add this

Thursday, January 27, 2022

người xưa

 

 Fantaisie Gérard de Nerdal   (1808 – 1855)


 Il est un air pour qui je donnerais
 Tout Rossini, tout Mozart et tout Weber,
 Un air très vieux, languissant et funèbre ,
 Qui pour moi seul a des charmes secrets.

 Or, chaque fois que je viens à l'entendre,
 De deux cents ans mon âme rajeunit ...
 C'est sous Louis treize; et je crois voir s'étendre
 Un coteau vert, que le couchant jaunit.

 Puis un château de brique à coins de pierres,
 Aux vitraux teints de rougeâtres couleurs,
 Ceint de grands parcs, avec une rivière
 Baignant ses pieds, qui coule entre des fleurs;

 Puis une dame à sa haute fenêtre,
 Blonde aux yeux noirs, en ses habits anciens,
 Que dans une autre existence peut-être,
 J'ai déjà vue ... et dont je me souviens!

The lady I have seen already in one other existence and I still keep a vivid memory of.

 người xưa Gérard de Nerdal (1808-1855)

  Kìa một giai điệu xa xưa, xanh xao như dáng em gầy

  u sầu như đưa ma nhưng tôi đổi cả rừng âm nhạc mà lấy,

  từ Rossini, từ Mozart cho đến Weber,

  vì những duyên thầm bí mật mình tôi thấy.

  Mỗi lần nghe là mỗi lần xóa bớt hai trăm năm khỏi sổ đời

  mà hồi sinh mà hồi xuân, ung dung thời Louis Mười Ba

  ngắm một ngọn đồi trải rộng mút mắt màu xanh lục

  ngoan ngoản dưới ánh chiều vàng.

  Rồi một lâu đài bằng gạch cẩn đá quý,

  lắm cửa kính màu hồng ngọc;

  có những hoa viên bao quanh,

  một con sông xinh đến gần chân tường mà tưới lũ hoa yêu.

  Rồi một người đẹp hiển hiện nơi cửa sổ tầng cao,

  tóc vàng óng mượt, đôi mắt đen,

  trang phục thời huyền sử,

  người đẹp tôi đã từng thấy từng gặp ngàn kiếp trước,

  ở những cảnh giới nào khác, tôi còn nhớ rõ không phai.

  The lady I have seen already in one other existence and I still keep a vivid memory of.

  Fantasia Gérard de Nerval translated by TTT

  And there’s an air, a very old one,

  Languishing and funereal for which

  I would swap the whole haven of music

  From Rossini, Mozart to Weber ....

  for the why of its hidden mystical charms.

  Each time I hear it again shows up a time

  when two hundred years were crossed out

  from my age log for a firm rejuvenation.

  Back under the reign of Louis XIII

  I'm able to watch a hill spreading

  its green to the endlessness

  goldened by the setting sideral.

  Then there’s a castle, brick walls inlaid with gemstones,

  Reddish stained-glasses, surrounded by large gardens

  Endowed with a river that flows to water its feet

  Among flowers in myriad.

  Then is bursting into view at her high window,

  Blond, black eyes, vintage fashioned cloak

  The lady I have seen already in one other existence

  and I still keep a vivid memory of.


The lady I have seen already in one other existence and I still keep a vivid memory of.The lady I have seen already in one oth

  Mozart violin sonata K304


The lady I have seen already in one other existence and I still kee


Monday, January 24, 2022

mâm cơm chiều ba mươi



mâm cơm chiều ba mươi tết

Ngô Văn Thu

Khi tôi cùng người bạn đến quán cơm của “Mẹ Huế”, thì bàn trong, bàn ngoài của quán đã đông khách, đành phải chờ.

Quán cơm của “Mẹ Huế” được đông khách như vậy, vì quán không phải dựng lên để bán cho khách thập phương lỡ bước ghé vào, mà quán, gần như riêng biệt bán cho quân nhân và các viên chức chính phủ, làm việc trong toà hành chánh tỉnh ra ăn mà thôi, nên không có bóng dáng thường dân vào quán.

Tôi không thuộc quân số của tiểu khu Quảng Tín, mà thuộc quân số của trung đoàn bộ binh, trung đoàn của tôi lại đồn trú trên lãnh thổ tỉnh Quảng Tín, cách thị xã Tam kỳ 13km, nhưng vì có mấy trạm tuyển mộ tân binh và trạm kiểm soát quân sự do tôi phụ trách, nên tôi thường có mặt ở Tam kỳ.

Quán của “Mẹ Huế” nằm trong một khu bình dân của thị xã Tam-kỳ, cách toà hành chánh tỉnh Quảng Tín vài cây số, tiện lợi cho quân nhân và viên chức từ toà tỉnh chạy xe ra ăn.

Không ai biết quán (cũng là nhà của “Mẹ Huế”) cất lên tự lúc nào trên khoảnh đất thoáng rộng, đủ chỗ cho hàng loạt xe honda đậu khi vào quán dùng cơm, lại có bụi tre phủ bóng mát trước nhà nữa.

Khi tôi biết được quán của “Mẹ Huế” và thường xuyên đến ăn thì quán đã đông thân chủ. Tôi nhập cuộc vào chốn cơm hàng cháo chợ nầy, vì đời lính xa nhà. Lần hồi, cơ duyên đưa đẩy, tôi như chỗ người nhà của quán cơm “Mẹ Huế” luôn.

Tôi không biết tên của “Mẹ Huế”, chỉ nghe người ta kêu vậy tôi cũng đành theo khuôn phép đó. “Mẹ Huế” ước chừng năm mươi lăm, sáu mươi tuổi gì đó, thân hình “Mẹ Huế” trông mảnh khảnh, nhanh nhẹn so với tuổi đời của mẹ. “Mẹ Huế” lớn tuổi hơn đám khách chúng tôi khoảng mười lăm tuổi. Không thấy “Ba Huế”có mặt bên “Mẹ Huế”. Có lần không nén được nỗi buồn của mình vì tình duyên đứt đoạn giữa đường, ”Mẹ Huế” hé lộ đôi lời tâm sự. Mẹ kể: thời còn con gái, Mẹ có quán cơm bán lưu động trên tàu lửa xuyên Việt. Cuộc đời Mẹ đong đưa ngược xuôi trên con tàu, nay đây mai đó, ”sáng Huế, xế Quảng”. Và đã từng nhỏ giọt buồn cho từng ga, khi phải chứng kiến những cảnh đưa tiển người thân đi xa. Nhất là thời chiến tranh bùng nổ mạnh trên đất nước.

Đã có hàng chục va-gon tàu, chở quân đội ra tiền tuyến, và cũng có hàng chục va-gon khác, chở thanh niên các miền vào quân trường huấn luyện. Rồi buồn thay! Có những lần tàu trở về, một vài va-gon đó, lại mang theo quan tài của người xấu số trong họ, đã ra đi ngày nào. Bài hát Biệt Ly của Doãn Mẩn thật thấm thía trong hoàn cảnh nầy.(Biệt ly tiếc thương từ đây….Ôi, còi tàu như xé tâm lòng!…)

Biết vậy, nhưng trái tim Mẹ vẫn bị thổn thức bởi một chàng trai hào hiệp, đã cứu mẹ thoát một tai nạn, khi tàu bị mìn lật trên đoạn đường Lăng Cô - Huế. Người đó không ai khác hơn là chàng sĩ quan tùng thiết trên tàu lửa, người có nhiệm vụ bảo vệ tàu. Người ấy săn sóc cho Mẹ thật tận tình, không có ơn nghĩa nào đền đáp được. Thế rồi từ đó, hai người dành cho nhau nhiều cảm tình “đặc biệt”. Với hai đứa con, một trai 17 tuổi và một gái 15 tuổi ra đời, là kết quả cuộc tình đó.

Nói đến đây,”Mẹ Huế” bỗng dừng lại, không kể tiếp phần cuối những ly kỳ, bí hiểm hơn, tại sao “Mẹ Huế” lại có mặt tại Tam Kỳ nầy và, người hùng của “Mẹ Huế” sau đó đã bị mất tích trên chiến trường tết Mậu Thân Huế như thế nào (vì hết thời gian biệt phái qua đường sắt, nên phải trở về đơn vị tác chiến cũ). Hai đứa con của “Mẹ Huế”, chúng biết thân phận mồ côi cha, nên lo toan giúp mẹ mọi bề trong quán cơm nầy.

Tam Kỳ 1960s
Tuy “Mẹ Huế” là người Huế, nhưng ước chừng Mẹ không phải gốc chính Huế, nên nhiều khi “Mẹ Huế” nói chuyện, phát âm nhiều chữ hơi nặng không như Huế “đại nội”. Nhưng dù ở miền nào của Huế, món ăn của ”Mẹ Huế”cũng có thứ đặc biệt như mắm ruốc đầy chất Huế.

Ban đầu ăn, tụi nầy thấy mùi hơi khó chịu vì chưa quen, nhưng “Mẹ Huế” cứ “cưng” hoài món hàng nầy vào các món ăn của Mẹ nên ăn riết đâm ghiền, không còn phàn nàn nữa. Quả là “Mẹ Huế”có tài “lãnh đạo và chỉ huy”.

Thực đơn, bữa ăn của “Mẹ Huế” dành cho thực khách, đám thanh niên xa nhà như chúng tôi vẫn thường là: cá kho mặn, canh bầu hoặc dưa gan, hột vịt dầm nước mắm ớt và một dĩa thịt heo ba chỉ cuộn với rau sống chấm mắm nêm lõng. Bọn ”hạm” chúng tôi tuổi ngoài đôi mươi, thấy món gì “Mẹ Huế” cống hiến trong bữa ăn cũng hài lòng khen ngon cả, vì sức trai, nhai đá cũng giòn kia mà!

Cứ thế “Mẹ Huế”, nay món nầy mai món khác ,“vổ béo” đàn con của Mẹ vì nghiệp nước phải xa nhà, không nơi nương tựa bữa ăn ấm cúng của gia đình. Đặc biệt có những bữa ăn không trùng ngày lễ lạt giỗ kỵ gì cả, thế mà bổng dưng thịnh soạn hơn thường lệ. Có thịt heo quay, có cua biển luộc với dĩa muối tiêu chanh hấp dẫn, còn có tô cháo lươn da vàng ngậy trên bàn nữa. Ai nấy cũng lấy làm lạ tò mò hỏi nhau: Cái gì đây? Sinh nhật của Mẹ? hay tình yêu của Mẹ lên ngôi lần nữa? Sai bét hết, không có gì cả: Chỉ là, “Mẹ Huế”vừa gặp mặt ông Huyện Đề. Ông Huyện Đề đẹp trai của “Mẹ Huế” vừa cho Mẹ gặp mặt nên Mẹ vui, Mẹ hỷ xả “cúng dường” cho chúng sanh là chúng tôi một bữa ăn thật đặc biệt để góp phần vào hạnh phúc riêng của Mẹ. (Hàng tuần “Mẹ Huế” đều vui chơi với ông Huyện Đề).

Chúng tôi thường bảo nhau: cầu cho “Mẹ Huế” gặp ông Đề hoài hoài để tụi mình sướng. Song tiếc thay, đôi khi trông mặt “Mẹ Huế”cũng eo xèo buồn, vì lý do: ông Đề bận đi nghỉ phép xa, không cho “Mẹ Huế” gặp mặt như những lần trước nữa.Trông “Mẹ Huế” buồn mà chúng tôi cũng buồn lây, vì thiếu “hàng xịn” trên mâm cơm.

”Mẹ Huế” tính tình hào phóng, có đồng nào ngoài khoảng tiền căn bản mồ hôi nước mắt của mình làm ra là Mẹ “xả láng” với tụi tôi ngay. Vì Mẹ nghĩ : “Tiền làm ra để trên gác, tiền cô bác để ngoài hiên”.

“Mẹ Huế” có thói quen: dù phải bận rộn với công việc, nhưng trên môi của “Mẹ Huế” lúc nào cũng gắn chặt điếu thuốc lá cẩm lệ của Quảng Nam. Mẹ luôn nheo nheo đôi mắt để tránh làn khói mỏng tỏa ra từ điếu thuốc và, miệng thì vẫn bập bập điếu thuốc để tìm cảm thú riêng cho mình, (chính gia đình tôi đã góp phần thú vị nầy vào đời sống của “Mẹ Huế”. Trước khi bị gọi vào quân trường SQBB/Thủ Đức, tôi là người quản lý của gia đình, phân phối thuốc lá Cẩm Lệ-Quảng Nam-Đà-Nẵng đi khắp miền Trung). Nay không ngờ,” Mẹ Huế” lại là khách hàng của tôi và tôi lại là khách hàng của “Mẹ Huế” qua mâm cơm nầy. Chuyện đời có lắm điều thú vị bất ngờ khó nói được!

Tôi không biết có lần nào trong mâm cơm chúng tôi ăn, có “độn” tàn thuốc lá của “Mẹ Huế” vào không, vì môi “Mẹ Huế” luôn gắn chặt điếu thuốc, nhưng nếu chẳng may, có bị “độn” đi nữa thì cũng chẳng ai bị ngộ độc, vì thuốc lá được bào chế với hương liệu không có hoá chất độc hại như ngày nay, mà toàn là thảo mộc quý, tinh chiết ra để ướp thuốc cho thơm ngon mà thôi. Nên, dẫu cho tàn thuốc đó có “độn” vào mâm cơm đi nữa thì, cũng xem như là “bột ngọt” của “Mẹ Huế” nêm vào cho ngon cơm, ngon canh chứ không có vấn đề gì.

Bữa cơm ngon là vậy, còn nước uống thì sao.”Mẹ Huế” rất cẩn thận lo chuyện nầy. Mẹ thường cho thực khách uống nước chè lá tươi, mà phải là chè lá của núi rừng quận Tiên Phước, Quảng Nam nổi tiếng Mẹ mới vừa lòng. Mẹ nói: uống chè xanh dễ tiêu thực. Do đó, một khạp nước chè tươi được kê sát với bụi tre đổ bóng mát trước cửa. Không biết Mẹ có nghiên cứu điạ hình, địa vật trước không, chứ đặt khạp nước nơi đây quả là đúng “chiến thuật, chiến lược”. Vì ăn xong, người người đều đổ mồ hôi, ra đây vừa nhâm nhi ly chè tươi, vừa hưởng được làn gió mát từ bụi tre tạt vào thì hỏi còn gì thỏa lòng cho bằng.

Quán “Mẹ Huế” gần như có thực đơn bốn mùa. Tinh mắt sẽ thấy: Mùa xuân khi nhà vườn có cải con còn non, ”Mẹ Huế” cho ăn thịt heo luộc cuốn với cải, khế lát, chuối chát, bắp chuối xắt mỏng, rồi chấm với mắm nêm nguyên chất đang còn con mắm cơm đỏ ửng. Tất cả được cuộn tròn vào bánh tráng mỏng, rồi được đưa vào miệng, cắn một miếng, lật thế nhai, nghe giòn tan cọng cải đang trộn với mùi gia vị tỏa ra thấm vào lưỡi, nồng nồng cay cay, khiến mọi cảm giác của tứ chi lâng lâng tê dại. Ôi!còn món cao lương nào cỡ triều đình sánh kịp.

Mùa hè “Mẹ Huế” lại cho ăn đổi bữa các loại cá: nào cá thu, cá ngừ, cá chuồn, cá hố. Nào kho, nào chiên, nào hấp, món nào cũng “đắm đuối” khẩu vị thực khách cả. Ngoại trừ cá sấu. (Có lần tôi hỏi đùa “Mẹ Huế”. Chừng nào Mẹ cho ăn cá sấu đây? nghe xong Mẹ rùng mình nói: - ăn cá sấu, chết không đầu thai lại kiếp người được, vì cá sấu ăn thịt người, chẳng lẽ chúng ta ăn chúng ta sao mà đòi ăn thứ dại đó. Ghê qúa!


tiệc cưới Quảng Tín 1970s
Đầu mùa thu, khi các loại bí, bầu, su, mướp còn sum sê lủng lẳng trên giàn thì “Mẹ Huế” lại cho ăn các thổ sản đó.

Đông về, “Mẹ Huế” lại thay món, cho ăn các loại mắm: mắm dưa, mắm cải, mắm cá chuồn và đặc biệt là mắm cá sặc ở Miền Nam.

Tóm lại, “Mẹ Huế” đem tất cả sở trường của người đầu bếp có kinh nghiệm lâu năm trong nghề ra phô diễn tài nghệ, thử hỏi làm sao quán của “Mẹ Huế” không đông khách cho được.

Đám khách trẻ chúng tôi nhờ có quán cơm của “Mẹ Huế” mà được an ủi phần nào thân phận kẻ xa nhà. Một năm chỉ được vài ngày phép eo hẹp, hiếm hoi với gia đình. Thời gian còn lại chỉ trông cậy vào quán cơm của “Mẹ Huế”, ăn để khôn lớn với đời và chiến đấu với nghịch cảnh của chiến tranh.

Ngoài chúng tôi ra, quán cơm của “Mẹ Huế”, đôi khi cũng có những ngoại lệ khác như đón vài khách đặc biệt nữa.

Khách đây là vài gia đình tử sĩ, từ xa về toà hành chánh tỉnh làm hồ sơ nhận xác chồng hay hồ sơ lảnh tiền tử tuất, nhưng gặp phải giờ cơm, nhân viên xã hội đưa họ đến quán “Mẹ Huế” để họ ăn tạm rồi trở vào làm tiếp.

Đối với loại khách đặc biệt nầy, “Mẹ Huế” không những tiếp đải ân cần mà còn không nhận tiền cơm nữa. Vô hình chung, quán của ”Mẹ Huế” đã biến thành cơ sở xã hội thiện chí của gia đình quân nhân toà hành chánh hồi nào không hay. Tiếng lành đồn xa, ai nghe được cũng dành cho “mẹ Huế” lòng qúy trọng đáng kính.

Tết năm nào không bận công tác đi xa, vì quá lạc lõng, tôi tìm đến quán “Mẹ Huế” để hưởng ké tình xuân. Tuy quán đóng cửa, tôi vẫn được cho vào.”Mẹ Huế” tử tế cho ăn các món đặc biệt xuân của Huế do tự tay Mẹ nấu nướng, cúng kiếng trong ba ngày tết cổ truyền.

Rồi mùa xuân năm 1970, chiều ba mươi tết, sau công tác trở về từ quận miền núi Tiên Phước, tôi ghé quán ”Mẹ Huế” để biếu Mẹ chút quà lấy thảo: nào hồ tiêu, cau trầu tươi, chè lá xanh, mấy trái mít mật, mấy bẹ vỏ quế rừng thơm có tiếng. (“Mẹ Huế” thường hay pha chút đỉnh quế vào tô nước chấm, vừa ngon vừa trừ được bệnh tháo dạ) cùng vài lít mật ong, thổ sản của rừng núi quận Tiên Phước .

Bước vào quán, tôi thấy trước cửa được bày biện một chiếc bàn tròn đầy đủ lễ vật, hoa quả cùng với mâm cơm thịnh soạn trông trang nghiêm, thành kính đang cúng. Hương, đèn cháy lung linh. “Mẹ Huế” trong chiếc áo dài lam, hai bàn tay chụm lại thành búp sen trước ngực, trong tư thế chánh niệm râm râm khấn vái, tưởng nhớ tới thằng Hiền, thằng Mân, thằng Ngoạn và thằng Tưởng cùng với mấy đứa nữa mà “Mẹ Huế” không nhớ hết tên, đã đến quán ăn của Mẹ, nhưng nay thì ”chúng” đã ra đi vĩnh viễn không về nữa, thật tội nghiệp quá, Mẹ nhớ” chúng” quá.

Tôi nép mình bên “Mẹ Huế” yên lặng xúc động, vì cứ ngở rằng: mâm cơm chiều ba mươi tết của Mẹ, cốt yếu để cúng tổ tiên theo thông lệ rước ông bà của Mẹ mà thôi, nào ngờ mâm cơm nầy, Mẹ chỉ cúng để tưởng nhớ mấy “đứa con” lính, tứ xứ của Mẹ ngày nào.

Tôi cầm tay Mẹ, cử chỉ như đaị diện cho những anh linh bạn bè đã khuất, bày tỏ lòng biết ơn đến Mẹ. Vì trong thời gian và không gian lắng đọng của ngày cuối năm nầy, khắp mọi nhà, mọi miền, ai ai cũng bận tâm nghĩ đến tổ tiên ông bà mình, còn mấy ai nghĩ đến người khác. Duy chỉ có ”Mẹ Huế” ngoài việc cúng bái cho gia đình mình, lại còn nhớ đến anh em đồng đội của tôi nữa. Họ đang vùi thân trong lòng đất lạnh, nơi bìa rừng, bên hốc đá nào đó, vĩnh viễn xa lìa mùa xuân, dù mùa xuân của họ còn rất dài…

Thử hỏi, nếu không có mâm cơm của “Mẹ Huế” trong chiều ba mươi tết như thế nầy, thì những vong linh nằm đâu đó sẽ lạnh buốt tê tái đến thế nào! Mâm cơm của ”Mẹ Huế” cúng, còn có ý nghĩa như ánh lửa hồng từ trái tim Mẹ tỏa ra làm ấm áp phần nào bao vong hồn đang lạc lõng ở cỏi mù xa.

Qua đó, tôi cảm nghiệm được rằng: “Mẹ Huế” tuy có đời sống bình dị, không điạ vị gì cao sang trong xã hội cả. Mẹ chỉ làm công việc bình thường mà không một ai khi đã học qua vỡ lòng “quốc văn giáo khoa thư” thuở thiếu thời ma không rõ : “Thấy người hoạn nạn thì thương, thấy người đói rét lại càng thương hơn”. Do đó “Mẹ Huế” đã trải trái tim Bồ-Tát của mình ra để bù đắp những mất mát to lớn mà các bà mẹ, bà vợ của lính phải miệt mài gồng mình gánh chịu trong suốt cuộc chiến.

Thế rồi biến cố ba mươi tháng tư xảy ra, mỗi người tan tác mỗi ngã.

Năm 2006, sau khi từ Mỹ về thọ tang mẹ ruột xong, tôi đón tàu lửa vào thị xã Tam Kỳ lân la tìm lại quán cũ của ”Mẹ Huế”, để nhớ lại những ngày xưa, những ngày mà “Mẹ Huế” luôn luôn bân rộn lo từng bữa ăn cho chúng tôi.

Buồn thay, tất cả nơi đây nay đều xa lạ và ngỡ ngàng. Chỉ còn một nhân chứng sót lại cho biết: Sau một chín bảy lăm, ”Mẹ Huế” đã bị việt cộng bắt đi tù sáu tháng về tội   ”giúp đỡ và có liên hệ chặt chẻ với chế độ ngụỵ”

Ra tù, ”Mẹ bị cưỡng bức đi vùng kinh tế mới ở Kontum. Do đã già yếu và buồn phiền, không chịu nổi với sương lâm chướng khí, nên Mẹ đã chết trên vùng đất đau thương đó. Qua đi một đời người rộng lượng, cao cả đáng kính.

Thế mà, Mẹ đã bị những kẻ vô minh, nuôi lòng thù hận nhỏ nhen giết chết đời Mẹ.

Nay, sống trên đất Mỹ, hàng năm, tết nào tôi cũng có mâm cơm chiều ba mươi tết, để rước ông bà và rước luôn “Mẹ Huế” về vui xuân với gia đình, tôi coi “Mẹ Huế”cũng là ông bà của mình, để có dịp trả ơn ” Mẹ Huế”. Xin “Mẹ Huế” chứng giám lòng thành của con.

========================================================

   ♪  Ave Maria – Nam Mô M Huế

hoa Tết đường Nguyễn Huệ Saigon xưa


 

Tuesday, January 18, 2022

être & avoir

 


être & avoir

Tôn Tht Tu
Gần tết mấy ông bạn già trở chứng email ì xéo qua lại, nhắc toàn chuyện cũ quanh những người bạn thời xưa trong 12 năm ngồi mòn quần ghế nhà trường. Chúng tôi nhận email của Nguyễn Thiệp tức là nhà văn Tràm Cà Mau, khởi từ thư tôi nhắc đến một người bạn ở Bến Ngự, cháu người đẹp Thu Thảo. Thu Thảo, một hình tượng giúp người ta thấy các cô gái Huế sầu tư thế nào. Thu Thảo hay đứng ở lan can nhìn qua bên kia sông nhỏ. Bên kia không có ánh mặt trời như nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang đã hát, mà những ngôi nhà cháy từ 1945 chưa xây lại kể cả nhà in Viễn Đệ trước khi thành trường Mỹ Thuật và trường Hán Tự. Bên kia sông chỉ có hồn thu thảo cho một Thu Thảo bên ni.
Thư của tôi gồm nhiều đề mục tả pí lù nhưng cũng gây cho Tràm Cà Mau đôi chút cảm khái. Bên dưới tôi xin copy thư của ông và lời phúc đáp của tôi.

Nguyn Thip
**** Bác Tuệ có trí nhớ tuyệt vời. Chuyện chi cũng nhớ từng chi tiết nho nhỏ, nhất là chuyện mấy o. N.Nh.B hồi ấy học Nhất B2 với tôi, tóc bồng bềnh có cái bốp, đã biết hoang, học chăm, giỏi, ăn to nói lớn. Nghe nói ông bố tập kết ra Bắc, không phải ai tập kết ra bắc là CS cả. Một số lớn do hoàn cảnh đưa đẩy. Ra bắc chịu đói khổ mất tự do, xất bất xang bang 20 năm. Nhưng con cái họ ở miền Nam vẫn được cho đi du học, hưởng học bổng. Đó là cái hay của miền Nam chúng ta. Trong các bạn bè tôi, có ít nhất 8 bạn có bố đi ra Bắc, nhận được học bỗng đi Mỹ, Canada, Úc v v không ai thắc mắc gì cả. Có bạn, bố làm đến thứ trưởng ngoài Bắc, mà con ở miền Nam vẫn được cho học bổng đi Mỹ học master. Sau 75 được đi ‘tham quan’ Hà Nội một chuyến, anh bạn tui hoảng vía, về Saigon đi vượt biên ngay. Phạm văn Đồng an ủi ông bố : “đừng buồn bác ạ, thế mà tốt cho tương lai nó”. (Hai ông nầy là bạn bè thân thiết). Tôi có hai người bà con vì ‘yêu nước’ đã tự động tập kết ra Bắc, hai ông bị ‘nhân dân‘ khám phá ra là thuộc gia đình địa chủ ở miền Nam. Hai ông bị chúng lôi ra đấu tố kiểm thảo, suýt đi tù. Sau 75 về Nam còn sợ không dám ăn nói, lấm lét, và dặn con cháu “Đừng lấy Nguỵ mà ba đời không ngóc đầu lên nổi”
Cám ơn các bác nhắc nhở lại bạn bè một thời xa xưa, đọc mà bùi ngùi. Bây giờ còn viểt email được là đã quá phước hạnh của trời cho. Chúc các bác an bình khoẻ mạnh. T. 


Tôn Tht Tu
Bác Thiệp,
Tôi mới chơi một tô cơm nguội mà cảm ơn bác mấy năm nay theo lời bác chỉ ăn gạo Sam Club long grain, cũng nhờ vậy mà ăn tô cơm nước tương Đại Hàn rồi viết mấy dòng thương nhớ anh Văn chồng chị Hạc, bâc thầy của chúng ta. Tôi nay không làm được gì ngoài vườn nhưng vẫn có thể chọt từ sáng đến khuya, giải thích cho một nữ sinh Madagascar sống nơi vua Duy Tân bị dày cái tế nhị khi nào có e khi nào không; cải nhau với một anh Congo vì sao lúc ni viết RDC lúc kia viết DRC tên của nước Congo, tiếp tục dùng hai vũ khí paste và copy hù dọa thiên hạ về Hán Tự và Latinh, hù dọa người yếu bóng vía Võ Dật tưởng tui là nhà nhạc học, un musicologue. Oh my Goddess.
Sáng nay trên một FB tôi viết rõ nhà văn Võ Hương An đã dạy tôi những gì chưa biết rõ thì cứ giữ đó chưa vội kết luận, như ông đã cho là xạo khi kinh Pháp Hoa nói cúng dường con mắt, trái tim, rồi phải sám hối không kịp khi thấy người ta liền liền ghép tim của kẻ khác cho, ghép thận, ghép mắt. Tôi vẫn còn sáng suốt thấy những sagesse hiền triết như vậy.
Bác Thiệp, tôi còn nhớ tên anh Cung ở chung cư xá với bác, anh Cung hồi chánh và đã bị bắt ngay ngày 30.4. Vì sao người ta cho Pasternak là chứng nhân "le témoin", Camus cũng témoin mà những người như bác không có danh hiệu ấy khi bác biết đến bảy tám trường hợp cha ở ngoài Bắc làm lớn mà con được du học. Bác Võ Dật (Võ Hương An) cựu hiệu trưởng Hàm Nghi có thể là chứng nhân ghi nhận cùng ngày Bộ Giáo Dục cho in cho dạy Ngậm Ngùi của Huy Cận, cùng ngày Bộ Thông Tin và Cục Tâm Lý Chiến phát hành những ấn phẩm lên án Huy Cận đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành chế độ cộng sản như sau nầy Thích Quảng Độ khen ông là khai quốc công thần. Miền Nam từ thời Bảo Đại đã chấp nhận tiền lệ lịch sử của bài Marseillaise mà chọn Tiếng Gọi Thanh Niên của Lưu Hữu Phước làm quốc ca. Phe cách mạng Pháp sắp "chẹt đào" (kiểu ông Đóa) tác giả thì có chỉnh lý nhờ đó ông thoát chết, nếu không thì khi lưỡi dao rơi xuống đầu lìa mình ông, bên ngoài dân chúng sẽ "Marseillaise" mừng cách mạng đã thanh toán tác giả lời mình đang ca.

Những điều cho là nghịch thường nếu đặt trên một bình diện lớn sẽ mất những góc cạnh nhọn bén mà dung hòa.
Có lần như đã thưa, tôi so sánh chiến lược của miền nam với soccer chủ về trường độ từ phút đầu cho đến cuối vẫn phải giữ sự luân chuyển dẻo dai; chiến lược miền bắc như American football, chủ về cường độ, không phải chiến thuật bốn chậm một nhanh; chủ về sức mạnh bôn tập và sử dụng trong thời gian ngắn nhất. Về hành quân, mỗi một play của football đều có sự chỉ dẫn của coach, coach có quyền ra lệnh time out. Coach như chính ủy, mà chính ủy đến cấp tam tam chế như Trần Vũ đã viết trong Cánh Đồng Miên tổ tam tam có hai lính mới miền Nam và một lính Bắc làm chính ủy, trong kỳ đánh Miên. Tôi không rành soccer, nhưng hình như coach đứng ở biên chỉ có việc cho ai ra sân, ai vào nghỉ, hay hay không hay do coach huấn luyên trước, ra sân thì tùy nghi ứng đối. Vì chủ trương dài, sinh viên sĩ quan Đà Lạt phải học văn hóa ngang quân sự. Chủ trương đường dài cần thời gian thấy kết quả. Và kết quả đường dài mà ông Dật làm chứng nay đổ vào VN để dân chúng thưởng thức nhạc vàng và tranh nhau mua các sách cũ tái bản.
Sau khi nói đến trường độ và cường độ, tôi trở nên hypocrite và visceral mà nói trường độ không bằng (cũng thua) bán độ, bán độ tệ hại hơn việc ấn định tiền đồn mới và nới cũ. Chúng bán độ dễ dàng, làm cho "fan" tủi nhục lủi thủi về nhà như chúng ta chui rúc bến xe mà nghĩ chuyện đời.
Những điều bác Thiệp viết trong thư về phía miền Nam do những nguyên tắc sau:
- về luật, nhất là hình luật, ai làm nấy chịu; không dùng triết lý cộng nghiệp để giải trừ hay kết tội.
- thà tha ngàn người có tội hơn là kết tội một kẻ vô tội, trái với cạo gió thà giết lầm không thà bỏ sót như xưa người ta ghép cho Tào Tháo thà phụ người hơn để người phụ.
- luật pháp giải thích theo nghĩa hẹp nhất. Nguyễn Văn Trung đưa ra trường hợp être et avoir. Ở cấp thượng thừa như Phật Chúa, sở hữu (avoir) chính là thể tính (être); Phật chính là từ bi chứ không phải có cái từ bi. Chúa là bác ái chứ không phải có cái bác ái. Nhưng trong thế tục, être hoàn toàn khác với avoir. NgNhB, giả thiết đúng, avoir một ông cha tập kết, nhưng không être một người tập kết. Theo nghĩa hẹp, không thể dự phóng ông cha sẽ biến ông con thành CS, không thể kết tội cắp quả trứng là cắp đàn gà sắp nở, bầy heo sẽ mua từ tiền bán gà .... so on and so on.
Thôi viết riết thành ra lèm bèm.
Chấp tay lạy người cho xin nụ cười (Phạm Thiên Thư)

=============================================

Marseillaise 

huyn hoc
Tôn Tht Tu

Những đứa con tôi như nhành bông lúa
chờ ánh nắng há mồm uống nắng
chiều chờ sương ngậm miệng giữ hơi sương
trong thinh vắng đồng quê ngây dại
thả tâm hồn cùng đom đóm nói yêu thương.

Những đứa con tôi thích dòng nước mịn
trong vách đá trào ra như máu rịn
nuôi bên bờ những cây cói đứng song song
làm tàng lọng che lũ cá màu trắng bạc.

Chúng quên bẵng những ngày dài khoai sắn
ruột như bào không đủ cơm canh
thèm kẹo ngọt nên tưởng bờ rào là mía
có thỏi đường trong đống đá bốc hơi.

Chúng chia sẻ nguồn cơn của người lớn:
có ai kìa gọi bố lên làng
ba ngày gạo mà đi công tác
bồ về chăng hay ở mãi không thôi.
Ba ngày gạo đã là chuyện khó
mà bố đi ai dẫy cỏ nương khoai
trời mưa xuống một ngày bằng một tháng
phải chạy đua cho kịp mùa mưa
mà nắng đến cỏ khô bốc cháy
khô mảnh vườn và khô cả nồi cơm,
nhỡ bố đi không về như dạo trước
thì làm sao biết sống chết nơi nao.

Tôi để lại những đứa con nầy trong cỏ rác
với vợ hiền vóc dáng sinh viên
tay gõ nhịp trên cán cào tre nứa
hát lời ca mấy độ mới thương nhau.
Tôi để lại một lũ con thích hát
những cung vần giai điệu thật vu vơ
như gió lạc như chính mình đi lạc
thế giới người chỉ biết sợ nhau thôi.

Tôi khẳng quyết là tôi không có tội
cùng đấu tranh thua thắng chuyện đua bơi.
Nhưng tôi thấy tội tôi dày tâm khảm
đem chúng vào thế giới của đời tôi
cùng gánh chịu một oan khiên vô lối
một tội danh hoang đường huyền thoại.

Và cô bé trời xanh đi học
áo em xanh trả hàng me xanh lá
ly mía ngọt hồi xưa em uống
nay đắng nhiều những ngày còn lại với đời ta.

Ôi tội danh từ thinh không mà có
định cho ta mà cũng quyết cho đời em
rồi thấm xuống lũ con vô tội.
Ta hối hận vì ta đã chung sống
với giống người
tôn huyễn hoặc
lên làm vua.- 

**************************************************************************************************


Monday, January 10, 2022

buồn vô hậu

                         buồn vô hậu

Tôn Tht Tu


Nơi tôi  chiu nay mưa như Huế
khí hu khô nên không khn kh như ngoài kia.
Hơn thế na
cơm ngày ba ba tm ra hai ln
có cái áo dày hơn bao b
mđồng thôi cũng đủ m qua mùa.
Kinh Di Đà vn còn như xưa nơi Thun Hóa
Như th ngã văn nht thi Pht ti Xá V quc *
Pht nói gì nghe l quá đi
x ca Phđất bng như rung lúa
nhà bên nhà gm ph màn hoa
người quên đói vì theo hương ca gió
ca không khóa.
K Pht quđộ thượng vô ác đạo chi danh
hà hung hu thit.**

Mưa như mưa chiu kia ngoài x Huế.
Kinh Di Đà lôi ra đọ quán McDonald
Nếu trn gian không đem tin mua súng đạn
thì sá gì nhà gm vi châu sa,
trường tr rng nhà thương thơm hơn mít.
Nhưng thy Pht là tôi bun vô hu
Pht sinh ra nơi chn ác ôn
Chúa hin thân nơi người xem nhau thua con chó.
i mươi, chiu nay bun vô hu,
Bun vô hu nên để lng bài thơ. 

* Tôi nghe như vầy, một thời Phật tại nước Xá Vệ...
** Nơi xứ Phật, không có danh tự chỉ tội ác, huống là tội ác thật.


Huế

===============================================================