tấm giấy khen đầu đời
Từ
Sâm
Phần nhiều, ai cũng thích danh hiệu như gấy khen, bằng khen, có người bỏ tiền ..mua.
Với tôi, tấm giấy
khen đầu đời thấm đẫm nước mắt và như một vết thương đau đớn…
Tôi viết truyện
này dựa trên những tình tiết có thực, những kỷ niệm về bố tôi.
Nhân ngày giỗ bố
24.7 âm lịch, lần theo khói hương về cõi Niết Bàn gặp Người. Đã 49 năm, như mới
hôm qua, thời gian còn tươi mới...
Năm
1966 -1967, tôi lớp bốn, lớp học trong khuôn viên nhà thờ họ Từ Công làng Nguyệt.
Thời kỳ ác liệt của chiến tranh, bộ đội đóng quân trong làng, một đợt họ ghé
qua năm bữa, nửa tháng, chuẩn bị vào Nam.
Phong
trào “Kế hoạch nhỏ” đang nở rộ. Trường phát động mỗi em góp một con gà tặng chú
bộ đội. Lớp tôi, chỉ đếm trên đầu ngón tay là con “nhà khá giả” nhưng cơm chỉ
hai bữa, cháo một bữa. Nhà tôi cơm một bữa, cháo hai bữa. Áo ướt thì cởi trần
chờ khô. Nhà sáu người. Mẹ mất khi tôi lên tám, em út chưa được bốn tuổi.
Bố
tôi như gà trống nuôi đàn con chưa tẻ bầy. Ông gầy rộc, cằn cỗi như rễ tre, lúc
nào cũng lo mùa giáp hạt.
Tài
sản lúc đó là đàn gà. Con mái già nua sống sót sau những mùa dịch bệnh. Một năm
hai lứa, mỗi lứa gần chục con, chúng sinh sôi nảy nở. Chiều xuống, đàn gà ríu
rít như bầy chim về tổ.
Khi
bình minh chưa rạng, tiếng kẻng bộ đội báo thức, gà mẹ tục tác gọi bọn trẻ đang
ngái ngủ dậy kiếm ăn. Biết ông chủ nghèo nên nó nghĩ về thân phận mình để chăm
sóc đàn con. Gà mẹ như xe tăng dẫn đầu, đàn con như bầy lính trẻ hăng hái tiến
về phía cào cào, châu chấu, cào bới giun đất. Chiếc xe tăng cổ dài như tháp
pháo hướng về phía diều hâu từ trời phóng hỏa xuống, chuột cống, mèo hoang từ bụi
rậm xông ra. Sau mỗi trận đánh, chiến trường sót lại những cụm lông tơi bời trước
gió, nhưng số lính trẻ lúc nào cũng bảo toàn.
Sáng
thứ hai có giờ chào cờ, học trò thường đến sớm hơn mọi ngày.
Tiếng
gáy của gã trống choai đang vỡ giọng, tiếng cục cạc gọi con trong khoảng không
của ả mái bước đầu làm mẹ. Tiếng ồ ồ của bác chọi đầu đàn. Cả lớp, đứa nào cũng
cặp một con gà bên nách. Có đứa bỏ vào giỏ xách bằng cót khoét lỗ để cái đầu
lòi ra chiêm ngưỡng đất trời lần cuối.
Thằng
Ngon ôm con gà có mào đỏ như giọt máu. Hàng ngày nó bớt phần ăn cho người bạn
có tiếng gáy dài đến cuối thôn. Nó vuốt lông, xoa móng và đút vào cổ họng vài hột
bắp như ban cho kẻ tử tù đặc ân trước khi ra pháp trường. Con Hòe không rời chị
hoa mơ đang tuổi ăn tuổi ngủ, nó chấp nhận một cách đau đớn cuộc chia ly không
bao giờ gặp lại.
Chỉ
mình tôi không có gà. Ai có gà là có giấy khen vì thành tích “Kế hoạch nhỏ”.
Tôi ra về trong buồn tủi và ấm ức.
Đó
là một ngày nặng nề nhất. Tôi bỏ cơm. Bố tôi nói “chờ tháng nữa gà tách bầy được
không”. Tôi nấc lên “cả lớp chỉ còn một chắc (một mình) tui, thứ bảy là hết rồi,
chỉ còn hai ngày nữa.
Tôi
nói: “hay là bọ mua một con ca (gà) khác. Mạ thằng Hoan cũng mua chợ Cổ Hiền đó
tề”. Ông quay mặt nói: “có tiền thì nói mần chi”.
Bữa
tối muộn màng. Ông húp qua loa vài miếng cháo loãng rồi đi nằm sớm. Khoảng hai
ba giờ sáng. Tôi nằm mơ tè ướt quần, thấy lành lạnh. Tỉnh dậy, thấy ông ngồi
bên thềm lặng im như bức tượng.
Trăng
suông cuối tháng mờ ảo trong khuya vắng. Bóng ông cong vênh như lưỡi hái móc
trên vách sau vụ mùa thất bát.
Tôi
đến cạnh, lặng im. Ông kéo tôi vào lòng và hôn lên tóc. Giọt nước mắt của ông
làm tôi tỉnh lại. Ông ngồi đó tự khi nào tôi không biết. Nhìn hốc mắt trũng sâu
và ngấn lệ tôi biết ông đã trải qua một đêm dằn vặt.
“Ngày mai mi đưa hắn đi, chỉ tội mấy đứa con hắn ”, ông nói, tôi “dạ” và đi ngủ.
“Ngày mai mi đưa hắn đi, chỉ tội mấy đứa con hắn ”, ông nói, tôi “dạ” và đi ngủ.
Dậy
sớm hơn mọi ngày với nụ cười tung tẩy đến trường. Thầy giáo và cán bộ lớp đón
tôi. Họ đưa con mái già lên bàn cân và ghi vào sổ “3 ký”. Thầy giáo khen tôi
trước lớp và trao cho tôi tấm giấy khen viết bằng tay có chữ ký của thầy bằng mực
tím.
Thầy
nói, “lớp ta hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, thầy đang đề nghị nhà trường khen
thưởng“. Tiếng vỗ tay rào rào. Đại diện đơn vị bộ đội phát biểu, “chúc các em học
giỏi, nhất định chúng ta đánh thắng giặc Mỹ xâm lược“.
Hoàng
hôn nặng trĩu sập xuống. Đám gà con như con trẻ không mẹ mất phương hướng.
Chúng nháo nhác hỏi nhau về nhà bằng lối nào. Mười con chỉ còn tám, những thiên
thần chưa đủ lông đủ cánh đi lạc nơi đâu.
Cả
nhà tôi túa đi tìm. Trong vườn nhà, ngoài bãi, tìm mãi cũng thấy. Đây rồi, hai
chú nằm phơi bụng, chân ngược lên trời. Lũ kiến lửa đang dùng lưỡi gươm khoét
vào từng thớ thịt. Những đôi mắt tròn xoe ngầu đục, bất lực trừng trừng oán
trách tôi. Tôi ôm nó vào lòng và nghe “chiếp .. chiếp”, hai tiếng cuối cùng của
cuộc đời bạc mệnh như lời trăng trối. “Nó nhỏ quá chưa ăn được, tanh lắm“, chị
tôi nói. Tôi chôn nó trong vườn và đắp ngôi mộ nhỏ xíu, nấm mồ bằng hòn sỏi nhỏ.
Mỗi
ngày, khi bình minh thức giấc, chúng sợ hãi không dám ra chuồng. Nhưng cái đói
bắt đôi chân yếu mềm phải bước, phải lê lết đi. Bỗng ré lên tiếng kêu thảm thiết.
Bóng diều hâu sà xuống nhanh như rốc két. Con lông vàng bé bỏng bị đâm thủng ngực
và xé nát từng mảnh bởi móng vuốt sắc nhọn.
Chiều
đến, chúng tôi lại đi tìm. Trên chiến trường mỗi cái chết không bao giờ lặp lại.
Con đốm nâu bị chuột cắt ngang đùi. Con rằn bông bị rắn cạp mất một chân. May mắn
chúng tôi tìm được mấy thương binh nhỏ đưa về hậu cứ. Nhưng bệnh viện chưa có
bác sĩ, không có máu tiếp tế và mất đi bàn tay chăm sóc của mẹ, những thương
binh ấy chỉ tồn tại trên đời vài ngày ngắn ngủi.
Khoảng
tuần sau, tiếng “chiếp ..chiếp” im hẳn. Những ngôi mộ có hòn sỏi bị san bằng.
Khu vườn trống rỗng hoang vắng, xác xơ như trải qua đại dịch. Trước đây cũng
vậy, phải mất mấy năm mới gầy lại được. Bố tôi nghĩ về mùa giáp hạt gần kề.
Ông biết trước điều gì sẽ xảy ra lúc tôi nở nụ cười mãn nguyện ôm con mái ra đường.
Khi
tôi áp tấm giấy khen và niềm vui vào ngực rồi trao cho ông. Ông lẵng lặng cất
vào tủ.
Đó
là tấm giấy khen đầu tiên trong đời.
Tối
hôm đó, chị tôi lường hai lon gạo từ thùng pháo sáng đổ vào nồi. Bố tôi vục một
nắm bỏ lại vào thùng và múc nước cho đầy thêm. Cháo loãng, tôi đái một lần là hết.
Đêm lạnh mới thấm cái đói giày vò. Tôi không ngủ được, càng thức, càng đói,
luân hồi ngày này sang tháng khác như số mệnh của kiếp người.
Vài
năm sau, trước khi mất, bố tôi chỉ nói trong hơi thở một câu ngắn ngủi với tôi
“ các con như.. những ..con.. gà”.
Khi
đã trưởng thành, lúc dọn dẹp tôi gặp lại tấm giấy khen ngày trước. Tôi đặt lên
bàn thờ, khấn và bật lửa đốt như tạ tôi với đấng vĩnh hằng.
Mỗi
lần giỗ bố, tôi lại nghĩ đến đàn gà, như vết thương thời gian càng ngày càng
đau đớn...
Nha
trang, cuối tháng 7 năm 2011
No comments:
Post a Comment