cho lịch sử một ý
nghĩa
making sense of
history
R.A. Guisepi, ttt dịch
Ý
nghĩa
của quá khứ là ánh sáng chiếu đường cho hiện tại và định hướng tầm nhìn về những
khả thể của tương lai.
Có
hai quan điểm về diễn trình lịch sử, nhưng chưa có bên nào đưa ra một kết luận
khả dĩ minh chứng được. Một bên cho rằng lịch sử không gì hơn sự tom góp lộn xộn
về những điều xẩy ra bừa bãi không thứ lớp. Do đó không tìm ra trong lịch sử một ý
nghĩa nào, không như thế giới tự nhiên có nghĩa lý và mục đích.
Quan
điểm đối nghịch, tức là ý kiến của đa số, lập luận rằng lịch sử có sự sắp xếp,
có mục đích và có mô biểu riêng. Chủ xướng nầy bắt nguồn từ các truyền thống
tôn giáo của Tây Phương: Do Thái Giáo, Thiên Chúa Giáo, Hồi Giáo nhưng chính yếu
là Thánh Kinh. Những tin tưởng tôn giáo trong khu vực nầy kết luận rằng lịch sử
là sự thành tựu kế hoạch về thế giới của God.
Thánh Augustin quảng diễn luận án nầy vào thế kỷ thứ 5. Đến thế kỷ 17,
nhà thần học Jacques-Benigne Bossuet đưa ý nghĩ nầy xa hơn trong cuốn Discours sur l’histoire universelle năm
1681. Theo suy nghĩ của giáo sĩ Pháp nầy, hưng thịnh suy bại hủy diệt của các đế
quốc tùy thuộc vào sự sắp xếp bí mật của Thiên Hựu.
Các
khám phá khoa học của Newton đã làm thay đổi cách người đời nghĩ về thế giới.
Có thể xem lịch sử là một diễn trình do God thúc đẩy nhưng phần lớn tùy thuộc
các quyết định và hành động của nhân loại. Học phái Ánh Sáng nhấn mạnh điểm nầy
khi xem nhân loại đóng vai trò tối thượng điều động lịch sử.
Thế
kỷ 19, lịch sử được triết gia Đức Hegel mô tả như một tiến trình của các sự
thay đổi, gây nên bởi hành động, phản hành động và tổng hợp. Lịch sử không thể
mô tả một cách máy móc. Con người có tự do; nhưng tự do ấy chỉ có thể thực hiện
bằng các lần vượt qua các nghịch cảnh, những cản ngăng. Lịch sử không phải là một
chuổi những chuyển tiếp êm ả, trái lại đầy tương khắc và tương tranh.
Karl
Marx cũng trình bày một lối nhìn tương tự. Lịch sử phải tuân theo những định luật
như thiên nhiên. Lịch sử có một hướng đi, tuân theo những thực tại kinh tế, và
theo đường lối làm ra sự giàu có và cách dùng sự giàu có nầy. Tất yếu, các giai
cấp thành hình, đánh nhau giành quyền kiểm soát các phương tiện sản xuất. Mục
tiêu của những tương tranh nầy là một xã hội không có giai cấp, càng đấu tranh
càng tới gần đích.
Hai
tác giả thế kỷ 20 đã đưa ra các triết lý lịch sử rất phức tạp và có tầm ảnh hưởng
lớn: Oswald Spengler và Arnold Toynbee. Spengler xuất bản cuốn sách bi quan Decline of the West trong khoảng
1918-1922. Ra đời trong bóng đen Thế Chiến phủ lên Âu Châu, tác phẩm được tiếp
đón rộng rãi khắp nơi mặc dù được viết trước khi chiến sự bắt đầu. Sách trình
bày văn hóa, hay các nền văn minh, với những danh từ sinh học, như những cơ thể
tự nhiên. Theo ông, các nền văn hóa được sinh ra, trưởng thành, rồi chết theo một
diễn trình sinh hoại. Nói cho đúng, khái niệm nầy có chỗ hở; nếu các nền văn
hóa là những cơ cấu sinh học cá biệt, chúng không thể ảnh hưởng nhau tốt hay xấu.
Tuy vậy luận trình của ông ăn khớp với sự vỡ mộng mà cả thế giới đang cảm nhận
sau cuộc chiến.
Toynbee
cũng vậy, ông nghiên cứu sự phát triển của các nền văn minh. Ông bác bỏ khái niệm
cho rằng quá khứ có thể được nhìn theo đường thẳng tiến bộ và phát triển. Ông
không đồng ý với lời Spengler rằng Tây Phương đã sụp đổ. Trong loạt 12 cuốn Study of History (1934-1961), Toynbee
tuyên bố rằng nền văn minh hình thành trong xã hội qua sự ứng phó với các thách
thức. Nếu thách thức quá lớn hoặc quá nhỏ thì không có sự tiến bộ nào đáng kể.
Do đó dân Eskimo không bao giờ ra khỏi nền văn hóa thô sơ vì sự thách thức của
môi sinh quá lớn. Những xã hội trong khu vực thời tiết luôn luôn ấm áp đều cho
rằng thách thức môi sinh quá nhỏ, không cần làm gì khác. Những vùng khí hậu điều
hòa như Bắc Mỹ hay Bắc Âu, loài người có thể đối đầu các sự thử thách và do đó
có nền văn minh cao hơn.
Lịch sử
Ý nghĩa của quá khứ là ánh sáng chiếu đường cho hiện tại
và định hướng tầm nhìn về những khả thể của tương lai. Không có sự hiểu biết đầy
đủ về lịch sử, các biến cố hiện thời chỉ là những biến động rời rạc. Lịch sử là
một khoa học, một ngành trí thức dùng những phương pháp và phương tiện đặc thù
để đạt mục đích của mình.
Viết sử cần tài liệu. Các sử liệu bằng chữ viết gồm: công báo của chính phủ, nhật ký, thư từ, tiểu sử và các thứ khác…. Để viết cổ sử, đặc biệt của Trung Đông và Tàu, phải dùng danh sách các vị vua; bản liệt kê những trận đánh, những biến cố quan trọng, cũng như các đền đài, và bản ghi những thiên tai. Khoa khảo cổ cung cấp nhiều sử liệu. Năm 1901, người ta tìm thấy trụ đá ghi các luật do vua Babylone Hammurabi ban hành, thế kỷ 18 tTC.
Viết sử cần tài liệu. Các sử liệu bằng chữ viết gồm: công báo của chính phủ, nhật ký, thư từ, tiểu sử và các thứ khác…. Để viết cổ sử, đặc biệt của Trung Đông và Tàu, phải dùng danh sách các vị vua; bản liệt kê những trận đánh, những biến cố quan trọng, cũng như các đền đài, và bản ghi những thiên tai. Khoa khảo cổ cung cấp nhiều sử liệu. Năm 1901, người ta tìm thấy trụ đá ghi các luật do vua Babylone Hammurabi ban hành, thế kỷ 18 tTC.
Thời
nay các chứng liệu có chữ viết rất dễ tìm: các chính phủ, các tổ chức công tư đều
giữ hồ sơ ghi mọi việc. Nhiều khi tình cờ mà gặp các thứ ấy. Khi bị đánh bại
trong thế chiến 2, Nazis chạy và để lại một núi tài liệu, nhờ đó có thể dựng lại
lịch sử của Đức từ 1933 đến 1945.
Nếu
hồ sơ tài liệu ngày nay được viết hay in trên giấy thì người xưa ghi trên đá,
trên da hay trên vỏ cây hay lá, vẽ trên các đền đài, hay trong nhà thì ghi trên
chén bát đồ sứ hay tiền chì. Được biết nhiều nhất về điểm nầy là triều đại vua Ấn
Độ Asoka với các lệnh và chiếu chỉ ông ban hành, lời của Phật. Chúng được khắc ghi trên những
cột đá dựng (stella) hay các khối đá thấp trưng bày các nơi dân chúng tụ tập
sinh hoạt thường nhật.
Khoa
học hiện kim gọi là sử ký – hay viết sử - được phát triển từ thế kỷ 19; xuất phát
đầu tiên ở đại học Gottingen, Đức, rồi các trường khác trong xứ cũng làm theo.
Sau đó dần dà, ảnh hưởng của Đức đã lan khắp Âu Mỹ. Tuy vậy, vượt qua quyết định
của Đức dùng đường lối khoa học và có phương pháp vừa nêu, chúng ta có thể thấy
cả mấy ngàn năm kinh nghiệm về lịch sử ở các xã hội khác biệt.
Ý nghĩa của quá khứ
Quả
đất, thiên nhiên và vũ trụ đều có quá khứ nhưng không có sử ký. Các cá nhân
cũng không có sử ký tuy ai cũng có quá khứ. Quá khứ viết thành văn của cá nhân
gọi là tiểu sử. Duy chỉ những xã hội nhân quần mới có sử ký; dựng lại quá khứ
căn cứ vào ký ức chung. Nhưng không phải mọi cố gắng dựng lại quá khứ đều cho
chúng ta kết quả là sử ký. Trước khi có sử ký, nhân loại đã có cách kể lại những
biến cố dưới hình thức huyền thoại, giả sử và anh hùng ca. Cho dù các xã hội tiền
sử lưu giữ các tài liệu viết, chúng chưa hẳn đã là sử. Thường thường là danh
sách các vị vua và liệt kê các trận đánh. Muốn thành sử ký theo đúng nghĩa, các
bài tường trình không những kể chuyện đã xẩy ra mà xem con người và thời cuộc
liên hệ ra sao; phải xét nguyên nhân và kết quả; về phương pháp luận còn phải
xem sử liệu có giá trị hay không; nhất là vua chúa bao giờ cũng được mô tả là tốt
hơn giỏi hơn, không như cuộc sống thật có đủ tốt xấu.
Việc làm của Do Thái
Nhà
văn cổ đại Hy Lạp Herodotus được xem là cha đẻ của sử từ khi chính trị gia hùng
biện La Mã Ciceron gắn danh hiệu nầy cho ông, người tìm hiểu lịch sử, sinh 500
năm trước Jesus. Tuy vậy trước Herodotus, Do Thái đã thành đạt trong việc viết
lịch sử xứ Israel tiền sử và các xứ lân cận như Ai Cập và lưỡng hà địa. Những
cuộc nghiên cứu nầy không nhằm tìm ra nguồn gốc của xứ sở theo một khuynh hướng
chính trị nào đó. Công việc nầy là của các nhà văn viết các anh hùng ca và kể lại
các huyền thoại.
Trong
thế giới tiền sử, chỉ một mình Do Thái là xứ có ý thức về lịch sử. Lịch sử nầy
ăn sâu vào một biến cố duy nhất không bao giờ quên – cuộc di dân Exodus – rời bỏ
Ai Cập dưới sự lãnh đạo sinh động của lãnh tụ tên Moses. Sau lưng Moses còn có
hằng trăm nhân vật là hậu duệ từ thời xa xưa của Abraham. Tuy vậy, lịch sử nầy
chỉ luôn luôn nằm trong ký ức của dân chúng, truyền khẩu mà còn.
Do
Thái đã phải tốn mấy thế kỷ mới kết tập bộ sử quốc gia đầu tiên và đúng thực. Tài
liệu được chép vào Thánh Kinh Do Thái,
gọi là Cựu Ước. Điều đáng chú ý nhất là bộ sử bao gồm các sai lầm, các thất bại
cũng như thành công của một quốc gia qua một lịch sử lâu dài. Không có sự tô vẽ,
sắm sửa để trình bày một Israel tốt đẹp trước mắt hậu thế và người đời. Nhân vật
trong chuyện kể đều có nhược điểm và ưu điểm.
Sử ký quốc gia Do Thái còn mang tính chất khác biệt vì
các lý do khác. Khi kết nhập chuyện Sáng Thế (tạo lập thế giới), bộ sử nầy biểu
hiện cố gắng đầu tiên xây dựng một bộ sử ký toàn diện phổ quát, bao trùm cả
loài người. Nội dung Thánh Kinh Do Thái trở thành sự giải thích, mô tả lịch sử,
nó xác lập rằng lịch sử vừa có sự bắt đầu vừa có mục đích. Đường hướng lý luận
nầy tương phản với các xã hội khác xem thời gian trôi qua như một chuổi các chu
lỳ lập lại, giống như thay đổi bốn mùa.
Sáng Thế ký, Cựu Ước |
Thiên
Chúa Giáo tiếp nhận và chấp nhận ngay, đồng thời sửa đổi thích ứng cho việc
dùng riêng. Thế kỷ thứ 5, Thánh Augustin đào xới thêm trong cuốn City of God. Tác giả trình bày lịch sử
như một sự tiến gần đến xứ của God. Cuốn sách nầy làm gốc cho những lý thuyết tương
lai chủ trương một sự tiến tới không thế tránh được. Có nhóm lý tuyết gia nhấn
mạnh đến sự tiến bộ tự nhiên và cải thiện trong thân phận con người. Có nhóm
khác, đặc biệt là Karl Marx, chủ xướng rằng lịch sử diễn tiến qua các cuộc cách
mạng bạo động để đến một xã hội không giai cấp, một thiên đường hạ giới.
Thành quả của Hy Lạp
Khi
đã xuất hiện đầy đủ, các tiểu quốc Hy Lạp vẫn chưa có quá khứ. Những nền văn
minh có trước như Cretan, Mycenean đã biến mất, không để lại một dấu tích trong
ký ức chung của Hy Lạp. Dân chúng chỉ biết các anh hùng ca cổ truyền như sách của
Homer, truyện tích của Hesiod viết theo lối thần thoại.
Sử
gia đầu tiên ở Hy Lạp là Hecateus, gốc Tiểu Á, sống vào thế kỷ 6 hay 5 tTC. Nay
chỉ còn sót một vài phần nhỏ của hai cuốn sách của ông là History và Tour Around the
World. Ông đã chê bai những chuyện người Hy Lạp kể về quá khứ và đi đến kết
luận: “Chuyện thì rất nhiều nhưng theo tôi chúng rất lố bịch”. Hecateus du hành
Ai Cập. Sau khi viếng thăm các giáo sĩ (cũng là người giữ các hồ sơ, ký sự),
ông nói ông nay đã có thể truy nguyên gia phả đến 16 đời. Một người địa phương cho
ông biết chứng cớ rằng vị giáo lãnh Ai Cập có thể tìm thấy tổ tiên đến 345 thế
hệ. Sự xưa cổ nầy đã gây cho ông nhiều ấn tượng, giống như về sau Herodotos cũng
vậy. Ông quyết định truy tìm nguồn gốc các quốc gia viếng thăm.
Sử
gia Hy Lạp, đặc biệt Herodotus và Thucydides, đã làm hai sự đóng góp có ý nghĩa
trong việc viết lịch sử. Đó là xem xét cân nhắc các chứng tích, xem cái nào
đúng cái nào sai. Hai ông đã viết về lịch sử quá khứ gần. Herodotus nghiên cứu Chiến
Tranh Ba Tư viết thành cuốn History.
Thucydides viết lịch sử chiến tranh Peloponnesia xẩy ra trong đời mình. Bàn về
sự nghiên cứu nầy, ông nói: “Khi tham khảo các tài liệu về các biến cố, tôi
không hấp tấp dùng ngay khi chúng đến trong tay. Tôi không tin nghe những ấn tượng
trong đầu, mà chú tâm đến những điều tôi thấy, những điều người khác thấy giúp tôi.
Sự chính xác của các tường trình cần được xem xét một cách nghiêm khắc và trắc
nghiệm nếu hoàn cảnh cho phép”. Phương pháp làm sử nầy được phục sinh bởi sử
gia Đức thế kỷ 19.
Thành quả của Tàu
Cho
đến thời gian gần đây, nước Tàu đã sản xuất một khối lượng sử viết, nhiều và
dài không xứ nào sánh kịp. Mục tiêu chính yếu, nòng cốt của việc viết sử nầy là
chính trị. Nhớ lại sự việc đã được thi hành ra sao sẽ hướng dẫn giới hữu trách
trong các quyết định hay thiết lập các chính sách quốc gia. Khổng Tử tự cho
mình trọng trách san định sử kinh để truyền cho đời sau một cách trung thực.
Công
việc viết sử bắt đầu với các thầy ký, có nhiệm vụ giữ các chứng tích về các lần
cúng tế tổ tiên. Vua chúa giữ các thầy ký trong triều để hỏi xưa kia cúng tế ra
sao. Dần dà các thầy trở thành kẻ giữ kẻ lưu trữ hồ sơ, trước khi thành những
nha lại quan trọng hơn tuy cùng nhiệm vụ. Sử gia nổi bật nhất là Tư Mã Thiên.
Ông là một chiêm tinh gia, một chuyên viên về lịch và là sử quan quan trọng nhất
của triều đình. Sử Ký là tác phẩm
quan trọng có ý nghĩa nhất, cho đến thế kỷ 2 tTC. Tư Mã Thiên sắp xếp thứ tự
các biến cố phức tạp, ghi rõ xuất xứ, giữ các bản thời ký, thêm các chi tiết địa
dư của các tiểu quốc, ghi thêm thư mục tham khảo. Sáu bảy thế kỷ sau, Lưu Tri Kỷ
(661-721) viết luận văn đầu tiên trên thế giới về phương pháp của sử học. Bước
qua thế kỷ 11, Tư Mã Quang viết cuốn sử rõ ràng và đầy đủ của nước Tàu.
Lối viết sử của Muslim
Giống
như TCG và Do Thái Giáo, Hồi giáo lấy các biến cố lịch sử làm nòng, đặc biệt là
đời sống của người sáng lập Muhammad. Đa số các ký liệu tôn giáo của Muslim được
viết vì lý do tôn giáo để khích lệ người theo hay để giải thích các án lệ. Nhiều
học giả phải đứng xa xa, rất cẩn thận khi xét về nguồn tham khảo, tuy những tài
liệu nầy chính yếu dựa trên những nét chính về tiểu sử của các nhân vật nổi tiếng.
Cho
đến bây giờ, tác giả quan trọng nhất về lịch sử Hồi giáo là Ibn Khaldun, của cuốn
Muqaddimah. Cuốn sách duy nhất nầy nói về lịch sử phổ quát toàn diện, đồng thời
mang theo lời giải thích vì sao các nền văn minh hưng thịnh, suy tàn và tiêu hủy.
Ông đưa ra các định luật điều dẫn số phận các xã hội; ông cũng đưa ra các qui
luật lượng định sử liệu ngõ hầu tái tạo quá khứ một cách trung thực. Đầu thế kỷ
20, Toynbee đã ca ngợi cuốn sách có giá trị to lớn nhất trong thể loại nầy.
Sử học thời nay
Việc
viết sử trong thời Trung Cổ không biến mất hoàn toàn nhưng không có gì mới lạ
hay ho. Thời Phục Hưng và thời Ánh Sáng đã đem lại nhiều thay đổi trọng yếu.
Quan trọng nhất là học cách phân tích các nguồn sử liệu ngõ hầu bảo đảm sự xác
thực và loại bỏ hư vọng. Lãnh vực phê bình tài liệu nầy, gọi là diplomatics, xuất
hiện thế kỷ 17 khi Jean Mabillon xuất bản cuốn De Re Diplomanica 1681. Giáo sĩ người Pháp nầy đã công thức hóa các
nguyên tắc ấn định tính chất khả thực và ngày tháng các sử liệu Trung cổ. Ngành
nầy đã bành trướng mạnh mẽ đi đến việc phê phán các hồ sơ cũ kể cả Thánh Kinh.
Một
thành quả khác của thời đại là việc thế tục hóa sử ký; sử ký được tách khỏi sự
kiểm soát của God, của thần linh hay của định mệnh. Sử ký đơn thuần là chuyện của
xã hội loài người. Những biến cố, những định chế được giải thích như là kết quả
cả sự phát triển, tùy thuộc vào hành động và quyết định của người. Các nhà chủ
trương thế tục cứu xét toàn diện các ảnh hưởng nào đã hình thành xã hội. Cuốn sử
danh tiếng nhất trong chiều hướng nầy là Decline
and Fall of the Roman Empire, của Edward Gibbon một kiệt tác trong Anh ngữ.
Lý thuyết gia hàng đầu của trường phái là Giambattista Vico (1668-1744), nhưng
tác phẩm của ông bị bỏ quên cho đến thế kỷ 20.
Thành quả ở Đức
Trong
hai thế kỷ 18 và 19, các sử gia nhà nghề của Đức đã hoàn tất một khối lượng to
lớn các công trình viết sử. Các công trình nghiên cứu sẽ giúp họ tìm ra chỗ dạy
xứng đáng trong các đại học hay có một vị thế khả kính đối với đồng nghiệp. Nhưng
sự dồi dào nầy có được phần lớn nhờ không khí tự do trí thức và vì chính quyền không
đá động đến sinh hoạt văn hoá nầy; ngoài ra còn mở cửa các kho tài liệu cho các
sử gia tham khảo: ví dụ văn khố Anh thành lập 1838; văn khố Vatican thành lập
1883. Ngày nay sử gia và học giả không thiếu sách báo ở các thư viện công hay tư;
hai nơi quan trọng nhất là thư viện Quốc Hội Mỹ và British Museum.
Thế
kỷ 18, Johann Gottfried von Herder đã thúc đẩy việc nghiên cứu lịch sử ở Đức. Ông
tin rằng sứ mệnh của sử gia là tái tạo những gì thực sự đã xẩy ra; mọi giai đoạn
của mọi quốc gia cần được nghiên cứu cẩn thận như nhau. Đường lối của ông có người
đi theo ở thế kỷ sau. Đó là Leopold von Ranke, người tin tưởng rằng lịch sử tiến
hóa như những sự phát triển riêng biệt của cá nhân, dân tộc và quốc gia. Ông đặc
biệt chú trọng đến tính chất liên tục của sự phát triển văn hóa. Von Ranke nhấn
mạnh tính chất khách quan là điều kiện cần thiết nếu muốn tả lại quá khứ. Ảnh hưởng
của ông còn tiếp cho đến thời sau thế chiến thứ nhất.
Nói
chung, sự viết sử ở Đức mang tính chất quốc gia chủ nghĩa, ca ngợi một quốc gia
Đức. Khuynh hướng nầy được hình thành từ sự thảm bại mà Napoleon đã quật lên đầu
các tiểu quốc Đức trước năm 1815. Trung tâm của phong trào quốc gia nầy đặt tại
Phổ, tại đại học Berlin (thành lập 1809). Rồi cũng chính Phổ thống nhất Đức năm
1871 và cũng làm cho Pháp nếm mùi thảm bại. Sau cuộc thống nhất, giới cầm bút tự
hướng về việc thẩm định giá trị và ca ngợi đế quốc Đức.
Mặc
dầu thái quá, chủ nghĩa quốc gia đã ảnh hưởng sự tăng trưởng ngành sử học ở các
nước khác. Jules Michelet đã viết xong cuốn sử đầu tiên về nước Pháp thời Trung
Cổ dựa theo các tài liệu lưu trữ. Ở Anh, Thomas Babington Macaulay cho lưu hành
cuốn History of England nhiều người đọc, tuy sách nhiều chỗ sai vì chủ nghĩa quốc
gia.
Sử
ký Mỹ thời lập quốc
Trước khi có ảnh hưởng của Đức, Mỹ có những nhà văn gạo
cội viết về lịch sử Hoa Kỳ (ít ai đọc vào thế kỷ 20). George Bancroft là người
Mỹ đầu tiên viết bộ sử đầy đủ từ thời lập quốc cho đến thời chiến tranh Cách Mạng.
Tác phẩm History of the United States
gồm tám quyển ấn hành trong vòng 40 năm từ 1834, dựa trên nhiều nguồn tài liệu
kể các các thư viện Âu Châu. William Prescott vượt biên giới để trình bày Tây
Ban Nha chiếm Mexico như thế nào; ba cuốn sử của ông xuất bản 1843 dành số
trang khá lớn nói về đế quốc Tây Ban Nha, ông có dùng thêm tài liệu của xứ nấy.
Henry Adams, hậu duệ của vị tổng thống thứ hai vẫn còn giữ địa vị tác giả tập sách
“trụ cột” (landmark) trong ngành; tuy chỉ nói về một thời gian ngắn History of the United States During the
Administrations of Thomas Jefferson and James Madison' (1889-91).
Nhiều học giả đã đến Đức mà học phương pháp sử rồi đem
đi khắp nơi trong đó có Hoa Kỳ. Herbert Baxter Adams được xem là nhà tổ chức
nhiều ảnh hưởng đã biến đại học John Hopkin thành một trung tâm nghiên cứu lịch
sử, như các đại học Đức qui tụ các sử gia.
Trước khi thành tổng thống, Woodrow Wilson viết A History of the American People (1902) với
tầm nhìn rộng rãi hơn, không tự giới hạn trong chính trị.
Xa hơn chính quốc, Jame Henry Breasted chú ý đến khảo
cổ và Ai cập học; ông đã thành lập trung tâm Đông Phương học ở Chicago, làm nơi
tàn trữ di vật cổ Ai Cập.
Nhiều học giả muốn đào sâu lịch sử tương đối ngắn của
Mỹ, nhưng chi tiết hơn, nhiều khía cạnh hơn. Người ta tiếp tục tìm hiểu và để ý
đến một luận điểm của Charles A. Beard. Đề tài của ông khá khác thường, khía cạnh
kinh tế trong hiến pháp như tên sách đã chỉ [Economic Interpretation of the
Constitution, 1913]. Cuốn sách đã trình bày lịch sử Mỹ như một chuổi dài kế tiếp
nhau những tương tranh của các thế lực kinh tế.-
Ghi chú: history được dịch tùy lúc là sử
ký hay lịch sử; tác giả còn dùng
thêm danh từ historical writing gần với
sử ký.
2019 cập nhật: website gốc đã ngưng hoạt động vì thiếu tiền; do đó không có link xuất xứ
No comments:
Post a Comment