chất chứa trong những chiếc áo bao cát ấy nay đã nặng nề như đất cát và thành đất cát. Những chiếc thùng, những chiếc gàu, những chiếc gáo chạm nhau nghe cũng vui tai, đỡ buồn.
Chút cây xanh nầy ở vào một nơi khác có thể xem như cái phổi của thành phố. Mà đây, người ta đi dạo với áo quần tả tơi. Trông kìa, già trẻ đủ thứ; những khuôn mặt khằn lên vì khắc khổ, những thanh niên vào buổi đầu cay đắng. Họ tiếp nối chuỗi dài hội ngộ: gặp nhau ở trung tiểu học, gặp nhau ở trường bộ binh, thiết giáp, gặp nhau hôm nay trên những luống rau muống hoa trắng, gặp nhau theo lệnh của tiếng kẻng. Rồi còn gặp nhau ở đâu nữa đây?
Ai ai câm nín không tỏ ra bị câu thúc. Họ đã thuần nhuyễn rồi. Có người trông điềm nhiên tự tại đưa tay nhỏ nhẹ bụi cỏ bên gốc rau muống như săn sóc một chậu cúc trắng. Không ai buồn phiền vì cái mùi hôi thối của thùng phân tươi vừa mới đưa ra. Thậm chí không ai phản đối nhăn nhó khi nhỡ ra một giọt phân lỏng bắn vào chân hay quần áo. Mà còn tốt nữa thay, à, ta đến giếng lấy một gàu nước chạy lại luống rau của ta rửa tay rửa chân thì thêm một tý chất bổ cho rau cải, cũng tốt thôi. Không ai thèm gớm ghiết gì mấy con dòi bò lúc nhúc. Mà còn cảm ơn là khác. Chúng cho ta ý niệm sống qua cái nhúc nhích quợ quậy, nhúc nhích trong cái băng giá của cõi lòng, tập cho đôi môi trở lại cử động bập bẹ tiếng yêu thương, để đừng quên tiếng yêu thương. Ôi những con dòi biết nhúc nhich, tập cho đôi mắt ta biết nhúc nhích để không còn trân tráo trước một nhành hoa đẹp. Ôi những con dòi đã cho ta cái sống. Ta yêu thương chúng lắm.
Công việc ở đây xem như ngày nghỉ. Đa số đã đi công tác nặng đến trưa mới về. Thành phần nầy gồm bệnh hoạn, đến phiên nấu bếp hay có việc tại chỗ nhưng rảnh vài giờ đi làm vườn. Hắn ở trong loại nầy. Hắn không buồn tưới mấy luống rau, mệt mỏi vì đêm qua cứ trằn trọc lo âu cho cây rau dền và nghe tiếng kẻng cầm canh.
Mỗi ngày hắn đi công tác, tối về trại nhấm nháp chén cơm vơi phĩnh lừa cơn đói. Rồi công việc của một ngày đè nặng thân xác hắn, kéo xuống cái sạp tre đầy rận rệp rồi ngủ. Một trách nhiệm ngắn ngủi của một ngày. Nếu qua đi thế là xong. Nếu không qua đi thế cũng là xong, nhưng xong cả cuộc đời, ví dụ cắt cỏ nuôi bò chạm trái mìn, hay đào hố chôn trái phá cũ chưa nổ, trèo lên nóc nhà lợp mái té xuống chết như mơ.


Rau dền tía - Amanranthus tricolor L

Nhưng tối qua một đêm không ngủ chỉ tại cây rau dền. Nghĩ đến cây rau dền là nghĩ đến chính hắn. Cây rau dền hé mở viễn ảnh bát cơm bớt vơi. Cây dền dễ trồng, hạt lại nhiều. Hắn tin tưởng màu đỏ mang đầy chất dương, theo khoa dưỡng sinh Nhật. Nước luộc rau màu đỏ dễ thành máu.
Đó chưa nói sơ qua qui luật đặc biệt của khu vực nầy. Rau muống phải ăn chung; hằng ngày phải ghi số rau bỏ vào chảo, tính ra tiền trừ vào gạo; rau là tài sản của nhà nước, trồng trên đất công và bởi những người cách mạng nuôi. Còn rau dền có thể "cải thiện linh tinh" trong ca trong cóng.
Hắn có thói quen nhìn lên Sao Cày, tập hợp những sao sáng trong chòm Hiệp Sĩ xếp như hình lưỡi cày. Trên trời thì sao cày, còn dưới vạt giường rệp cày trên thân xác gầy ốm của hắn. Hắn bực tức đến độ cáu tiết. Giá mà bắt được con rệp là có thể nhai nuốt. Dần dà hắn cũng dịu lại, thấy ngượng với chính mình. Hắn tự hóm hỉnh:
- Dẫu sao con rệp cũng chung máu huyết với mình. Có người cùng máu huyết mà hút cả tủy não thì sao. Trách làm gì con rận con rệp. Ồ, loài hạ đẳng trách làm chi.
Tâm trí hắn lơ lửng không biết đâu là đầu, đâu là đuôi, chồng chềnh như con tàu lạc hướng; cây rau dền nằm đâu? Hắn nhìn chòm sao Hiệp Sĩ, hắn nhớ có học rằng từ đỉnh đầu kéo xuống thanh kiếm là trục nam bắc. Dựa vào cái vô bổ ấy, hắn thấy tâm trí bớt quay cuồng. Hắn đưa tay vẽ hình một hiệp sĩ theo các vị trí sao trong tinh hệ nầy. Nét hào hùng còn sót lại đã biến hình vẽ thành một hiệp sĩ thực sự, tay vẫn còn để trên đốc kiếm.
Nỗi cô đơn cũng bớt chút đỉnh. Hắn đem hình ảnh ấy gán cho chàng tuổi trẻ ban chiều ngồi bên bờ rào dây kẽm, hào hiệp tặng hắn một cây rau dền nhổ vội. Hắn tưởng tượng chàng ta trao cây rau dền đỏ tía như một hiệp sĩ thời Trung Cổ trao một nhánh hoa hồng cho người đẹp trước khi cầm lấy cây đàn mà hát một khúc du ca.
Giờ nầy chàng tuổi trẻ ấy đang làm gì? Mộng mơ chăng ở bên dãy nhà kia sau hàng rào dây kẽm? Đêm lắng và giấc ngủ giờ nầy có làm giãn nét hằn mặn đắng mới mẻ trên khuôn mặt hay không? Hiệp sĩ ơi, hiệp sĩ ở trên trời cao nhìn giúp tôi. Hiệp sĩ xa mà thấy được, tôi gần mà không thấy được. Mong hiệp sĩ trở thành người bạn của chàng hiệp sĩ kia. Tôi còn nhờ một tí, trông hộ cây rau dền.
Không gió nhưng khá lạnh; hắn đau nhức răng; cái răng hỏng từ ngày vào đây không biết thuốc thang ra sao. Cái răng đã lung lay, nay đau lại. Có lần hắn nghe bạn hữu ngậm nước điếu cày thuốc lào cho qua cơn nhức. Mà bớt nhức thật; không phải vì ảnh hưởng của thần dược nầy mà nước ống điếu đã làm hắn say thuốc nôn mửa, quay cuồng đầu óc mà quên cơn đau. Cái đau lần nầy không sâu đậm mà đằm đằm làm nhẹ tay các con rệp dưới giường. Lâu ngày ở đây, hắn tập tạo dựng sự điềm tĩnh chấp nhận tất cả và từ đó bất cứ điều gì cũng là đề tài suy tư.
Trước khi vào trại nầy, hắn có đọc Nhật Ký Trong Tù của HCM. Dạo ấy hắn cũng đọc trong một trại tù. Hắn không đủ sức thưởng lãm thi ca của nhà thơ được ca ngợi như thánh. Nhưng còn nhớ có bài nói về cái đau răng vì trong tù ăn uống không đầy đủ. Sự nhớ lại nầy thức tỉnh hắn rằng hắn không phải là người đầu tiên khám phá ra sự liên hệ giữa nhà tù và cái răng hư. Ít ra ông Hồ cũng đã biết trước điều đó. Dưới ánh mặt trời không có gì lạ.
Ở góc nhà kia có ngọn lửa nhỏ, chắn ngang bởi một người ngồi yên. Dạo nầy hiếm củi nên bếp con bị ngăng cấm nhưng vẫn có kẻ xé rào đốt một chút lửa cho ấm lòng rồi sao tính sau. Cách đây một tuần về trước, khi đêm xuống, từng đóm lửa chập chờn trong bóng đen trong tiếng rì rào. Chẳng khác cảnh trong xóm đông dân mỗi tối; ở góc đường các quày hàng chè, cháo, bánh cuốn làm hội hoa đăng cho khách nhàn du. Những lúc như vậy, cái đầu và cái bao tử đem hắn về các khu Nguyễn Thiện Thuật hay Bàn Cờ, Chợ Bà Chiểu đến các quả trứng lộn còn nóng còn nồng với ngọn rau răm, với bát cháo trắng ăn củ cải muối.
Từng nhóm cụm năm cụm ba quanh một bếp nhỏ như khách qua đường trò chuyện với cô hàng chè xanh. Ai cũng đun nước lã, không phải vì vệ sinh mà cần nấu cái gì cho vui. Những câu chuyện như trống đánh bỏ dùi. Những khuôn mặt rời rã, đôi mắt nghệch ngoạc không đâu ra đâu.
Giờ đây hắn mới hiểu tại sao có nhà lập thể vẽ một mặt người mà mắt trái đi một đường, mắt phải đi một ngõ kia, cái cằm thụt mất ra đằng sau. Các đường nét tròn trịnh của trời đất chỉ còn là góc cạnh thẳng băng của một khối lập thể. Khi học tiếng Pháp hồi nhỏ, hắn thường gặp các bài tập đọc tả đêm đông gia đình ngồi quanh lò sưởi; những ngọn lửa nhẹ nhàng vuốt ve cái ấm nước. Còn đây hắn thấy những ngọn lửa hình dáng lập thể như những ngọn giáo đâm ngay vào thinh không, châm chọc bầu không khí lặng yên.
Hắn vẫn lặng lẽ chia sẻ ánh sáng của bếp con mà ông bạn tù đã đốt lên. Âm ấm một tý. "À cây rau dền có lạnh không nhỉ?" hắn tự hỏi. Hắn đưa tay quờ quạng vẽ trong không trung cây rau dền đỏ tía trong đường nét bán lập thể. Các ngọn lá không vuông nhưng có nét nhọn sắc. Và thân rau lại cắt ngang mấy đường như thái nhỏ ra. Hắn kinh hoảng với nét vẽ ấy.
Cây rau dền sao ta lại vẽ như thế? Sao vẽ ngọn lá như con dao? Cây rau dền ta sẽ ăn vào cho nhẹ cơn đói ăn như thế thì nó đâm thủng bao tử sao? Ta vẽ thân cây cắt ngang thì làm sao nó sống, nó đẻ thành con cháu để có nước luộc đỏ tươi làm máu của ta. Ta hãy vẽ như một nét dịu dàng của Renoir, hãy bỏ quên Picasso.
Anh bạn bỏ đi để lại cái bếp và viên gạch làm ghế ngồi. Hắn đến tọa thủ làm chủ mặt trời nho nhỏ của đêm tối nầy. Hắn thấy ấm áp hơn, đưa tay gần ngọn lửa. Hắn lấy một nắm dăm bỏ vào lò, cúi đầu đưa miệng thổi. Khói bốc lên làm nước mắt chảy. Hắn kéo vạt áo bằng bao cát nylon lên lau, nhưng không thấm hết. Như sợ một ai đó chê cười, hắn nói thầm:  "À mà khóc một tý cho vui có sao đâu".
Bất giác câu nói ấy để lại một cái buồn đau đớn không diễn tả được nên hắn cố tìm một câu thơ thay vào đó: Giang phong ngư hỏa đối sầu miên.
Chút thi ca nầy nhắc hắn tập thơ của ông Hồ cũng có đoạn nói về bếp con. Lại một lần nữa hắn không phải là người đầu tiên biết sự hiện diện của ngọn lửa cô đơn. Ít ra ông Hồ cũng biết điều đó trước hắn.
Đang mãi mê về những ý nghĩ đi từ ngọn lửa, hắn nghe tiếng chân đi. Một anh bộ đội bước đến. Biết người ta sẽ hỏi gì, hắn nói ngay:
- Tôi thấy trong người lành lạnh, muốn ốm, đốt tý lửa cho ấm thôi, chả nấu gì, còn củi thì tôi lượm dăm vụn đốt đi cho sạch sân.
- Không, tôi chả nói gì. Bếp con thì cấm rồi đấy nhưng đốt sưởi tôi chả nói gì. Đi ngủ ngay, đã quá giờ quy định. Đáng lẽ tôi phải mời anh ngày mai lên tiểu đoàn làm việc. Nhưng thôi. Anh đi ngủ ngay.
Dập tắt ngọn lửa, hắn bước vào căn phòng tối đen, nực hơi người. Chỉ có tiếng muỗi vo ve. Hắn mừng thầm chiếc mùng nylon đem theo vẫn còn tốt tuy đã hoen ố. Hắn chui vào như nằm trong chiếc hòm thủy tinh mà du khách có cánh muốn nhai nuốt cái xác chết thay vì chiêm ngưỡng như thánh sống. Nhưng đêm tối không cho hắn thấy cái trong suốt, cái mùng đã thành cái hòm gỗ với cái trần màn thật đen và đen.
Khi chợt biết đang đầm mình trong một khối trộn lẫn của suy nghĩ, ước mơ, hoài cảm, chua chát, hắn mới rõ mình đã thức dậy từ bao giờ. Hắn mĩm cười, nằm lắng nghe tiếng bánh xe bò lạch cạch uể oải trong thinh vắng, thong thả như bước đi của đôi bò u kẹp vào ách đâu đây bên ngoài. Hắn không có ý niệm về vùng chung quanh, chỉ đến đây nửa đêm trong một chiếc xe bọc kín cùng một đoàn mấy chục chiếc. Hắn tưởng tượng một người đàn ông lực lưỡng tay cầm cây roi mây ngồi trên chiếc xe bò kéo gỗ, đang ngủ gà ngủ gật vì đôi bò đã thuộc đường đi. Một lữ hành đang di chuyển mà ngủ gật đến trong tâm tư một lữ hành nằm yên mà mắt sáng như mắt đôi bò. Hắn mĩm cười. Hắn muốn bước ra ngoài, thoát bớt mùi nồng của hơi người. Thò chân xuống đất hắn đã bắt đầu tạo ra vài tiếng động. Đến cửa hắn đánh hắng rồi chững chạt nói: "Tôi đi giải bên ngoài" rồi đánh hắng thêm một tiếng nữa mới bước ra sân.

Nhìn vào hướng hôm qua sao Hiệp Sĩ  chỉ phương bắc, hắn gặp chòm Đại Hùng Tinh đã nằm ngang. Như vậy cũng tạm gọi là sáng. Khi hắn mãi nhìn lên cao, một anh bộ đội đến gần từ lúc nào. Hắn chưa kịp nhận ra là người lính tối qua bảo hắn đi ngủ, anh nầy đã nói:
- Anh không ngủ được à? Tôi nhớ anh hôm qua ngồi bên bếp con phải không. Anh nói với tôi anh ốm thì sáng mai anh lên tiểu đoàn người ta phát thuốc còn nếu nặng lắm, người ta đưa lên K3 họ làm cho. Anh đi ngủ đi, chưa đến giờ thức dậy.
Giọng người vệ binh vẫn bình thường không gì mỉa mai. Nhưng sao tử tế đến vậy dù chỉ là một lời nói. Hắn linh cảm một cái gì sẽ đến, tuy vậy hắn bình tĩnh đi vào, không đáp một lời.
Phù thủng mà xin cho được một viên B1, phải chống gậy như tê liệt và không quên đứng cả giờ cho nước tụ ở hai chân. Nước vo gạo giành nhau dù gạo ẩm, ê chua. Có hôm chính hắn, sau một cơn sốt kinh hoàng hắn đến bệnh xá cầu cứu. Một chú bộ đội trẻ trên cổ áo đeo huy hiệu quân y trịnh trọng đặt chiếc cặp da lên bàn, mở từng cái cúc rồi từ từ lấy ra một cái hộp bằng thiết tròn nhỏ bằng móng tay cái, sơn đỏ, trên nắp có in hình ngôi sao vàng.
Anh ta cẩn thận đưa tay sờ lên trán hắn. Sau khi trở về vị trí trịnh trọng của ông thầy thuốc, anh cẩn thận mở hộp thiết ra, lấy ngón tay trỏ quẹt nhẹ trên lớp mỡ đặc màu nâu. Anh cẩn thận đậy nắp lại rồi đưa người phía trước ra dấu hắn chồm người đến gần. Anh lính quân y dùng ngón tay trỏ dính mỡ xoa nhẹ hai thái dương của hắn mỗi bên một lần rồi nói: "xong rồi, cao Thống Nhất đấy, tốt lắm".
Cao là gì chẳng biết, hắn lấy tay quẹt vào thái dương đưa lên mũi ngửi mới biết đó là dầu cù là, không thơm như hiệu Con Cọp hay Mc Phsu cũ đường Lê Thánh Tôn Saigon. Nay cứ như lời anh bộ đội nói, và giá như hắn ốm thật và cách chữa bằng cao không hiệu nghiệm, người ta sẽ đưa hắn lên K3 tức là bệnh xá cấp trung đoàn, xức cao một lần nữa sao.
Hắn đưa tay lên trán suy nghĩ về lời ân cần lạ thường hắn mới nghe ngoài sân. Chẳng để ý gì đến linh giác một cái gì sẽ đến, hắn chỉ nghĩ đến việc thuốc thang trong trại mà chán ngán. Xưa thì "đói ăn rau, đau uống thuốc"; nay thì đói ăn rau, đau khắc phục" rồi rau cũng chẳng có mà ăn.
Càng nghĩ hắn càng thương mến cây rau dền mới trồng chiều qua. Hắn hết sức tin tưởng cây rau dền đỏ tía đầy tương lai, đầy hứa hẹn. Hắn cười sung sướng, vung tay ra khỏi trán, tay chạm vào thành mùng. Từ đó hắn trở lại ý nghĩ đang nằm trong chiếc hòm thủy tinh, liên tưởng tác phẩm của người hiện nằm trong hòm thủy tinh.
Hồi nãy ngoài sân chòm sao Đại Hùng làm hắn nhớ câu: "nhìn xem Bắc Đẩu đã nằm ngang", ý nói lúc ấy đã vào sáng. Lại một lần nữa, lần thứ ba, dưới ánh mặt trời không có gì lạ. Hắn không phải là người đầu tiên biết vị trí nằm ngang của chòm sao nầy đánh dấu một đêm thức trắng và lo âu. Ít ra ông Hồ cũng đã biết.
Cơn đau nhức răng lại trổi dậy. Hắn mong ước có một lò lửa sưởi tay ấm rồi áp lên má cho nhẹ cơn đau. Ước gì ngồi bên lò than mà nhìn Bắc Đẩu nằm ngang, có thêm cái lon đặt trên bếp con nấu một nhánh rau dền, và sau đó có điếu thuốc lào thì thần tiên đã đến bên ta.
Nghĩ đến người bạn trẻ chưa quen biết biếu cây rau dền làm trổi dậy một ý thức tha nhân cuồn cuộn trong lòng. Một hình ảnh cũng hiện ra: anh bạn tù đã đốt nhường đống lửa.
Khi viết lên những hình ảnh tiêu biểu trại tù, nhà thơ họ Hồ có nghĩ đến kẻ khác không? Ông còn nhớ cơn đau răng không? nhớ đến bếp con như người bạn đối diện với cô đơn không? có còn thấy Bắc Đẩu nằm ngang? Những tiếng kêu đó chỉ làm màu làm mè, không phải là một định hướng hành động vì tha nhân. Mà ngược lại tha nhân chỉ kẻ thù. Nếu tác giả nắm cái khổ đau đè nặng lên chính mình làm mối cảm thông thì chắc ông ta đã sẽ không đi vào con đường bạo động hy sinh mạng sống hằng triệu người, đã sẽ không có cảnh tù đày chết dần chết mòn trong lãng quên. Đã sẽ không có một người như hắn suốt canh thâu lo lắng cây rau dền như lo cho quả tim ngừng đập.
Nói đến bạo tàn, nhà thơ nầy không sánh kịp các trại tập trung, các lò hơi ngạt của Hitler, các rừng xương ở Sibérie thời Staline. Nhưng hắn trách móc một cách đau buồn vì tác giả các thảm cảnh ấy là tác giả một tập thơ! được tôn sùng là nhà thơ vĩ đại. Hitler không phải là nhà thơ.
Hắn đau đớn vô cùng với viễn tượng một nhà thơ, tay cầm bút tay cầm búa phang ngang chém dọc như hai con người gặp nhau trong một thân xác để đồng hóa nhau mà đây cây bút che dấu cây búa.
Hắn nằm yên. Tiếng xe bò lăn bánh nhiều hơn. Hắn mơ đêm dài hơn tý nữa để ngủ bù. Thân thể ê chề như vừa qua một trận đòn nhừ tử, cựa quậy không được. Cảm giác lạnh buốt tê liệt đi từ não xuống chân tay. Những tiếng kẻng lâu năm đã quá căng thẳng hay quá làm nhủn dây thần kinh của hắn. Người ta đã cày nát tâm tư hắn như dấu xe bò dẫm nát con đường đất. Hắn đã băng hoại rồi sao?
Cảm tưởng chết chóc đã đến. Hắn cố níu kéo khoản thời gian còn lại, thấy mình bình tĩnh như người ta thường nói trước khi chết con người rất sáng suốt. Hắn mĩm cười, nào có ai chết hai lần mà có kinh nghiệm. Hắn lo nhỡ khi óc não vữa như tương mà chết đi thì cây rau dền sẽ ra sao. Hắn lo nhỡ mà chết trước khi chưa tìm được ý thức tha nhân, thì có dịp nào nữa không.
Khoảng mấy chục năm về trước vào một chiều, một cổ xe kéo ngừng trước nhà. Bố hắn bước xuống tay dìu một người đàn ông áo quần rách rưới mà cơn đau còn để lại trên mặt nhiều nếp hằn. Bố hắn gặp người kia ở góc đường kêu la rên rỉ nên đã đưa đến một ông thầy Tàu thuốc bắc chữa trị rồi đưa về nhà. Dăm bảy ngày sau khi hắn cùng bố đi thăm bà nội về, chị hắn chạy ra cổng hoảng hốt cho bố biết kẻ kia đã bỏ đi lấy rất nhiều đồ đạc. Bố hắn bình tĩnh chẳng quan tâm đến việc mất cắp mà nói với đứa con nhỏ: "Con thấy anh có khỏe không. Bố sợ vì tham tý quần áo rồi không ai thang thuốc cho, anh có đem gói thuốc theo hay bỏ quên".
Hình ảnh người cha sống lại trong đầu. Hắn thấy bố sống lại thật, đang đón hắn, hắn từ một thân xác rã rời, từ một linh hồn rách nát. Nhưng bố hắn thì còn nguyên vẹn tươi mát. Chắc hẳn bố đã chết với một tâm hồn bình thản, không bị dày xéo như hắn lúc nầy. Bố đã chết vào một thời mà xáo trộn bên ngoài ngừng ở lằn mức tư duy không đi sâu vào trí não như bây giờ.
Hắn ngủ thiếp.

Reclaimed Barn Wood and Barbed Wire Tree Wall Art: Barbwire Craft, Barn Wood Craft, Wood Art Project, Barbed Wire Tree, Reclaimed Wood Frame, Barb Wire Craft, Barn Wood Frame, Barbed Wire Craft, Barn Board Idea


Hắn thức dậy khi trời đã sáng, sắp xếp công việc trong phòng rồi đi ra vườn rau khi nơi nầy còn vắng để thăm cây rau dền. 
Một loạt kẻng vang lên như gọi nhau từ trại nầy qua trại khác chuẩn bị một ngày công tác. Một số đã quầy trở vào, áo quần rách nát xốc xếch. Hôm nay hắn ở nhà phụ bếp với nhiệm vụ thu góp rau của các đội đưa đến bếp chung và báo cáo số lượng. Nhiều nhóm ra vườn đem theo các dỏ cà xé đan bằng dây kẽm đã tháo gỡ gai sắt hoặc bao bố để đựng rau.
Đã đến mùa khô và lạnh. Có đội đã trồng cải bẹ xanh, bẹ trắng hay cải củ. Những cây cải măng non xanh nhạt vẫn hồn nhiên chào anh nắng. Hắn thấy một chút ngọt ngào, ngọt ngào như cây cải nhúng vào bát canh miếng có tý dò heo nong nóng vào ngày Tết lành lạnh. Hắn nhớ câu ca dao chưa hiểu:
      Gió đưa cây cải về trời
Rau răm ở lại chịu lời đắng cay.

Ai? cái gì là cây cải? về trời là về đâu? người ta đã đi rồi chăng? đi về nơi sung sướng hay như bố hắn đã đi vào cõi chết với sự nguyên vẹn của tâm hồn? ở lại là ở lại chỗ nào? đắng cay là đắng cay nào? Cái lưỡi đã mặn đắng, hắn nghẹn ngào không một giải đáp.
Mấy anh bạn cùng đội đến cho biết theo lệnh chung, các luống rau muống cỗi phải nhổ lấy hạt làm giống, bòn mót đọt nào thì đem ăn nhường đất trồng cải; hôm nay đến lược luống có cây rau dền mới trồng. Hắn nói: "Được rồi, để tôi lo. Trưa nay tôi sẽ ra cắt ăn buổi tối. Các anh nhổ hết mấy luống kia đi".
Sau khoảng một giờ, cả đám gánh rau về bếp. Rau chất quanh cái giếng mới đào khi mới đến. Nước giếng đục ngầu như sữa phải lắng mới rửa rau và nấu ăn. Bếp trưởng chạy đến dục hắn cân ngay số rau xanh để kịp ghi, vì có lệnh các bếp phải đem sổ sách lên tiểu đoàn ngay.
Khu bếp và khu nhà ở như một tổ ong ngủ yên, vắng lặng như ngôi trường ngày nghỉ. Như thường lệ các bếp trưởng lên tiểu đoàn ký nhận hoặc điều chỉnh số thực phẩm lý thuyết đã nhận. Nhưng lần nầy họ đi về có vẽ lo ngại. Họ xầm xì với nhau như đánh hơi một biến chuyển nào đây. Một anh đùa chua chát: "Đại bộ phận nhé, đại bộ phận sẽ được nhân dân và cách mạng cho về".

Khoảng gần trưa, bếp đã chia cơm và rau xong. Ít lâu sau, đoàn công tác trở về chấm dứt buổi sáng làm việc xa, vai vác cuốc, vai vác xẻn. Tay ai cũng ôm một chiến lợi phẩm: một khúc dây kẽm, một cái lon nhôm còn dính đất, một mảnh ván ép. Họ ôm ghì vào người như quí lắm. Mà quí thật, vì những vật ấy khởi nguyên cho những chiếc vòng cho người yêu nếu có dịp gặp lại, một mẩu trang trí đặt ở đầu giường để vào những đêm không ngủ sờ tay vào như sờ vào tâm cảm, như sờ vào quả tim mình biết nó còn đó chưa mất.
Cơm nước xong ai cũng ngả lưng trong trưa nắng. Ai cũng nằm yên cho ánh nắng du dương với cái yên lặng ngoài sân để nghe tiếng gà gáy xa xa trộn lẫn với tiếng trẻ thơ gọi nhau ngoài khu mía khô lá, nơi có thể sáng nay xe bò lạch cạch đi qua.
Một hồi kẻng dục ba tiếng một vang động cả trại. Mọi người vẫn nằm vì lệnh khi báo động ai cũng phải về nơi mình ngủ để điểm danh. Họ đã nằm từ trước và chỉ chờ. Vẫn yên lặng.
Tiếng ồn ào vọng từ dãy nhà gần ngõ. Đằng đó người ta cuốn vội áo quần rách phơi trên dây kẽm. Không ai bảo ai mà cùng làm như vậy vì thừa sức biết đó là một lần kiểm soát. Một vệ binh đi đến từng dãy nhà ra lệnh cuốn hành trang lên sân tiểu đoàn ngay. Lại một hồi kẻng dục ba tiếng một.
Những ai xếp xong đã ra khỏi cổng dưới nắng. Có kẻ gọn gàng với cái bao nhỏ, có kẻ cồng kềnh một khúc gỗ đang chạm một hình tượng chưa xong, có kẻ ôm vào nách mấy bao cát bẩn.
Tất cả xếp theo đội ngũ, đứng cách nhau ba bước và xen kẽ, rồi ngồi xuống bày biện hành trang tế nhuyễn lỉnh kỉnh như bán chợ trời. Bộ đội đến xét và không quên dốc ngược các bị xem thử có gì không. Họ tịch thu các vật bén nhọn như cây kim lớn làm bằng gọng kẽm gai, hay con dao làm bằng niềng thùng gỗ hay bằng các thanh sắt gỉ. Những ai xét xong từ từ xếp hàng lại như chợ chiều vắng khách ngồi chờ xe về nhà. Không ai bảo ai một lời; mà chả có gì để nói, chỉ chờ xem và mong về trại nghỉ một tý rồi đi công tác buổi chiều.
Theo lệnh của người trách nhiệm, các đội đã lần lược về trại. Đến phiên đội hắn, quản giáo đến bảo đội trưởng gọi bếp trưởng rồi anh ta bảo hắn bước ra khỏi hàng mang theo "trang tư vật". Sau đó anh bảo toàn đội ra về.
Sau khi sân đã vắng người chỉ còn lại nón cối, quản giáo ra dấu ba người (hắn, bếp trưởng và đội trưởng) vào căn nhà tiểu đoàn. Chưa kịp ngồi xuống ghế, người quản giáo quay về anh bếp trưởng nói: "Anh qua bên hậu cần, tôi đã làm việc với họ rồi, lấy ba ngày gạo".
Hắn bình thản trước sự phải ra đi, đặt xách xuống đất trong khi anh bộ đội ngồi xuống ghế hai tay chống lên bàn. Biết câu chuyện không dính líu đến mình, anh đội trưởng đứng qua một bên để hắn trực diện với quản giáo. Người nầy nhìn hắn với một nụ cười không gượng lắm mà cũng không đủ tự nhiên của một nụ cười. Anh ta lấy giọng rồi trịnh trọng nói:
- Anh biết rồi. Cách mạng đã giải phóng miền Nam và xem các anh vừa là tội nhân vừa là nạn nhân của một chế độ áp bức. Cách mạng luôn xét tình, lý trong từng trạng huống cụ thể. Xét lý lịch của anh, thấy anh có chuyên môn xây cất, cách mạng điều anh đến một công trường góp phần xây dựng đất nước. Anh sẽ có điều kiện thuận lợi học tập tốt sớm đoàn tụ gia đình. Tôi chúc anh thắng lợi.
Đoạn anh quay về đội trưởng nói:
- Ngày mai chủ nhật, đồng chí chính trị viên sẽ làm việc với các anh như thường lệ và giải thích việc điều anh bạn đây đến một cơ quan kỹ thuật. Nhưng từ giờ, anh có thể nói cho mọi người biết sự ưu ái của cách mạng để quán triệt đường lối, an tâm học tập.
Anh bếp trưởng trở lại, nâng túi nylon đựng gạo lên ngang ngực như trình người bộ đội biết rồi trao cho hắn. Hắn đưa tay đón nhận, bỏ vào túi xách. Cả bốn người đều im lặng. Quản giáo đứng dậy nói:
- Anh bếp trưởng và đội trưởng về đi. Còn anh, anh cứ an tâm ở đây chờ tôi. Tôi đi liên hệ bên vệ binh đưa anh ngay lên trung đoàn để kịp về F hôm nay.
Hắn ngồi xuống hành lang, khuỷu tay chống vào đầu gối, mười ngón tay níu vào nhau đưa ra phía trước, cúi đầu trong yên lặng của một buổi chiều chưa ngả nắng. Quái nhĩ, hắn nghĩ, mình làm gì có khả năng chuyên môn. Hắn chỉ khai có thời gian ngắn làm thư ký đánh máy cho một ty công chánh tỉnh nhỏ. Lầm à? Hắn lo sợ. Nhỡ như người ta đưa hắn đến công trường xây cất, quá lắm hắn chỉ biết trộn hồ hay uốn sắt cốt bê tông. Như vậy hắn bị qui tội nói dối. Ai làm chứng thực hay dối. Mà dối là tội chết. Đùa à? Thôi, hãy để người ta đùa; nói vậy mà không phải vậy.
Hắn đứng dậy vươn vai tìm chút thoải mái, đưa mắt nhìn về phía dãy nhà ở với xao xuyến và vô định. Hắn nhìn xuống đất, mở hai lòng bàn tay nhìn chằm chặp như muốn đoan chắc đôi tay vẫn còn đó như kẻ đồng hành trên đoạn đường chiều nay và sẽ bắt đầu ngay đây.
Một vệ binh từ trong nhà tiến ra, vai mang khẩu AK xếp bán, đưa tay ra lệnh hắn lên đường mà không nói gì vì hai bên đã biết sẽ đi đâu. Hắn móc túi xách lên vai, đi trước người vệ binh chừng năm bước.
Cặp theo con đường nhỏ ra đến cổng, bạn hữu đổ xô đứng sau hàng rào; nhiều nơi lưới kẽm gai căng như bong bóng vì sức đẩy bên trong. Hắn cảm khái như đi giữa hàng rào danh dự, không có tiếng hoan hô, không có bông giấy, chỉ có câm nín và ngậm ngùi. Hắn cố sức tỏ ra điềm nhiên, không nao núng, mắt nhìn thẳng.
Đi một đoạn khá dài, như cố lấy bình tĩnh, hắn đưa tay vuốt nhẹ mái tóc ngắn trên đầu trần. Ngay lúc đó, một cái nón làm bằng vải bao cát phóng ra từ hàng rào, nằm ngay giữa đường trước hắn khoảng năm bảy bước. Hắn cúi xuống lượm thì vệ binh đã đến kịp đưa tay cản. Cả hai tiếp tục đi để lại cái nón đàng sau. Đi tiếp ít bước hắn nghe la lớn: "Đứng lại".
Anh vệ binh đang cầm cái nón lên xem xét, quay ngang quay dọc, quay lên quay xuống rồi đánh mạnh vào chân xem thử có gì rơi ra không. Rồi anh ta quẳng nón xuống đất, quay vào hàng rào nói từng chữ:
- Một bên vuốt tóc; tóc lại ngắn. Một bên quẳng cái nón ra. Các anh có ý đồ gì? Anh nào làm, tự giác trình diện tiểu đoàn ngay. Tôi lên trung đoàn về mà chưa có ai thì các anh tự động tập họp ở hội trường.
Hắn kinh hoảng. Đau đớn chiếm cả thân thể; tội lỗi ray rứt tâm hồn. Chính hắn, chính sự hiện diện của hắn gây mối thương cảm cho một bạn nào ném ra cái nón để phải chịu một biện pháp kỷ luật. Một biện pháp chưa rõ hậu quả ra sao, hậu quả có thể từ số không đến vô tận. Bé xé cho to là chuyện thường. Mà to thì ngừng ở chỗ nào. Nhức buốc từng sớ thịt.
Đến ngã ba đường, hắn thấy một người cũng vai đeo túi xách đang hướng về trung đoàn, đàng sau cũng có một bộ đội nhưng không súng. Khi hai nhóm gần nhau, vệ binh ra lệnh hắn ngừng lại chờ nhóm kia đi vài ba chục bước mới tiếp tục. Hơn một phút sau, người đeo bị ấy rẻ vào sân trung đoàn.

Kẻ đó không ai khác hơn là chàng trẻ tuổi hôm qua đã cho hắn một cây rau dền, chàng tuổi trẻ mà hắn gọi là hiệp sĩ.
Sân trung đoàn lặng phắt, không một bóng người. Được lệnh nghỉ ở hành lang, hắn đảo mắt nhìn quanh xem người kia ở đâu. Họ đem đi rồi. Sự thiếu vắng ấy cho hắn thấy mối liên hệ sâu đậm với chàng trẻ kia. Tội ác tày trời đi từ hắn mà ra. Giá như chiều qua hắn không có đó, không xin cây rau dền thì làm sao có cảnh chàng ấy đeo bao bị đến đây chờ đi vào một nơi chưa biết sẽ về đâu.
Cây rau dền chiều qua biểu lộ tương cảm giữa hai người chiều nay là đầu mối một chuỗi ngày nặng nề cho chàng trẻ ấy và cho hắn. Sự hiện diện của người ấy cho phép hắn không tin lời quản giáo nói hắn được đưa đến một cơ quan kỹ thuật. Chắc chắn trưa nay bên tiểu đoàn kia người ta cũng đã nói với chàng ấy theo cùng phương cách.
Hắn biết rõ vấn đề nên trở về cái bình tĩnh tự tạo từ ngày vào chốn nầy. Hắn điềm nhiên hít một hơi thở thật sâu, quay đầu nhìn quanh mà mắt không để vào đâu.
Rồi đây, ta có thể gặp người trẻ tuổi ấy không?
Giá như gặp nhau được, thì hắn sẽ cho ta một cây rau dền hay ta sẽ cho hắn một cây rau dền?
Mà có rau dền mà cho không?
Nếu có, thì người ta có cho phép cho nhau một cây rau dền không?
Sau những câu hỏi vớ vẩn ấy, hắn gật gù, đóng mở đôi lòng tay, nói thầm như muốn hát:
Cây rau dền non lá
cây rau dền đỏ tía
đỏ tía như màu mắt bầm máu
của những ngày đông máu
của những ngày sôi máu
cây rau dền, cây rau dền, cây rau dền.-

--------------------------------------------------------------------