add this

Monday, December 22, 2025


EM LAN SAO ĐÀNH CẮT ĐỨT DÂY CHUÔNG

Tôn Thất Tuệ

Nói về chặng Trần Khánh Vân bị bắn nhưng thoát chết, lúc ấy tôi ở San Diego, khi nào đi Quận Cam, tôi cũng lên phía Los Angeles vào thị xã Hacienda Heights nhà một phụ nữ quen khá lâu thời trung học, trước khi quen người chồng tương lai của bà. Lần ấy sao nhà đông nghẹt người, nhà ông bà lớn và sân sau cũng lớn. Là một party, tôi không được mời vì ở xa. Tôi đi vào thì ngay cửa chính là cái "den" nhỏ có bộ sofa liền với phòng khách rất lớn. Trong cái salon nhỏ ấy đã có ông Nguyễn Trọng Nho, chánh án tương lai, hai ba người nữa mà tôi biết có cặp con trai sinh đôi của ông tỉnh trưởng Hà Thúc Luyện. Chúng tôi chào hỏi nhau vừa xong thì ông Trần Khánh Vân mới đến sau nhào vô, ngoài kia đông quá, không chỗ.

Xề đít xuống thì TKV "mở máy" ngay, khoe đang thực hiện các công việc giao tiếp với Hà Nội: các anh có biết hiện Fullerton College huấn luyện mấy trăm sinh viên VN gởi qua, tôi đang giúp các em, gặp chi giúp đó. Phạm Duy, Mai Thảo, Trịnh Công Sơn, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Xuân Hoàng mọi văn nghệ sĩ đều do Cục R hướng dẫn; chính phủ cho luân chuyển vài tin cấm như Mỹ giúp HCM tuyên bố độc lập, Trung Cộng ứng chiến giữ miền Bắc cho quân VN dồn về phía nam hoàn thành giai đoạn cuối. Tự do mà. Tôi và vài người nữa sẽ về làm bộ trưởng ở Hà Nội. 

Một người con ông Luyện đứng dậy muốn đánh, ông Nho cũng đứng lên nhưng chưa xáp lại gần. Tôi nhảy ra can và nói với ông TKV: 

Anh Vân, anh biết một ngàn chuyện tôi chưa biết, tôi chỉ biết một chuyện mà anh không biết. Ở Trảng Lớn, sau bài học cách mạng trường kỳ toàn cầu, vài anh ngụy lên sân khấu khen bài hay, chưa bao giờ biết. Một anh đại úy trịnh trọng nói: sau khi được cách mạng giáo dục đầy đủ, tôi sẽ đi theo giải phóng các nơi như Bangkok và Paris. Tức thì một nón cối nhảy lên nắm áo kéo, nạt to, "đi xuống, các anh là cái gì mà đi giải phóng, chúng tôi đây còn chưa chắc được theo". Anh Vân, làm bia đỡ đạn cho chúng mà không được huống hồ về làm bộ trưởng. Bây giờ không còn cái vụ hồng chuyên; có đảng mới đủ tư cách lái xe cải tiến cành cạch, nói chi vào ngồi ở Bắc Bộ Phủ.

Chủ nhà quen tôi từ lâu nhưng tôi chưa biết cô là cháu ruột kêu Bùi Tín bằng chú. Nhà của ông Nho cũng gần quanh, mươi lăm phút lái xe. Vì trùng hợp tôi và ông Nho thường gặp ở nhà quen với cô nầy cũng quanh đó vì chồng cô đi làm xa ở một mình với hai con, chúng tôi không đến nơi ăn tiệc nói trên. Có lạ lần nào tôi đến cũng có bà chủ đến, tình ngay lý gian e như hẹn nhau. Sau vụ Trần Khánh Vân bị cự, tôi tự động ra về. Ông Nho tỏ ra bực bội vì lời nói của TKV, trách bà chủ cho TKV đến tuyên truyền VC. Bà chủ giận tím mặt, hai người không nhìn nhau.

Chừng 10 ngày sau tình cờ tôi gặp bà chủ nhà ở Bolsa, tôi nói đùa: "em nói với TKV coi chừng bị bắn". Bà ừ è dạ dạ nói thêm ông Nho giận lắm. Tháng sau tôi trở lại đây, tôi sống một mình buồn lắm, chu du. Lại gặp ông Nho và bà chủ, hai người thân thiện, tôi ngạc nhiên.

Ông Nho buột miệng nói: "Trần Khánh Vân nói lên tiếng nói của lương tâm". Tôi như nghẹt thở. Nhà lãnh đạo sinh viên tự xưng cầm cờ chống cộng nay đã biến một tay tuyên truyền VC mà ông định đánh thành phát ngôn viên lương tâm. Chắc chắn việc đổi hướng 180 độ do bà chủ, cô bạn của tôi vận động. Tôi không thể đọc tư tưởng của ông Nho và không nên suy diễn nhưng tôi biết ông cẩn thận, ông thấy tôi không phải là người đối thoại hợp thời; ông nói bấy nhiêu e chừng đủ để giải thích vì sao thân thiện trở lại với bà chủ bạn tôi.

Tôi suy nghĩ lắm chứ. TKV bước vô là mở máy như bước lên bục cầm micro người ta dọn sẵn cho mà nói. Bình thường muốn tuyên truyền thì bắt đầu làm thân, nói xa nói gần rồi mới vô đề. TKV không làm vậy. Có lẽ cô chủ quá biết lập trường của tôi nên không mời tôi, tôi tình cờ đến. Chồng cô là một kỹ sư công chánh có lẽ thân quen với TKV, cục trưởng Cục Gia Cư thời Nguyễn Cao Kỳ. Bà chủ nói với tôi mấy đứa con TKV nói: ba con không làm gì hết, chỉ có việc chở tụi con đi học rồi chở về.

Ông Nho, có lẽ ông không hiểu câu trả lời của tôi, quá tế nhị chăng. Tôi nói lời của anh làm tôi ý thức rằng không có ai gọi là người chống cộng; người ta chỉ nhìn cái bong bóng gió sân trực thăng White House mà làm theo nói theo. Chỉ có người hùa theo Mỹ kiếm ăn. Ông Nho đã tự reinvent, tự chùi dọn trang điểm bằng cách cầm đầu biểu tình trước tiệm video (hình như người chủ tên Trương) có treo hình HCM. Sau khi đã thành chánh án, ông đã cho ban chấp hành một tổ chức cộng đồng tuyên thệ, nhiều người cho rằng tổ chức nầy bất lợi cho tinh thần cộng đồng, một nơi vốn dĩ nhiều xáo trộn. Cộng đồng thì tùm lum tà la biết đâu mà mò. Tôi thấy việc dùng tư cách chánh án cho tuyên thệ nó ra làm sao; không biết trúng sai. Cuộc tuyên thệ nầy nhiều kịch tính quá.

Sau đó có vụ Trần Văn Bé Tư, cựu giáo sư, bắn Trần Khánh Vân. Lý do TKV bị bắn không xuất phát từ bữa tiệc mô tả bên trên mà  - theo nhật báo địa phương Orange County Register - vì phụ bản chủ nhật của Los Angeles Times cho biết TKV cựu viên chức cao cấp sẽ về nước cộng tác với chính quyền mới. TKV, theo bài báo, là nhân vật ủng hộ VNCH ngay khi còn du học ở Mỹ. Nhiều sinh viên không về khi học xong mà ở lại hoạt động cho VC, nhưng ông Vân đã chống lại đám biếu tình phản chiến, bị đánh đập.

Bài nầy tôi dự định làm mở đầu vài ý nghĩ về thứ trưởng hải quân Mỹ Hùng Cao. Nhưng thôi, đã vậy thì thêm vài dòng cho xong. Các báo Mỹ đều có phụ bản Magazine ngày chủ nhật. LA Times Magazine có bài nói về người tỵ nạn, viết một cách rất Mỹ, với kết luận khuyên người VN nên lo làm ăn và nhập tịch.

Rất Mỹ vì bài báo bắt đầu với hình ảnh và tường thuật cảnh một người đàn ông chủ gia đình đi đón vợ con đoàn tụ theo chương trình ODP (ra đi có trật tự) ở phi trường LA; ông đã vượt biển một mình và bảo lãnh vợ con. Ôi là cảm động cha con khóc, vợ chồng khóc. Kế tiếp là các thành quả của người Việt như con em học giỏi, biến nhiều khu  vực bỏ hoang thành thị trấn, các downtown chuột ở thành phố xá; người Việt làm chủ các căn nhà mới.

Chuyển mục là các hoạt động chính trị chống CS. Tiêu biểu là Mặt Trận. Phần nầy là report over report, tường trình lại. Bản doanh của Mặt Trận đặt tại San Jose, người Việt ở đây mặc đồng phục màu đà, cho phép chủ nhân trích tiền đóng góp từ sổ lương chuyển vào chương mục của MT. MT tổ chức đại hội tại Anaheim Convention Center qui tụ gần 100 ngàn người; làm cho tòa đại sứ VN tuyên bố có vài sự chống đối nhỏ ở VN đã dẹp xong nhưng không do tổ chức nầy điều động. MT có chiến khu ở Thái Lan, một ký giả tới tận nơi thì thấy bản doanh là một ngôi nhà tranh trống, vài nhân viên canh gát. Ông dự bữa tiệc có người Việt và người Thái ở một khu rừng thưa, dùng toàn dĩa giấy ly giấy, không khác một dinner party ở Mỹ, không có gì là đấu tranh gian khổ như tuyên truyền. Có lẽ từ bữa tiệc nầy mà có danh từ "chiến khu dĩa giấy" được dùng thường xuyên trong giới chống MT.

Phản diện là không chống chính quyền CS. Nhân vật chính trong đoạn nầy là Đỗ Ngọc Yến, chủ nhiệm báo Người Việt. ĐNY không đóng vai người ủng hộ, ông là nhà báo ông thấy rằng ý thức hệ không còn hấp dẫn, người Việt đã quen dần với CS, bớt dị ứng. ĐNY nói thêm nhiều người không những bớt dị ứng mà công khai dẹp bỏ ý thức hệ cũ, bỏ quên quá khứ cá nhân VNCH. Tiêu biểu là Trần Khánh Vân, đã từng bị đánh vì chống bọn sinh viên phản chiến chủ trương Mỹ rút lui, bỏ rơi VNCH. Ông đã quay lại Saigon hợp tác với chính phủ chống cộng. Ông Vân ở trong nội các chiến tranh của ông Kỳ. Ông Vân đã bỏ quá khứ chống cộng nặng nề để trở về VN tham gia chính sự, và theo tin riêng của Người Việt, Hà Nội sẽ tiếp đón ông Vân nồng nhiệt, mời vào ban lãnh đạo quốc gia. 

Phần cuối cùng là hình ông Lâm Lễ Trinh phất cờ Mỹ. Cựu bộ trưởng nội vụ từ thời ông Diệm hân hoang cảm ơn nước Mỹ thay mặt đám đông chung quanh vừa ra khỏi hội trường tuyên thệ thành công dân Mỹ. Khúc nầy như đoạn kết có hậu trong tiểu thuyết, vui vẻ cả làng. Các bạn hãy nhập tịch, bỏ phiếu, thực hiện giấc mơ Mỹ: make it true, the American dream.

Ai thúc đẩy Bé Tư, ai mua súng cho nhà giáo nầy, có âm mưu dài lâu hay không; chúng tôi không tìm hiều thêm và không biết sau khi hồi phục ông TKV làm gì, có được Hà Nội cho gì không. Bolsa xầm xì, mấy ngài xúi dục không chịu góp tiền thế chân cho Bé Tư hay thuê luật sư giỏi.

Mục đích của báo LA Times là tìm cử tri cho hai đảng CH DC nhưng đưa đến vụ ám sát nửa vời, nạn nhân TKV thoát chết chỉ bị thương. Nhưng chút xíu sự đời đã là mớ bòng bong biết bao nhiều điều đáng nhớ. Lâm Lễ Trinh là bộ trưởng nội vụ chính phủ đầu tiên của ông Diệm, chiến khu dĩa giấy, vượt biên năm ăn năm thua, đoàn tụ như mơ, TKV không đáng bị bắn so với những kẻ xé rào về sau, nói tên nhớp miệng. Fullerton College là nơi tiến sĩ Đoàn Viết Hoạt chồng cô Thức đến chủ xướng lý thuyết hai cờ: cờ đỏ và cờ vàng, nhốt chung cừu và sói.  v.v....

Ông kỹ sư chủ nhà giàu có đã về Huế sống một mình để trị bệnh, đã qua đời. Bà chủ nhà đã xuất gia đầu Phật dùng tiền tài tích lũy xây dựng một cơ sở hoằng pháp bên bờ Thái Bình Dương của Tiểu Bang Vàng (The Golden State). Người viết bài nầy ước chi thành Điệp mà hát: Em Lan ơi, tội tình chi mà em cắt đứt dây chuông chùa!



Saturday, December 20, 2025


PHÍA SAU TÒA HÀNH CHÁNH QUẬN 

Bài điểm sách Jesus, Maria cũng là người? (next Older Post), ngày Dec 15, chúng tôi có gởi đến một nhóm cựu sinh viên hành chánh. Ba hôm sau chúng tôi nhận một email của một người anh em chỉ trích thậm tệ Thiên Chúa Giáo như một ý tự khởi không đề cập bài và người viết. Do đó chúng tôi chỉ tham luận mà không trực tiếp hồi đáp. Chúng tôi dự định dùng hai phần nầy làm thành một post. Đang lên khuôn thì một cựu sinh viên khác gởi đến một email hoàn toàn bịa đặt, nói ngược quan điểm của chúng tôi thành kẻ đập phá tôn giáo của anh ấy. Chúng tôi không đem thư mới nầy vào đây vì dài quá.
Post nầy gồm hai phần: thư tiên khởi và tham luận. Nói qua nói về đều do dân cạo giấy, đã hay có thể làm phó quận phó tỉnh; do đó chúng tôi bịa đầu đề cho vui, như blog Mậu Thân thường gọi chuyện trong giường (vườn) hành chánh.

Email của anh Lý Ngọc Cương

Kính thưa Quý Vị Giáo Sư và Quý Vị Thiện Tri Thức,

Tôi cố gắng đọc nhiều sách để tìm hiểu "Kitô Giáo và Khoa Học Gia", "Chúa Giê-Su là ai? Giảng dạy những gì"?

Thú thật, tôi thất vọng! Chỉ cần căn cứ vào Thánh Kinh cho rằng "Adam và Eva" là thủy tổ của loài người, hiện diện trên quả địa cầu khoảng hơn 7 ngàn năm, trong khi khoa học gia cho biết nhân loại đã hiện hữu trên trái đất hằng triệu năm rồi. Bao nhiêu đó cũng đủ cho biết Gia Tô Giáo là đạo của ai?!

* Tại sao Tổng Thống Mỹ Donald Trump ngu xuẩn khoe khoan Thánh Giá?! Ông ta làm như vậy để "hốt phiếu" bọn có đầu nhưng không có óc trong mưu cầu chánh trị mà thôi.

* Chợt nhớ một câu diễu về Mẹ Maria gặp thằng phải gió ở trong rừng, mang thai Chúa Giê -Su. Ông thợ mộc thấy tội, đem về nuôi để nhờ lứa sau; kết cuộc Bà Maria sanh thêm được 6 người con khi ở với ông thợ mộc; như vậy, Chúa Giê-Su có 6 người em? Chuyện nầy không biết thực hư ra sao ?!

* Đạo là tôn giáo của người yếu tinh thần; tuy nhiên, Đạo Phật thì khác hẵn; muốn học Phật phải có đầy đủ bi trí dũng mới học được ; đặc biệt, Đạo Phật tôn trọng nhân vị của con người, không nhồi sọ, không tẩy nảo, không ép buộc, hoàn toàn tôn trọng tự do của con người.

* Vài hàng lang thang với Quý Vị với ước mong được soi sáng theo lục hòa của Nhà Phật; trong đó kiến hòa đồng giải, ý hòa đồng duyệt rất thiết thực để rộng đường dư luận.

* Ngoài ra, muốn biết rõ về Mẹ Maria, Chúa Giê-Su, về Thiên Chúa Giáo, Quý Đại Vị không thể không đọc luận án tiến sĩ của Ông Cao Huy Thuần vì tài liệu mà tác giả xử dụng đều là những văn thư mật, chưa được công bố mà Hội Đồng Giám Khảo với truyền thống tự do nhân bản, với tinh thần tôn trọng lịch sử và cảm phục công trình nghiên cứu công phu, đã chấm ưu hạng. Hy vọng, sau khi đọc luận án nầy, Quý Vị Giáo Sư , Quý Vị Thiện Tri Thức có thể soi sáng một vấn đề chánh trị đã bị lịch sử bỏ quên quá lâu?!
Trọng kính ,
Lý Ngọc Cương
(TB: Kính đề nghị Quý Vị đọc thêm các sách của Ông Trần Chung Ngọc để rộng đường dư luận).

Tham luận của TTT

Dạ thưa, chúng tôi không có ý trả lời email của anh Lý Ngọc Cương, chỉ nêu vài ý nhỏ gợi lên vì liên tưởng.

1.- Đức Phật nói rằng trong mọi trường hợp, người nào muốn thuyết giảng, hoằng dương giáo lý của Ngài thì chỉ nên nói giáo lý ấy mà thôi, không cần phê bình ai hết. Giáo lý của Phật là ánh sáng thì ánh sáng đẩy lui các bóng đen. Theo kinh Pháp Hoa, khi giảng luận, thuyết sư phải "vào nhà Như-Lai, mặc y Như-Lai, ngồi tòa Như-Lai. Nhà Như-Lai chính là tâm từ bi đối với tất cả chúng sanh, y Như-Lai chính là lòng nhu hòa nhẫn nhục, tòa Như-Lai chính là nhứt thiết pháp không". Ở đầu kinh Ngài nói thường dùng những lời đẹp vui lòng người nghe (duyệt khả chúng tâm).

2.- Sách của ông Cao Huy Thuần, người ta nói với tôi, quá ít, chừng đó thấm chi. Không biết quá ít hay quá nhiều. Nhưng tôi đã đọc cuốn The Fall of the Church của linh mục Dòng Tên ...Reich nói những điều không thể tưởng tượng như Borgia...viết như Kim Dung viết. Những sách loại nầy nói về tổ chức tôn giáo. Giống như web Hồn Việt nói rõ họ quyết liệt chống tổ chức Phật Giáo bị CS thao túng trước vào sau đảo chánh hạ ông Diệm nhưng không nói gì về giáo lý của Đức Thích Ca. Sách của ông Thuần được ca ngợi chính xác vì ông dùng văn khố của Missions Étrangères de Paris thành lập 1663 ghi lại các sự truyền đạo hải ngoại. Như vậy những sử liệu nầy không liên quan đến Jesus lúc còn sống và bà Maria. Tôi chưa có dịp đọc toàn bộ cuốn sách, chỉ đọc phần tóm lược. Giáo sư triết gia Nguyễn Văn Trung (tu xuất gần thành linh mục) đã đề cập việc các họ đạo dùng luật địa ốc Pháp để tịch thu ruộng của nông dân, cha truyền con nối cày cấy, không có bằng khoán (thẻ đỏ, thẻ chủ quyền).

3. Ông Trần Chung Ngọc là một hiện tượng nhưng ông phải là người duy nhất làm cho nhiều người Christian (Catholic và Protestant) hoãn sợ. Nếu tôi không nhầm ông là tinh thần của Nhóm Giao Điểm.
Cao điểm của sự chống đối nầy là chỉ trích TCG tiếp nối truyền thống ăn thịt người của tôn giáo Baal ăn thịt người nướng, vừa ăn vừa làm lễ; danh tự cannibalisme do chữ Baal mà ra. Đã từ bỏ việc ăn thịt người chuyển qua bánh thánh và rượu. Về ngôn ngữ, cannibal do một chữ Spanish, caníbal, caríbal;
 trước đó nữa do Baal mà ra hay không thì không ai biết. Nhóm người Baal có tục giết trẻ con cúng thần linh rồi ăn thịt như đưa thần linh vào người. Thánh Kinh Do Thái và TCG cũng như Coran xem giáo chủ tên Baal là một con quỷ chống các đấng thờ phụng thì không lẽ TCG theo Baal chăng.
Về điểm nầy nhà thiền luận trứ danh Suzuki công nhận nghi lễ rượu và bánh thánh được sáng chế vì - ông nói - • TCG có khuynh hướng nhấn mạnh tính chất hữu hình (corporealty), từ đó có biểu tượng bánh thánh và rượu lễ xem như phương pháp kết hợp thành một, hội nhập với Christ. •
Các vị nầy nói Hongkong và Đài Loan cấm đem vô xứ Thánh Kinh vì Thánh Kinh quá nhiều cảnh dâm ô. Điều nầy đã được phát biểu trước khi Hongkong trả về Trung Cộng còn thuộc Anh Quốc. Sau đó Bắc Kinh và Vatican có tương nhượng để TCG hoạt động; Tưởng Giới Thạch là một người Protestant sao cấm. Những điều xấu xa chỉ có trong Cựu Ước. Do Thái không sửa và giữ nguyên vì họ xem đó là lịch sử, lịch sử xứ nào chả có những việc như thế ấy. Họ cố giữ để chứng minh những điều khác là có thật; tốt xấu đều có, minh chứng sự hiện diện của một xứ sở, từ ngày Abraham định canh, không du canh nữa.
Riêng về quan điểm chính trị Quốc Cộng của Nhóm Giao Điểm xin quý vị tự tìm hiều.

• Chừng 40 năm trước, một tập san Phật Giáo ở San Jose tự ý đăng một bài ngắn của tôi về cuốn sách The Tao of Physic. Tác giả Capra trình bày sự song hành giống nhau của vật lý mới và huyền nhiệm Đông Phương. PG đã ảnh hưởng Albert Einstein rất mạnh. Số tiếp có bài của ông Trần Chung Ngọc. Ông không đả động gì tôi nhưng có nói cái bọn khoa học gia ấy là cái thớ gì mà đem ra so sánh với Phật; phỉ bán, phạm thượng quá chừng.
Bẳng đi một thời gian thì tôi thấy ông Ngọc đã có bằng tiến sĩ khoa học và chứng minh PG là khoa học, không như các tôn giáo khác phản khoa học đã cầm tù tra tấn các nhà khoa học ví dụ thời Dị Giáo Inquisition. Giống như các nhà vật lý mới, ông dùng vài lời Phật chứng minh những hiện tượng trong phòng thí nghiệm, nhiều nhất về quang học.
Inquisition là lịch sử gần, rất rõ ràng. Tuy vậy nếu các tôn giáo khác phản khoa học, không có nghĩa PG là khoa học. Cho rằng PG là khoa học không còn là chuyện hợp thời. Được hỏi thuyết tiến hóa của Darwin PG nói đúng hay sai, ông Ikeda, thủ lãnh hội cư sĩ Nhật đáp: xin tìm một nhà khoa học mà hỏi, PG không phải là khoa học.
Jesus nói đến một vương quốc của cha ta trên trời nhưng Jesus không bao giờ bay lên trời như Thích Ca khi thành đạo lên Trời Đao Lợi giảng kết quả tu luyện cho mẹ.
Kinh Pháp Hoa xem là kinh tối thượng, thuyết giảng xong kinh nầy Phật đã hoàn thành sứ mệnh Ta Bà Giáo Chủ. Phẩm 11 bắt đầu như sau: • Lúc bấy giờ, trước Phật có tháp bằng bảy báu, cao năm trăm do-tuần, ngang rộng hai trăm năm mươi do-tuần, từ dưới đất nổi lên trụ ở giữa hư không; các món vật báu trau giồi, năm nghìn bao lơn, nghìn muôn phòng nhà, vô số tràng phan để nghiêm sức, chuỗi ngọc báu rủ xuống, muôn nghìn linh báu treo trên tháp. Bốn mặt đều thoảng đưa ra mùi hương gỗ ly-cấu chiên-đàn khắp cùng cả cõi nước.•
Đó là tháp của Đa Bảo Như Lai đến bất cứ chỗ nào có Phật giảng kinh nầy để ngợi khen và làm chứng. Phật Thích Ca lên ngồi chung, bay dạo trên không.
Học thuật Anh Pháp từ xưa đến nay đã dịch chương nầy không thiếu một chữ. Việc nầy có khoa học hay không?
Nhưng là một phẩm tối ư quan trọng; nói theo tây phương là chấp nhận một đức tin, [embrace a faith]. Đa Bảo tượng trưng chân lý khách quan, kiến thức; Thích Ca cùng phía chúng sinh, những con người: hai sự thể ấy phải nhập chung mới thành việc. Bạn có thể hiểu 100% TCG nhưng bạn không có đức tin ở Jesus thì bạn không thể là một christian. 800 năm trước, vị tổ Nichiren (Nhật Liên Tông) đã viết trên tấm giấy bảy chữ Nam Mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh giữa hai dòng chữ mang tên hai vị làm một biểu thờ, ngự bản tôn. Diệu Pháp Liên Hoa là sự phối hợp giữa chân lý khách quan và tín hữu như hai bàn tay chắp lại.
Trong những tôn giao mà tôi biết, PG nhiều điều lạ (fancy) nhất theo kiểu cách riêng ở Indus Valley, thung lũng Ấn Hà. Các phẩm tựa là lời kể "như thị ngã văn" gồm cả người trần và thần thánh ngồi chung, cả trăm ngàn, trăm vạn, kể thêm vô số việc như có vị Phật phóng hào quang chiếu rọi tam thiên đại thiên thế giới.
Những fancy Phật nói, bạn tin hay không tin tùy bạn, không ai ép. Bạn có quyền dùng khoa học mà không tin hay tin. Phật nói nơi thế giới kia, bồ tát Diệu Âm người cao mấy chục thước sẽ đến Ta Bà Thế Giới và trước khi đi vị giáo chủ nơi đó lưu ý đừng khinh khi người cõi đất dù nhỏ như ngón chân mà họ cũng có Phật tánh và sẽ thành Phật.
Người hiểu biết sẽ có hai nhận định. Thứ nhất đó là một ẩn dụ về bình đẳng Phật tính, tuy bất bình đẳng về xác thịt. Thứ hai, Phật như con rùa xuống nước kể chuyện thật cho con cá nghe, con cá chưa lên khô mà thấy nên không bị ép tin hay không. Chúng sinh chưa đến những cảnh giới chư Phật đã thấy. Phật thấy Phật nói thì cứ nghe vậy. Con quỷ hai đầu làm mình nghĩ đến hai trẻ sinh ra dính vào nhau có hai đầu; các bồ tát dâng hiến quả tim giống như ghép tim ghép thận hiện nay.

4.- Một cố vấn thân cận của Trump trong nhiệm kỳ trước tin thế giới có lịch sử 3.000 chứ không phải 7.000 năm như anh Cương nói, vì ông tin ở Scripture (Cựu Ước). Ông thuộc nhóm bảo thủ số một.
Nhưng vào thời xa xưa trong huyền thoại như Abraham, thế giới thì như trong lũy tre làng; thế giới của họ có lịch sử chừng 7 ngàn năm; hay người viết sử tưởng tượng đến mức 7 ngàn năm là quá rồi. Người Tàu văn minh, đầu tiên tìm ra địa bàn cũng nói mặt đất bằng, trời tròn đất vuông, đất không tròn. Ý niệm về quốc gia chỉ thành hình từ cách mạng Pháp 1789 để thay thế vương triều.
Donald Trump cầm thánh giá là quyền tự do hiến định, dù thực tâm hay giả dối. Chúng ta không thể thay Trời, Chúa, Phật, trị những ý nghĩ đen tối, giả dối; chỉ trị những hành động cụ thể như hiếp dâm, như đem thánh giá bằng sắt nói trớ bằng vàng. Trump đã công khai thi hành chủ trương có từ thời Bush là nhập chung chính quyền và tôn giáo (Christianity) tuy hiến pháp HK đã tách lìa. 
◙ 5.- Trước 1975 tôi thường đến nhà cựu thiếu tướng Đỗ Mậu, uống trà và hút thuốc menthol thay cho Salem Mỹ. Ông nói đứa con trai út của ông tử vi rất tốt, thông minh, ông sẽ cho nó đi học vật lý để chứng minh PG rất khoa học, PG là khoa học. Ông khen một nhóm người VN đang phổ biến sự việc ngày Noel chỉ là một ngày lễ Mardis Gras, ăn chơi hội hè, vì Jesus sinh vào mùa nắng nóng. Chuyện ni thì Jevohah nói hà rầm, nói từ khuya, người muslim không công nhận ngày Noel.

Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ (1921-2014)
Ông khen bác sĩ Nguyễn Văn Thọ đã bỏ TCG và ráo riết chỉ trích TCG, như các ông Charlie Nguyễn, Cao Huy Thuần...
Về đốc tơ Thọ tôi chỉ có nghe vậy không biết gì hơn. Cho đến 2005, tôi mới biết computer và tình cờ đọc web Văn Hóa Đông Phương của BS Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ [nhantu.net]. Tôi đã đọc chừng ba bài về TCG nguyên thủy, chỉ tường trình, không phê phán, không kể những lần trích dẫn đầy thiện cảm trong các bài về Đông Phương. Ông không nói đã theo, đã bỏ đạo.
Thái độ nầy khác với điều ông Đỗ Mậu nói là ông chỉ trích ngặt nghèo TCG. Có vậy nhưng không thấy trên trang nhà.
Rồi có tin BS Thọ chết do Giao Điểm thông báo, các web to nhỏ đăng lại tin nầy. Tờ cáo tri phân ưu nầy nêu thêm các nơi có bài, kể cả nhantu.net. Tôi dự đoán những bài ông Mậu nói là phê bình triệt để của BS Thọ đăng ở chỗ khác, tuy ông làm chủ nhantu.net.
Tôi tin tưởng rằng BS Thọ chỉ phê phán các tổ chức tôn giáo và không đụng chạm giáo lý như Hồn Việt không bàn đến kinh sách PG.
Tôi dài dòng ở chỗ nầy vì việc buôn thần bán thánh đông tây kim cổ đều có. Dùng ông sư thịt chó mà chửi Thích Ca là bất nhân. Như BS Thọ phân định hai sự việc khác nhau.
Tôi vừa mở web nầy và thấy phần tự giới thiệu được cập nhật ngày chết 07.01.2014 hưởng thọ 93 tuổi. Có lẽ nhân tiện, quản trị viên đã xóa những bài liên quan TCG.-



Sunday, December 14, 2025

Jesus, Maria cũng là người?



mẹ con trên đường trốn qua Ai Cập, tranh Hòa Lan, thế kỷ 16

Jesus, Maria cũng là người?
Tôn Thất Tuệ

Thưa quý thân hữu, 
Theo timing, các báo vào tháng chạp đưa ra các bài viết về Jesus.
Trên NY Review of Books, Diarmaid MacCulloch đã tóm lược bài viết là lược bỏ những mâu thuẩn trong Thánh Kinh để trình bày Jesus và Maria mang những nét vô cùng là người (bring Jesus and Mary into sharper focus and illuminate their surprisingly human features). Quý hữu sẽ mất 10 phút đọc nhưng đệ phải mất cả tuần lễ hầu như đọc lại cả lịch sử TCG nguyên thủy. Nói vậy có nghĩa là bản dịch chỉ có giá trị tương đối, gợi tò mò, vì không hiểu hết nội dung thì không thể dịch đúng.
Phúc Ấm vừa là một cuốn sách, vừa là tiếng nói, thánh ngữ. Tiếng Anh thì dễ xử hơn. Word là lời, thánh ngữ, Phúc Âm là Gospel.
Đáng lý, bài nầy không nên phổ biến, chẳng phải vì sai, mà vì quá đúng, too good, trước thực trạng 2 ngàn năm; too good để trở thành inopportun. Maria đã thành một thực thể tâm linh, một thực thể hoàn vũ, không phải là thực thể bằng tế bào. Những người ngoài TCG không bị nhồi nhét quan điểm riêng như trong giới Protestant vẫn thấy dư vị tiếng kinh cầu: Maria Đức Mẹ Chúa Trời [Mater Dei. Bản tiếng Việt và La Tinh cần hiểu Dei và Chúa Trời là Chúa Jesus cùng thể tính với Dei, với God]. Đức Mẹ Maria là cái phao độ nhiều người qua khỏi đời người khó khăn. Vậy thì không có lý do gì đâm thủng cái vét xi, dù nhân danh tri thức.

Những bất nhất trong các thánh điển tạo nên mọi rắc rối trong hơn 2.000 năm vì định đề: Jesus phải là con của God, đến mức đồng hóa với God. Mỗi người một cách để thực thi. Phúc Âm Luke nói Jesus hất hủi không cộng nhận người mẹ là bà Maria; có lẽ đấy là sáng tạo của Luke để chứng minh Jesus không phải là người thường. Hoặc phải đưa Jesus vào huyết hệ của vua David, một vị vua huyền thoại con của thủy tổ loài người do God dựng nên.
Nhưng Thánh Kinh ghi lời của Jesus: ta là con của người và cũng là con của Trời. Con của người mà! Lời của Jesus giống như lời của một nhà tôn giáo trước Ngài mấy trăm năm. Thích Ca nói: ta là con của vua Tịnh Phạn và là con của Như Lai.
Nếu các nhà viết sử trung thành, các luận sĩ tử tế sẽ áp dụng quan niệm thị hiện một cách đầy đủ thì không rắc rối chết người (nghĩa đen). Quan niệm thị hiện thực hiện nửa vời: Father, Son and Holy Spirit. "Son" đã không được hiểu theo ý của Jesus, một con người thực sự, như con của mẹ Maria hay con của vợ vua Tịnh Phạn. Tuy không phủ nhận tính chất Như Lai của mình, Thích Ca sống rất bình dân, rất người cho nên Phật có thêm danh hiệu Thiện Thệ. Tuy không phủ nhận tư cách "son of God", Jesus sống với mọi người, kể cả những bệnh nhân cùi hủi. Ngài đâu có muốn một giáo hội nhiều hột xoàn, cung điện nguy nga và tiền bạc lấy chổi quét vô nhà không đếm kịp. Ngài hạ mình trong hành vi tượng trưng là rửa chân cho các tông đồ.
Khi sinh ra cho đến khi chết, Jesus sống trong chế độ đô hộ của La Mã nhưng văn hóa lúc ấy là văn hóa Hy Lạp; Hy Lạp bị La Mã chiếm đất. Lúc Jesus ra đời, văn hóa Hy Lạp mang rất nhiều văn minh từ Thung Lũng Ấn Hà, tiếp theo cuộc viễn chinh của Alexandre Đại Đế. Hy Lạp có những đồng xu chạm hình với ghi chú "Bodo" là Phật, nếu không phải Thích Ca thì vẫn là một vị Phật.
Tinh thần rộng rãi của Thung Lũng Ấn Hà đã tạo ra nhiều hệ phái TCG nguyên thủy như Gnosticism. Nghiêm Xuân Hồng nói TCG nguyên thủy không khác gì nhiều PG như có luân hồi tiền kiếp. Nhưng Công Đồng đầu tiên năm 324 đã loại bỏ những hệ phái nầy và xem như kẻ thù. Theo thần học mới, " ... Jesus Christ, the Son of God, begotten from the Father, only-begotten, that is, from the substance of the Father, God from God, light from light, true God from true God, begotten not made ..." (Jesus, con của God, phóng phát từ Chúa Cha, chỉ được phóng phát tử bản thể của Chúa Cha, chứ không phải được tạo sinh). 
Trước những khác biệt sâu sắc trong các thánh điển, chúng tôi nghĩ đến linh mục Pierre Teilhard de Chardin, đứa con vô thừa nhận. de Chardin đề nghị Giáo Hội xem Tân Ước và Cựu Ước là những ẩn dụ (allégorie) để chuyển tải dễ dàng các ý tưởng, chứ đừng xem là những chân lý khoa học tín đồ phải theo.
 
Bỗng nhiên tôi đụng một vấn đề to hơn Hy Mã Lạp Sơn. Nhưng theo Hoa Nghiêm cái to nhất nằm trong cái nhỏ nhất; cái nhỏ nhất ngủ yên trong cái to nhất.
Hằng ngày khi tụng kinh chính là Pháp Hoa, đến lúc cầu nguyện cho người sống hay người chết trong tín ngưỡng Christian, tôi đọc nhiều lần kinh Kính Mừng nhớ theo tiềm thức: Kính mừng Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng tôi là kẻ có tội khi vào trong giờ lâm tử amen*; xin thay những người đó, đã chết hay còn sống mà thưa cùng Đức Mẹ và tôi thấy có tội là mang nghiệp chướng. Cầu cho chúng tôi để nghiệp vô thủy nhưng hữu chung. Cầu cho chúng tôi được giải thoát dù ở cõi âm hay cõi dương.



Jesus, Maria cũng là người?
Outsider from the beginning • NY Review of Books Dec 2025 
Diarmaid MacCulloch

"Jesus còn làm nhiều việc khác nữa. Giá như các điều ấy được ghi chép thì thế giới không cần thêm sách nào nữa". Đấy là những chữ cuối cùng trong Phúc Âm John (John's Gospel). PÂ John đã dùng 21 chương ghi lại những điều mà Jesus có thể đã làm, trong 30 năm sống trên thế gian nầy, giống như ba PÂ khác. Tuy vậy, tín hữu Christian luôn luôn tự hỏi các điều gì mà Thánh Kinh không ghi chép. John nói vấn đề nầy không thể được giải quyết thỏa đáng trong thế giới trần tục nầy, mặc dù nhiều chứng liệu rời về TCG nguyên thủy được khai quật từ lòng đất Ai Cập hay những góc trời nào khác ở Phi Châu hay Tây Á.
PÂ John là PÂ nhiều huyền bí nhất trong bốn PÂ mà Giáo Hội công nhận là thánh điển, có thẩm quyền nói về đời sống, cái chết và phục sinh của Chúa Ky Tô (Jesus the Christ).

Chương một bắt đầu bởi một thánh ca ngợi khen thánh ngữ (phúc âm, Word). Phúc âm hiện hữu ở chỗ bắt đầu, phúc âm do God mà ra, phúc âm chính là God. [In the beginning was the Word, and the Word was with God, and the Word was God], PÂ gồm những chuyện kể về sự tạo thiên lập địa, bắt đầu Sáng Thế Ký. Trong cuốn PÂ của thánh John, bạn không cần đến Bethlehem đến máng cỏ, gặp các thiên thần, các bé chăn cừu. Bạn chỉ việc ngắm trời đất. Phúc âm, thánh ngữ, một danh tự hoàn vũ, và cũng chính là God, sẽ đến với bạn, God đến với tư cách một nhân thể, một con người được sinh ra bởi một phụ nữ tên Mary vào thế kỷ thứ nhất ở nơi bây giờ là Palestine. John đưa ra một lời xác nhận rõ ràng trong sáng nhất về sự huyền bí cốt lõi của TCG (mà mắt trần xem là vô lý): chủ thuyết nhập thể, thánh ngữ, phúc âm, Word, biến thành xác thịt.  神 灵 的 化 身 thần linh đích hóa thân.

Phúc âm hiện hữu ở chỗ bắt đầu [“In the beginning was the Word”] trước tiên làm cho tín hữu nói rằng Thánh Kinh là lời của God. Nhưng John minh bạch đáp rằng Thánh Kinh không phải là lời của God. Jesus mới là lời của God.
Được qui tập dưới danh hiệu Bible là một số tài liệu đa tạp gọi là các sách (Hy Lạp: Biblia; La Tinh: libri) như sách khải huyền, sách di dân. Nhìn tổng quát Bible không phải là một cuốn sách mà là nhiều cuốn sách. Trong tiếng Hy Lạp, ngôn ngữ đầu tiên dùng trong TCG, biblia thuộc số nhiều. Người Do Thái nói tiếng Hy Lạp đã dùng chữ nầy rất lâu trước khi Jesus xuất hiện, trong Thánh Kinh Do Thái, Hebrew.
Biblia trước tiên gồm cuộn giấy tròn là những sách riêng biệt. Tín hữu TG nói tiếng Hy Lạp mượn danh từ cổ điển Biblia để chỉ cặp thánh điển gồm Cựu Ước (viết lại từ thánh điển Hebrew) và các sách mới viết về Jesus gọi là Tân Ước.
Trong Tân Ước chúng ta tìm gặp các PÂ (Gospel) và sử đồ thư 使 徒 書 Epistles viết bởi nhiều người khác nhau, cộng với hai ngoại thư (outlier) • truyện lịch sử kể hành vi của các tông đồ (Acts of the Apostles) và • sách Khải Huyền, Book of Revelation (khải thị lục 啟 示 錄 ).
Biblia La Tinh không hoàn toàn là số nhiều, là một danh từ số ít giống cái. Từ đó Bible được xem là một quyển sách duy nhất; các ngôn ngữ Ấu Châu cũng theo đó mà có một danh từ số ít (singulier): a book, un livre.
Tuy vậy, ở Bắc Âu, một dân tộc mới theo TCG là Anglo-Saxon dùng Anh ngữ cổ đại "biblioðece" mang ý niệm số nhiều như biblia xưa (chữ nầy có nghĩa cũ là nhà sách hay thư viện). Bible không phải là một cuốn sách mà là nhiều cuốn sách. Bible giống như nhạc đa điệu viết cho nhiều giọng hát khác nhau. Biblia là tiếng nói (như tiếng bập bẹ của trẻ thơ) là tiếng nói đầu đời (babble) với đấng linh thiêng. Mà đấng linh thiêng God đa dạng như số nhiều văn phạm, (plurality)  Father, Son, and Holy Spirit. (Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần).

Phần dẫn nhập nầy dài dòng, phức tạp trừu tượng nhưng cần thiết để hiểu cuốn sách của Elaine Pagels Miracles and Wonder. Nữ học giả  chuyên nghiên cứu TCG nguyên thủy nầy đã trình bày Jesus vừa là một đấng linh thiêng vừa là một một nhân thể gương mẫu cho sự sùng tín TCG. Bà đã cứu xét các chứng cứ trong Thánh Kinh chính thức và một số tài liệu viết vào thế kỷ thứ hai. Số tài liệu nầy mang tính chất gnostic.  [Gnosticism gồm nhiều nhánh nhưng có chung ý chính rằng giải thoát nhờ ở minh tâm thấy được đấng siêu nhiên. Họ dùng đường lối nầy để thực thi những điều Jesus thuyết giảng, và tự xem là những tín đồ TCG. Giới lãnh đạo giáo hội xem gnosticism là tà đạo đã đi đến quyết định thanh trừng].
Elaine Pagels đã tìm ra những nghịch lý trong Tân Ước. Tân Ước hoàn toàn viết bằng tiếng Hy Lạp trong khi Jesus nói tiếng Aramic và đã thuyết giảng bằng ngôn ngữ nầy. Nội dung Tân Ươc nằm trong khoảng từ năm 50 đến năm 120, nghĩa là mọi việc xẩy ra sau khi Jesus chết ở tuổi 33. Cả bốn PÂ ghi thụt lui thời gian sự kiện quân lính La Mã đập phá Đền Jerusalem năm 70. Do Thái Giáo và TCG đã tìm mọi cách che những điều khó hiểu nầy.
Tuy nhiên những sửa đổi trong Thánh Kinh không đúng sát với đời sống và giáo lý của Jesus. Nhiều người đã ngạc nhiên nếu không nói là thất vọng khi PÂ John ghi tiếp: Có một người God đưa đến, người ấy tên là John [“There was a man sent from God, whose name was John.”] Nhân vật nầy đồng thời với Jesus: John, người rửa tội cho kẻ khác (John the Baptist). John người viết PÂ là một nhân vật khác. John nhà văn đã định rõ vị trí của John, nhà rửa tội: Ông không phải là ánh sáng nhưng làm chứng có ánh sáng ấy.
Theo tất cả 4 PÂ, Jesus đã được rửa tội bởi John; lễ nầy chưa từng có trong Do Thái Giáo cho biết đó là một yếu tố riêng biệt đặc thù của John. Qua vụ rửa tội nầy John đã cầm đầu một phong trào, một cuộc vận động tôn giáo trước khi Jesus khởi xướng đường lối riêng. Tạm xem Jesus tranh tài với John the Baptist. Tiếp đến các PÂ đã chứng minh Jesus tài giỏi hơn hay hơn, cao tay hơn.

Học thuật tây phương đã mất 1/4 thiên kỷ soi lục các PÂ và tám sử đồ thư của tông đồ Paul để tìm một Jesus có thực và các tài liệu chính thống chép lời của Jesus. Giới Christian cho rằng cuộc nghiên cứu phân tích nầy  - tuy chưa từng có trong lịch sử tư tưởng - mang mầm mống tiêu cực phá hoại. Nhưng nhờ vậy mới có một khái niệm hợp lý và rõ ràng vể những gì Jesus truyền giảng: thông điệp khẩn cấp về sự xuất hiện gần kề có ngay Vương Quốc của God đánh đổ nếp sống hiện tại của thế giới.
Chúng ta có khuynh hướng hỏi điều gì mới, điều gì tân kỳ nhưng câu hỏi đúng là tầm mức quan trọng của lời giảng. Dĩ nhiên lúc ấy đã có rất nhiều biện sĩ du thuyết. Nhưng những điều Jesus chia sẻ với người đồng thời, trái lại, rất thực tế, không mới lạ, đã có trong các nền triết lý xưa. Hãy làm cho người khác những gì mình mong người khác làm cho mình. Đó là khuôn vàng thước ngọc (Golden rule, Matthew 7:12).
Ngược lại, vài câu nói trọng yếu nay trở thành vụng về mà nhiều thế hệ giáo dân đã cố quên. Let the dead to burry their own dead (Luke 9:50) (lo chi việc chôn cất?!) nhưng việc chôn cất là một sinh hoạt chính của giáo hội và giáo dân. Thứ đến, Jesus cấm ly dị toàn diện. Thánh Paul đã không biết phải ghi chép thế nào, khó quá. Vài chục năm sau, tông đồ Matthew đã phải hiệu đính lời Chúa bằng cách cho phép ly dị khi người vợ ngoại tình (Matthew 19:9). Ly dị là một trong những lý do chia rẻ giữa hai giáo hội Đông và Tây; hai bên đều nại lời của Jesus nhưng lời của Jesus khác nhau trong các Gospel. Jesus không đả động đồng tính luyến ái (homosexual) mà lên án vô luân, đạo đức giả (hypocrisy). Tuy vậy, hậu duệ của Ngài không bao giờ đưa lên dàn hỏa thiêu một kẻ vô luân nào; trái lại giáo hội đốt sống lũ "same sex marriage"; thanh trừng homo từ Trung Cổ cho đến bây giờ.
Elaine Pagels đã phanh phui những giăng mắc trong Tân Ước và theo sát các sự thay đổi, thích hợp hóa. Bà đã tự giới hạn khả năng và thành quả của mình ở trang cuối cùng như sau:
♪"Kinh nghiệm nghiên cứu lịch sử đã làm tôi hết sức cẩn trọng. Chúng ta không biết khúc nào đoạn nào là ngụy tạo; khúc nào đoạn nào dựa trên chứng cớ trực nghiệm. Rất nhiều chỗ tự biên, không thực, hay chỉ là những ẩn dụ không thật".♪ 
Lời nầy đã giải tỏa áy náy của độc giả, không còn tự hỏi phải chăng Bible mà một cuốn sách đan kết liền lạc ăn khớp với nhau, diễn tả đầy đủ Word (thánh ngôn, phúc âm) của God. Pagels không tin có thể dựng lại những gì Jesus nói như Ngài muốn nói, không thể xác quyết tính chất nhất thống (không mâu thuẩn) trong những gì gọi là lời của Jesus. Giới hữu trách và hữu quyền trong giáo hội luôn tìm thêm những điều mới trong Cựu Ước để cập nhật, hay giải thích lại các thông điệp ngõ hầu củng cố lòng mộ đạo. 
Hai PÂ Matthew và Luke nói gì về việc Chúa Hài Đồng ra đời. Hai tường trình nầy đẩy chúng ta vào cuộc tranh luận gay cấn và nhiều cảm tính nhất trong thế giới TCG. Đó là quan niệm về giới tính và giới dục tính (sex and sexuality).

Trong thập niên 1980, Jane Schaberg, học giả Thánh Kinh, nghiên cứu về sự ra đời nầy, không những bị quấy rầy mà còn bị đặt bom trong xe đậu trong sân trường. Lý do là một bước nhảy sai khi bà nói các Gospel đều viết trên thực trạng rằng Jesus là một đứa con thụ thai ngoại hôn của Mary. Joseph, người chồng chưa cưới của Mary nhận đứa bé vào gia đình vì tình thương. Jesus, ngay từ đầu là một kẻ ngoại thuộc (outsider).
Phả hệ của Jesus được mô tả hoàn toàn khác nhau trong hai sách của Matthew và Luke. Luke nói Jesus là con trai của Joseph: the son of Joseph (Luke 3:23). Matthew nói rằng: Joseph biết Mary không ... cho đến khi Mary sinh ra một đứa con trai. (Joseph know Mary not...until she has borne a son (Matthew 1:25).
Sự bất đồng nêu trên có thể thăng hóa xóa mờ vì cả hai Phúc Âm đều theo cùng mục đích. Kết nối vị cứu tinh hiện tại Jesus vào dòng máu của anh hùng lịch sử David, theo đường dây dẫn là Joseph, cho dù Jesus là con của God. Hai ông đã đặt sự ra đời của Jesus trong "kinh thành David", tức Bethlehem, nơi xưa kia nhà tiên tri Samuel đã tìm ra David sau làm vua Do Thái. Tuy vậy nhiều nơi khác trong các PÂ và sử đồ thư, Jesus gốc làng Nazereth rất xa Bethlehem. Vài tranh luận ghi trong PÂ John cho biết Jesus người Nazareth. Cựu Ước Do Thái chép lời tiên tri của Micah về sau sẽ có một vị cứu tinh sinh ở Bethlehem.
Luke giải quyết mâu thuẩn địa dư nầy bằng cách nói Joseph và Mary phải rời Nazareth đến Bethlehem vì đạo luật thuế La Mã buộc mọi người về sinh quán để ghi tên vào sổ bộ thuế; theo phả hệ từ vua David, Bethlehem là sinh quán của Joseph. Lời giải thích nầy không tương hợp với lịch sử. La Mã có làm cuộc kiểm kê dân số vào thế kỷ thứ 6; hơn nữa từ David đến Joseph có cả trăm thế hệ, quá lâu không thể làm lý do ép Joseph vào bộ thuế Bethlehem.
Giáng Sinh của Chúa Hài Đồng không phải là lịch sử nhưng là một phóng chiếu tiên tri tuyệt vời trong lịch sử TCG. Một hài nhi vùng Tây Đông Á Châu được sinh ra ngoài mô thức qui ước về gia đình đã khơi dậy một ý nghĩa hoàn vũ làm cho cả thế giới tin theo. Những người đến chiêm bái máng cỏ thuộc các thành phần xã hội, từ những đứa trẻ nghèo mù chữ cho đến các học giả uyên bác cổ kim. Hai ngàn năm đã bỏ xa những con dê, cừu, lạc đà, nhà thiên văn cũng vua Herod độc ác.
Nhưng trên hết chuyện ra đời của Chúa Hài Đồng lưu ý chúng ta rằng sinh đẻ là việc của phụ nữ, chứ không phải của đàn ông: các bà cưu mang hài nhi trong đau khổ và trong vui sướng.

Các PÂ cho thấy cảnh gia đình thế tục của Jesus. Ngài có bốn anh em ruột, hai chị em ruột, điều nầy nêu lên những nghi vấn phải chăng Mary là gái đồng trinh vĩnh viễn đời đời.

Giá trị gia đình không phải là mối ưu lo của Jesus, Jesus nói sẽ có phần thưởng đặc sắc cho những kẻ từ bỏ gia đình để đến Vương Quốc của God. Jesus hầu như từ bỏ gia đình ruột thịt, kể cả bà mẹ. Khi bà Mary và các anh chị em của Ngài đến dự một buổi truyền giảng công cộng và muốn nói chuyện với Ngài thì Ngài chỉ vào các môn đệ mà nói rằng những tông đồ nầy là vợ và con ta (Mark, Matthew, Luke). PÂ Luke còn đi xa hơn nữa. Jesus bỏ lơ mẹ và một bà bạn, làm cho bà nầy phải nói to: Hãy ban phước lành cho cái bụng mẹ đẻ ra Ngài, và đôi vú cho Ngài bú. Jesus đáp: đúng ra phải nói bang phước lành cho kẻ nghe nhớ lời của God.

Hơn ngàn năm sau, người Christian không để ý những tiểu tiết mà hết sức sùng bái Đức Mẹ Maria, mẹ Chúa Trời. Đến thế kỷ 16 mới có sự kiện gọi là cải cách thệ phản (Protestant Reformation) đi ngược sự sùng bái nầy. Họ cho rằng bà Mary là nguồn gốc mọi sự hủy diệt thông điệp TCG, họ rất bực bội khi có ai nói bà Mary không có tội (sinless) và phủ nhận sự thụ thai vô nhiễm (Immaculate Conception) của bà.
Pagels không phải là người đầu tiên nêu các điều bị bỏ qua vô tình hay cố ý. Nhưng cuốn sách của bà đã phối hợp các sự nghiên cứu học thuật để trình bày một Jesus hết sức cấp tiến (radical), một khuôn mặt chúng ta có thể nhân dạng dễ dàng nhờ kinh nghiệm bản thân.

An Outsider from the Beginning | Diarmaid MacCulloch | The New York Review of Books



Friday, December 12, 2025

Ra đi từ Vĩnh Long

 

sông lạch miền Nam
ngôn ngoại, trực giác
Tâm Thanh 

Tôi về Việt Nam ăn Tết, khi trở lui Oslo, gặp một chuyện trên máy bay, tới bây giờ vẫn còn lấy làm lạ. Tôi cũng hơi áy náy nữa, nên mong bà ngồi bên tôi chuyến đó, ghế số 27E, tình cờ đọc được bài này sẽ cho tôi biết tin bà có bình an không, mặc dầu khi chia tay, bà ra dấu hiệu ‘Cứ yên tâm’.

Đầu tiên khi lên máy bay tôi đã thấy bà chiếm chỗ của tôi, 27D, mà ngủ li bì. Lạ thật, mới lên máy bay đã ngủ. Tôi không dám đánh thức vì thấy mặt bà co giật một cách khổ não, chỉ sợ đụng phải lỡ bà lăn đùng ra thì mang vạ. Đấy, cái gì tôi cũng cứ nói thật, xin bà bỏ qua. Cuối cùng, vì bị hành khách đi sau thúc quá, tôi đành bước qua người bà mà vào chỗ ngồi tạm. Trước khi máy bay chuyển bánh ra phi đạo để cất cánh, cô tiếp viên tới kiểm soát, thấy bà chưa cài dây an toàn, lại bảo tôi cài cho bà. Một sự lầm tưởng tai hại. Nhưng tôi không đủ lanh trí để cải chính một cách tế nhị, chẳng lẽ tự dưng tôi nói ‘bả không phải vợ tôi’? Vả lại, cài giùm cái dây có cần gì phải là vợ chồng? Tôi nghiêng qua người bà tìm mối dây bên kia, nghe nồng nực mùi dầu cù là. Tôi nín thở cài khóa, tiếng kim loại ăn khớp kêu lách cách xác nhận là tôi đã làm chu đáo một nhiệm vụ nhỏ, nhưng có thể trở thành lớn, nếu nói dại có trục trặc gì xảy ra. Nhưng máy bay cất cánh an toàn. Khi đèn báo hiệu cho phép cởi dây an toàn, tôi cởi cho mình, rồi tần ngần nghĩ đã cài cho bà, thì tôi cũng nên cởi cho bà.
    – Ê! Làm gì kỳ vậy, cha già mắc dịch!

‘Chát!’ Bàn tay tôi bị bắt quả tang đang thò sang lòng bà. Tôi vừa giận vừa xấu hổ, ức quá mà không dám gây sự lại. Thôi thì phải tự an ủi là bà chưa ngoác mồm tuôn ra một tràng xỉ vả nặng hơn nữa, và còn may là hành khách chung quanh coi bộ không ai chú ý tới lời ‘vu cáo’ trắng trợn kia. Tôi đành im lặng chịu trận cho tới khi nghe bà nói trổng:
    – Mắc đái thấy mụ nội. Bao giờ máy bay mới ghé đổ nước, cho hành khách đi đái không biết?
Được dịp ‘đáp lễ’ sự lỗ mãng của bà bằng sự đàng hoàng và kẻ cả của mình, tôi chỉ giùm làm phước:
    – Toilette ở trước mặt kia kìa, bà.
    Bà ngơ ngác nhìn lên rồi ngơ ngác nhìn lại tôi:
    – ‘Toa với lết’. ‘Lết’ đi đâu cha nội? Tui mắc đái són ra quần bây giờ nè. Chạy te không kịp, ở đó mà ‘lết’.
Tôi bỗng nhận ra bên cạnh tôi là một người đàn bà, mặt thuôn dài, lưỡng quyền cao, khá đẹp, nhưng quê như một cục. Tôi hết giận:
    – Bà có biết đọc … xa tới đằng kia nổi không?
    – Chữ ta thì đánh vần được chớ, sao không? Mắc cái chữ Tây ôn dịch gì đâu. Mà biển gì kẻ chữ bằng con kiến!
    – Bà khỏi cần đọc chữ cũng được. Lên đó, thấy có cái cửa nào có vẽ hình ông Tây với bà Đầm, thì bà vào chỗ bà đầm mà … đái.
Bà vừa nhổm dậy đã bị sợi đai trì lại, la to:
    – Ối chu cha! Con mẹ đứa nào nó cột eo ếch tui, tế mồ tế mả nhà nó!
Tôi im thin thít, không dám tự thú nhận ‘tội ác’ của mình, chỉ giúp bà mở khóa dây. Giữa lúc không hề dám mong đợi, tôi lại được bà ban cho một nụ cười tươi rói, và một giọng ỏn ẻn:
    – Té ra hồi nãy chú tính cởi trói cho tui hả? Không biết đứa mắc dịch nào đi tầu đi xe mà còn phá.
Rồi bà lảo đảo đi lên cầu tiêu, lâu lắm mới thấy trở lại:
    – Không thấy nhà cầu đâu hết. Chú giắt tui đi được hôn?
    Tôi tính nói ‘bảo đảm bà không kiếm ra cái cầu cá tra trên máy bay đâu’, nhưng lại im lặng hướng dẫn bà lên cầu tiêu, mở một cửa trống chỉ cho bà vào. Bà ngạc nhiên:
    – Thì hồi nẫy người ta cũng chỉ cho tui cái tủ kín bưng như vầy. Có cầu kiều mẹ gì đâu?
Đã trót thì trét, tôi kéo bà vào hẳn bên trong, chỉ cho bà cách ngồi cầu, xé giấy, cách bấm nút xối cầu, rửa tay bằng xà bông, và thoa nước thơm, đủ lễ bộ. Để chắc ăn, tôi bảo bà làm ơn thực tập thử cái thủ tục quan trọng nhất là nhấn vào cái nút xối cầu. Bà vừa thò tay nhấn nút, tiếng cống hút rồ lên như cọp táp gà con, bà ôm chầm lấy tôi la:
    – Trời đất thiên địa ơi! Con gì nó rống quá trời!
Khi tôi để bà ở lại và đi ra, có một một cậu Việt Nam đứng chờ, nhìn một cách hóm hỉnh nói nhỏ:
    – Ông bà tình ghê!
Câu này, chắc hôm đó bà không nghe đâu, nhỉ? Về chỗ, tôi vẫn ngồi vào cái ghế đã bị đổi, đầu tràn ngập những dấu hỏi về người đàn bà kỳ lạ. Bà đi với ai? Đi đâu? Làm gì? Khi bà trở lại, lò dò mãi không tìm thấy chỗ, tôi phải vẫy tay, kêu:
    – Bà ơi! Đằng này nè!
    Tôi nghe từ hàng ghế sau, phía bên trái có giọng đàn bà, tiếng Việt:
    – Ông già lấy được bà vợ đẹp, chỉ tội quê không để đâu hết.
    Bụng tôi thon thót theo mỗi bước chân của bà, chỉ lo ngại cho những cái đầu người ngồi dẫy bìa bị tay bà quơ phải, lỡ mà bà nhằm cái đầu tóc giả của một ông Tây mà vịn thì tôi phải tuyên bố ‘ly dị’ ngay tại chỗ. Nhưng tôi thở phào khi cuối cùng bà tới được chỗ ngồi bình an, gieo bàn tọa cái rầm, thả ra mùi ‘eau de Cologne’ pha lẫn mùi dầu cù là.
    – Bà đi máy bay lần đầu?
    – Chớ lần mấy?
    – Bà đi đâu ạ?
    – Phần-lan.
    – Bà đi thăm bà con bên đó, chắc?
    – Bà con hồi nào? Theo chồng.
    – Ông nhà sang Phần-lan lâu chưa?
    – Chả người Phần-lan …

Bà kể bà làm nghề chèo ghe đưa khách tại bến đò Vĩnh Long. Chở bạn hàng cũng có, mà sau này chở khách du lịch cũng có. Thường thì bà chậm chân, không tranh được mấy mối khách du lịch béo bở. Một hôm bà để ý có một ông khách Tây cứ ngồi uống cà phê đá mà nhìn bà cả buổi, ‘cái đầu xồm không nhúc nhích’ và ‘cái môi đỏ chót liếm lia’. Cuối cùng ông đứng lên ra bến, đưa tay gạt hết mấy thằng giành mối ra một bên, mà tiến thẳng lại ghe bà, chẳng nói chẳng rằng, bước xuống, và bà chèo ghe cho ông coi cảnh trên sông Cổ Chiên. Bà nói tiếp:
    – Chiều về chả rút bóp ra một xấp tiền đô. Tui hổng dám lấy. Thằng chả xòe ra biểu lấy một ít cũng được. Nhưng chú tính coi – ai lấy kỳ vậy?

Cô tiếp viên đưa khay ăn tới. Tôi giúp bà hạ bàn xuống, chọn nước uống, và chỉ bà cách dùng mấy thứ lỉnh kỉnh như dao nĩa, khăn ăn v.v. Và tôi ngạc nhiên tại sao một người chèo đò nhà quê mà có bàn tay búp mang đẹp như vậy. Bà cầm dao ăn như cầm búa, nhưng ăn vén khéo và rất … bạo - so với các mệnh phụ phu nhân khác. Vẻ tự nhiên của bà và những món ăn hấp dẫn với rượu vang khiến tôi lên tinh thần. Tôi thấy đã đủ thân mật để nói đùa:
    – Bà không lấy tiền, chứng tỏ bà mê ông rồi?
    Bà cười khinh khích:
    – Mê cái mốc xì họ. Bộ ghe chùa sao? Tôi lấy cái tờ có vẽ số 1.
    – Sao bà không lấy tờ vẽ số 10 hay 20?
    – Lấy đủ công mình thôi chớ.
    – Rồi sau đó?
    – Sau đó hả? Mấy bữa sau, bữa nào chả cũng trở lại thuê ghe tui đi chơi lòng vòng… Rồi chả đòi lấy tui.
    – Ý! Chết mẹ người ta chưa!

Dầu biết trước bà đang trên đường đi về nhà chồng, tôi buông ra một câu sững sờ như thế vì hồi kết cuộc tới một cách đột ngột quá. Không ngờ tiếng reo của tôi đã làm giọng của bà ấm hơn , thốt ra mà thấy sướng cổ họng. Nhưng thấy sau đó bà im bặt, tôi lại lo bà giận tôi lỗ mãng.
    – Xin lỗi nhé!
    – Lỗi gì?
    – Dạ, không.
Tôi chờ đợi một câu truyện hấp dẫn, có đầu đuôi hơn. Tôi muốn biết buổi hẹn hò đầu tiên ở đâu? ông tỏ tình thế nào? tại sao bà biết ông thương mình thiệt? cái gì làm cho bà thích ông? ông làm nghề gì? có tổ chức đám cưới không? Nhưng bà không kể nữa, tiếp tục ăn món tráng miệng, khen ngon.
Tôi uống sang ly Cognac thứ ba, nghe ra giọng nhừa nhựa của chính mình:
    – Dô! Dô! Mừng cho mối tình của bà! Đẹp thấy … mẹ!
    Bà nhìn tôi, cau mặt:
    – Ê! Chú hổng nên bắt chước tui ăn nói cái kiểu ẩu tả đó.
Thế ra bà vẫn biết mình ăn nói khác thường. Tôi chữa:
    – Bà nói ngon lành hết xảy, chứ đâu có … ẩu tả.
    – Chú nói thiệt tình hay xí gạt tui?
    – Tui xí gạt bà làm mẹ gì? Bà là người tốt muốn chết.
    – Chú coi bộ cũng được, nên tui khuyên chú đừng bắt chước tui. Tui trót học thói xấu, không sửa được. Không muốn sửa. Thằng khốn nạn đó …

Tôi ngạc nhiên, tại sao mới ‘thằng chả’ thân mật đã lên cấp ‘thằng khốn nạn’?
    – Bà nói ai … khốn nạn?
    – Thằng chồng của má tui.
    – ‘Chồng của má’, tức thị là cha?
    – Cha ghẻ tui đó. Mà tui có kêu chả bằng cha đâu.
    – Sao vậy?
    – Nó nhậu say rồi đánh đập mẹ tui tối ngày. Một hôm nó định giở trò súc vật với tui, mẹ tui bắt gặp, nó đánh mẹ tui bất tỉnh nhơn sự, tui quơ con dao yếm, huơ cho nó ớn mà giang ra, ai dè nó tự lao thây vào lãnh dao, chết ngắt. Đúng là số chả chết. Bị ma men vật. Tui .. tui không cố ý. Ông tòa cũng thông cảm cho tui như vậy. Tui chỉ bị ba năm tù. Lúc má tui đau nặng, người ta lại thả cho về sớm gần năm để nuôi bả.

Bà ngưng kể, khóc. Tôi im lặng để bà khóc tự nhiên, nhưng thấy bà khóc mãi, tôi an ủi:
    – Việc đã qua rồi. Bà đừng buồn nữa.
    Bà mủi lòng, khóc mùi hơn:
    – Tui nhớ má tui với thằng Mẫn quá. Tui bỏ đi thiệt là tệ. Không ai coi chừng má tui với nó hết trơn.
    – Thằng Mẫn là ai?
    –  Nó là em cùng mẹ khác cha với tui. Nó bị tàn tật, què giò.
    – Cha em là ai?
    – Thằng chồng mắc toi của mẹ tui, chứ ai?
Tôi quay nhìn khuôn mặt hiền lành đẫm nước mắt và nghĩ có lẽ chính khuôn mặt này đã làm cho các quan tòa giảm khinh cho bà tội vô ý giết người. Phải tay tôi, đã cho bà trắng án. Rồi như bấm nút, bà nín bặt, chùi nước mắt, nói ráo hoảnh:
    – Bảy năm cãi lộn với thằng cha ghẻ và hai năm tù, hết thảy chín năm, tui quen ăn nói ba trợn. Sửa lại thấy … miệng lạt nhách.

Bà nói xong than:
    – Tui mắc ói quá. Trước khi lên máy bay đã uống ba viên thuốc, mà còn mắc ói.
    – Hèn gì bà vừa lên máy bay đã ngủ li bì.
Tôi vừa kịp banh cái bao ói thì bà ọc ra. Bà lại lấy dầu cù là ra xức. Cái nồng nàn của những chuyến đò đêm, cái ngất ngưởng của những chuyến xe đò trưa nắng, cái bệnh viện lưu động đó, dầu cù là con hổ. Hai mươi năm mới gặp lại, gặp lại vẫn nồng nàn. Tôi bật ghế cho bà nằm nghỉ. Tôi cũng ngả người, nhắm mắt, suy nghĩ miên man về câu chuyện của bà. Thỉnh thoảng tôi hé mắt, thấy bà chăm chú coi phim trên màn ảnh truyền hình. Tôi chỉ cho bà đeo ống nghe. Tay chạm phải bộ tóc thật rậm, khỏe mạnh.

Không biết máy bay đã bay tới đâu và mấy giờ ở dưới mặt đất. Tôi có cảm tưởng thời gian và không gian như đọng lại ở một nơi xa lạ, không liên quan tới trái đất. Nhưng tôi vẫn tưởng tượng dưới đó hàng mấy tỉ người đang lao xao cười, khóc, nói thật và nói dối, thông cảm và ngộ nhận, bằng nhiều thứ ngôn ngữ, chân ngôn xen lẫn ngụy ngôn.
Tôi thức giấc đã nghe nhiều người rục rịch. Bà đã bật ghế thẳng, ngồi đan áo, tôi hỏi:
    – Bà không ngủ?
    – Ngủ mẹ gì được. Vừa chợp mắt đã nghe tiếng gà gáy.
 Tôi ngạc nhiên:
    – Trên máy bay, làm gì có gà kìa?
 Bà không do dự:
    – Chắc nó gáy trong đầu tui. Bị ở nhà quê, nghe gà gáy riết, quen đi, cứ gần hừng sáng là nghe gà gáy trong tai.

Hình như bà giao tiếp với thế giới bên ngoài bằng trực giác. Thuần trực giác. Tôi chắc người đàn ông gặp bà trên bến đò Vĩnh Long cũng có trực giác rất mạnh. Tôi thích nghe tiếp câu truyện về họ.
    – Tại sao ông không về Việt Nam … rước dâu?
    – Chú đừng kiêu ngạo tui… Chả đòi sang đó chớ. Nhưng tui không cho. Tui nói dìa chi tốn tiền. Tui xin món tiền đó cho thằng Mẫn ăn học, chả bằng lòng, gởi tiền dìa rồi.
Khi bà dẹp len và kim đan để chuẩn bị ăn điểm tâm, tôi hỏi:
    – Bà đan áo cho ông?
    – Bển nghe nói lạnh lắm.
Chúng tôi ăn xong, máy bay qua một vùng ‘ổ gà trời’, hổng lên hổng xuống. Đèn báo nhắc cài dây an toàn. Lần này tôi chỉ cho bà cái khóa. Hành khách đi máy bay gặp những báo hiệu cài dây thế nào cũng ít nhiều lo lắng. Rủi ro, ai biết? Loa phóng thanh loan báo có bão, nhưng hành khách có thể yên tâm. Tôi lòn tay dưới gầm ghế, lấy cái phao cấp cứu. Bà hỏi:
    – Cái gì vậy?
    – Cái phao cấp cứu. Tôi chỉ kiểm soát xem nó có đó không, để mình yên tâm.
    – Tui đi sông đi nước hai chục năm trời, chẳng phao phiếc gì, cũng chẳng chết. Hôm đầu thằng chả xuống ghe cũng bày đặt hỏi phao, tui nói không cần, chả cũng chịu. Riết rồi chả nói đi ghe với tui mà không mang phao mới thích.
Bà không lộ một thoáng lo âu nào. Tôi có cảm tưởng người đàn bà này bay trên 10 ngàn bộ cao mà tưởng mình đang bơi xuồng trên sông Cổ Chiên, xuồng lật, chỉ việc nhào xuống nước bơi. Tôi cất phao trở lại chỗ cũ, hỏi:
    – Bà có chắc ông sẽ ra đón không?
    – Tui chắc mà. Tui biết ai là người tin được. Tui biết thằng cha này không bao giờ nói xạo.
lâu đài Suoomenlinna, Helsinky

Tôi cảm phục lòng tin của bà lắm, bà ạ: Bà bước thẳng lên mây đến với chồng. Tôi nghĩ mọi người trên chuyến bay này đều biết trước về cuộc hành trình, và biết điểm tới. Chỉ có bà nhắm mắt mà bước lên mây, không biết điểm tới nằm chỗ nào trên mặt đất. Bà đi tới với chồng, chứ không đi tới một nơi nào cả. Không một giây hồ nghi. Câu hỏi ‘Liệu ông chồng có tới đón không?’ chỉ bám vào đầu tôi, một con người thường thấy quá nhiều sóng lớn trên biển đời, lòng tin thường bị nhận chìm, đến nỗi mỗi bước đi về sau trở thành một dấu hỏi.

Tôi phải chờ bảy tiếng đồng hồ tại Copenhagen để được chuyển máy bay đi Oslo. Lịch trình bay đã ghi như vậy từ đầu. Còn bà, theo lịch trình lẽ ra chỉ phải chờ ba tiếng để chuyển máy bay, nhưng vì trục trặc đình công sao đó, phải thêm hai tiếng trễ nải. Chính hai tiếng trễ nải này khiến cho tôi lo ngại giùm bà. Tôi đề nghị:
    – Bà nên báo cho chồng bà biết máy bay trễ.
    – Chả biết mà … Cái gì chả cũng biết hết đó.
‘Cái gì chả cũng biết’, đã tin chắc như vậy, thì thôi, kệ bà. Tôi hướng dẫn bà đi coi các gian hàng trong sân bay. Bà bị kích thích mạnh vì vẻ tráng lệ và đồ vật bày trong các cửa hiệu. Bà trầm trồ, reo vui. Tôi hỏi bà có định mua cái gì làm quà cho chồng không, vì đồ ở đây miễn thuế, rẻ hơn ở ngoài, bà nói:
    – Tui mang theo nhiều đồ lắm, khỏi cần mua. Chú đừng cười nghe, tôi may ba bộ birama, kho một nồi tôm, và mua năm ký bánh phòng tôm, hai ký kẹo dừa. Nghe nói mấy thứ này ở bên tây không có. Mèn ơi! Tây u gì mà nó thích ăn tôm kho tầu gì đâu …

Đi với bà, tôi có cái vui thích như đi bên cạnh một đứa trẻ tò mò. Trẻ ngoan nữa, vì bà từ chối khi tôi đề nghị mua tặng một cái máy sấy tóc mà bà rất thích.
    – Ai lại để chú mua, kỳ chết. Để chả mua cho tui, nếu tui còn thích.
Theo tôi, bà có một bộ tóc mây quá đẹp. Tôi hy vọng ông chồng sẽ thuyết phục được bà đừng uốn tóc. Tôi thăm dò:
    – Tóc bà để tự nhiên như thế đẹp hơn.
    – Biết đâu thằng chả.
‘Biết đâu thằng chả’, thế là cả nhan sắc bà cũng giao cho ông luôn.
    – Hèn gì.
    – Chú lẩm bẩm cái gì?
    – Dạ, không. À, tôi định nói con gấu bông kia nhỏ bé quá, hèn gì ai cũng muốn bồng.

Tuy nhiên, bà càng tin tưởng, phó thác một cách ngây thơ, đầu óc đầy sạn của tôi càng nghi ngại. Rủi chồng bà không tới, bà sẽ xoay xở ra sao ở nơi xa lạ? Khi đi qua một trạm điện thoại, tôi đề nghị:
    – Bà nên điện thoại cho ông báo tin máy bay trễ, để ông khỏi lo.
Bà ngẫm nghĩ, rồi trả lời:
    – Chú nói có lý. Nhưng làm sao ra nhà dây thép bây giờ?
Tôi lấy cái thẻ nhựa của tôi tra vào máy điện thoại, và quay số bà ghi trong một tờ giấy nhét cẩn thận trong bóp. Chuông điện thoại reo. Bỗng tôi ngại ngùng, có thể người đàn ông nghe tiếng tôi ở đầu dây bên này, biết tôi đứng bên cạnh vợ ông và đâm ghen không. Tôi vội trao máy cho bà trước khi đầu dây bên kia trả lời. Tôi nghe bà la oang oang bằng tiếng Việt :
    – Ê! Ông Ron đó hả! Ê ông có nghe không, Ron, Ron, Ron?!
Bà nói liên hồi, xăng xái. Bà bụm bàn tay trước ống nói mà hét lên, cũng không có tiếng trả lời. Tôi nhớ đã thử lại nhiều lần nhưng không ai trả lời. Tôi an ủi:
    – Có lẽ ông đã đi đón bà, và đang chờ ngoài phi trường.

nữ tiếp viên Finnair, thập niên 1960
Sắp tới giờ bà phải lên máy bay, tôi cần được giải đáp vấn nạn lớn nhất rằng tại sao một con người ăn nói mộc mạc như bà lại có thể làm cho một người đàn ông lạ say mê cưới làm vợ. Và, mặc dầu bà thường kể ‘chả biểu, chả nói’, nhưng nói bằng ngôn ngữ gì? Suốt cuộc hành trình, tôi biết bà không hiểu một chữ tiếng Tây tiếng Mỹ, làm cách nào ông bà hiểu nhau, hiểu một cách thâm sâu như thế? Cụ thể nhất là có thiệt ông hẹn bà sang Phần-lan chuyến này? Và có chắc tất cả mọi chuyện không bắt đầu từ một sự … hiểu lầm nào đó do bất đồng ngôn ngữ? Tôi hắng giặng hỏi:
    – Tôi hỏi không phải, ông bà nói chuyện với nhau bằng tiếng Việt hay tiếng Phần-lan?
    Bà xăng xái:
    – Tiếng Việt mình, thằng chả có hiểu con mẹ gì.  Còn cái tiếng quỉ tiếng ma gì của chả, tui cũng đách hiểu.
Cũng hay. Nhờ không biết tiếng Việt, ông khỏi cần hiểu ‘con mẹ’ với ‘cái đách’ là gì. Có lẽ chỉ cần hiểu gật đầu là ‘có’ và lắc đầu là ‘không’, hai tín hiệu mà nếu thông suốt, minh bạch, con người đỡ được bao nhiêu phiền trược trong cái biên giới u minh nửa không, nửa có, của ngôn ngữ. Tôi nghe nói bộ óc điện toán cũng chỉ biết ‘gật đầu’ và ‘lắc đầu’.
Phương chi, con người, không phải chỉ có bộ óc, mà còn trái tim kỳ diệu. Điều này làm cho tôi, khi tiếng loa mời hành khách đi Helsinki vang lên, cảm thấy bớt áy náy. Cái gì làm cho một người đàn ông từ Helsinki sang tận bến đò Vĩnh Long gặp bà, thì cũng đang hướng dẫn bà từ Vĩnh Long sang Helsinki bình an.
Bà le te ra cổng số 39, tươm tất trong cái áo vét xanh đậm và quần tây thẳng nếp. Tôi đứng ngoài, bịn rịn nhìn theo, bà quay lại vẫy tay. Cái vẫy tay cũng không giống ai, bàn tay đưa ngang vai, lòng úp xuống, ngón tay phẩy phẩy ra phía ngoài, như giục tôi cứ đi đi. Cứ yên tâm.

Xuất xứ: Tập San Quốc Gia Hành Chánh Miền Đông, Dec 2017

Wednesday, December 10, 2025

 


CẢNH CŨ ĐEO THEO NHỮNG ĐOẠN ĐỜI
Tôn Thất Tuệ
• Facebook Nguyên Văn Phúc, Dec 10, 2025 đăng tải tấm hình xưa nầy với ghi chú: 
Bức không ảnh toàn bộ kiến trúc Bệnh viện Trung ương Huế, phủ Thừa Thiên - Huế, nhà lao Thừa Phủ, trường Đại học Y khoa Huế, trường Cán sự Y tế, trường Đồng Khánh, trường tiểu học Phú Vĩnh và một góc trường Quốc Học- Huế vào năm 1967.
Nguồn ảnh: panoramio - photo by Ngày Xửa Ngày Xưa.

•Tôn Ngô Không (con khỉ già) nhà cháu xin giúp vui như con khỉ làm trò.

Cứ nhìn bức ảnh và đọc ghi chú, những ai không quen với Huế sẽ cho rằng khu vực trọng điểm (danh từ nhiếp ảnh) rõ nhất lớn nhất là Bệnh Viện Trung Ương Huế. Kỳ thật BV rất mờ xa, gần góc phải phía trên. Nơi góc nầy, dấu hiệu lờ mờ của khoảng trống bên trên cho phép chúng ta hình dung con đường chéo bên dưới chạy từ Chaffenjon lúc ấy có tên Lê Thánh Tông (bây giờ là đường Hà Nội) đụng Lê Lợi; nơi giao tiếp nầy về sau là múi Cầu Mới.
Tôi không hẳn đã quen thuộc mọi kiến trúc nhưng cũng không phải là kẻ hoàn toàn xa lạ. Fifty fifty 50/50 nhưng đã là nhà báo chuyên nghiệp (sic) thì nói điều mình biết và những những gì chưa biết. Tôi đã xa Huế 1962 năm năm trước thời điểm ghi chú 1967.

Ô đường bên trái chỉ có góc đuôi trong hình đủ cho thấy một sân đá banh (bóng tròn) của trường Quốc Học. Thầy hiệu trưởng Nguyễn Văn Hai đã biến khu đất hoang phế hay hư hại trong suốt thời gian quân đôi Pháp đóng đồn thành một sân vận động thu nhỏ gồm thể thao và thể dục. Lúc ấy, cả hai miền Nam Bắc đều thi đua xây dựng hào khí và lạc quan mới. Tuy vậy chúng tôi thối mồm hát rêu rao: "khỏe vì nước bánh ướt tôm khô" thay "khỏe vì nước kiến thiết quốc gia". Thầy cũng cho xây lại bức tường dọc theo Ngô Quyền giống như các phần tường còn lại vì lý do mỹ thuật; khúc nầy bị nước sông Hương xô sập năm 1953.
Ô kế tiếp là trường Đồng Khánh, chàng cách nàng bởi đường Nguyễn Trường Tộ. Người em sầu mộng đã trở thành một đề tài văn chương, xài nhiều quá, đến chừng hóa thạch thành đá, một ước lệ hết hấp dẫn.
Thứ đến là Tòa Tỉnh Trưởng chiếm một nửa ô để phần sau thành lao Thừa Phủ. Chỗ nầy 1987 không còn gọi là Phủ Thừa hay Phủ Thừa Thiên.  Chỉ có đám dân hành chánh mới chi ly nói thêm đó là tòa tỉnh trưởng Thừa Thiên và cũng là Tòa Thị Chánh Huế. Theo lý thuyết có hai đơn vị hành chánh tỉnh Thừa Thiên và thị xã Huế. Tổ chức mù mờ, tỉnh trưởng luôn kiêm nhiệm thị trưởng, ông có phó thị và phó tỉnh phụ tá. Thời Pháp cũng có tỉnh và thị, có văn phòng gần phủ thủ hiến xưa (đã nói trong lần trước, nay xin xem hình).
Bệnh Viện Huế thì tôi sợ nhất cái nhà xác ở góc đường Ngô Quyền, tôi đã không đi học theo con đường nầy mà xuống Hàng Đoát đi lên từ khi thấy một người treo cổ ở nhà thương lao gần trường Cán Sự Y Tế tương lai..
Lúc tôi rời Huế, phía sau trường ĐK là một khu ruộng, nơi quá sâu thành hồ rau muống. Từ Bến Ngự, phía trái của Ngô Quyền qua khỏi ĐK mới có nhà xây cho đến giáp đường Hàng Muối, cũng là cơ sở của BV; thật sự nhà thương lao của Giáo phận TCG Huế. Nơi mé ruộng sâu là nơi tôi thấy xác người treo tòn ten trên lầu. Khu ruộng sâu bao quanh bởi Ngô Quyền, Nguyễn Trường Tộ và Nguyễn Huệ đã được lấp đầy theo kế hoạch của Cha Luận. Trước khi đi Saigon tôi có tham gia trại hè xúc cát Phú Bài đổ lên xe GMC quân đội chở về đây lấp tiếp. Chúng tôi ăn trưa tầng trên nhà khách phi trường Phú Bài. Ý chính lúc đầu của VĐH là làm trường cán sự y tế, đào tạo nhân viên y tế trung cấp cần thiết theo nhu cầu các nước đang phát triển. Viện vẫn duy trì trường nữ hộ sinh.
Tôi rời Huế nên chưa thấy các kiến trúc làm trường cán sự y tế hay đại học y khoa, cũng như không biết trường Phú Vĩnh. Cập nhật sau khi viết, trường Phú Vĩnh nằm ngay sau QH trong miếng ruộng tam giác sẽ đề cập bên dưới. Tòa nhà lầu hình chữ Y sau nhà thương lao là đại học y khoa.
Khúc đường ngắn khá rộng màu vàng theo hướng Nam Bắc là đường Nguyễn Trường Tộ, xưa nhiều cây long não cho đến cầu Phủ Cam. Ngô Quyền phía sau QH ĐK cặp hông bắc của khu y học, hông nam là đường Nguyễn Huệ; những ngôi nhà màu sáng ở góc phải dưới là trường bá công xưa, rồi đến tiểu khu quân sự Thừa Thiên. (tiểu khu sau đó chuyển về Tòa Khâm cũ). Cánh đồng sau trường cán sự chạy mãi đến Hàng Muối ngó qua trường bà mụ.
Tôi cũng chưa thấy những ngôi nhà trước trường cán sự dọc theo Nguyễn Trường Tộ. Những ngôi nhà nầy mọc lên trên cánh đồng tam giác ngay sau QH. Xưa kia chỗ nầy chỉ có hai ngôi nhà. Ngôi nhà lầu mở cửa ra Phan Bội Châu, từ 1945 tôi đã thấy người Tây ở và nuôi nhiều chó bẹt rê. 
Ngôi nhà thứ hai rất nhỏ mở cửa ra Nguyễn Huệ và ngó qua hông Tòa Tổng Giám Mục Huế; thiết kế quan cách hai bên tả hữu ở giữa là chính phòng. Đó là tòa án. Vì vậy khóm nầy gọi là khu tòa án gồm số nhà quanh quanh, kể cả trên kiệt 1 Phan Bội Châu nay là Nguyễn Thiện Kế, đến chợ Bến Ngự. Tòa án đã chuyển qua Tam Tòa khi chính phủ Pháp trả lại 1954 sau khi đã dùng làm sở tài chánh và sở công an. Tại chỗ nầy, lần đầu tiên tôi thấy tòa xử án và thấy ông luật sư. Tôi thấy luật sư Vũ Đăng Dung cao to, nói giọng bắc đeo kính cận màu đen, rồi sau đó biết ông có văn phòng nhìn qua Ciné Morin, sau nữa biết thêm ông Lê Trọng Quát tập sự với ông Dung. Nhưng vui nhất là tiểu đội cảnh sát bắt súng chào khi chánh án đăng đàn xứ án. Tôi còn nhớ mãi tiểu đội trưởng là anh Lâm, em vợ ông Tôn Thất Tùng, là cậu của BS Kỳ mới qua đời.

Tôi ở ngay chỗ nhìn qua nhà lầu lúc bé tránh xa vì sợ chó bẹt rê nhảy ra vồ. Thừa giấy thì viết lung tung đếm chữ lấy tiền. Đây nói về không khí sôi động thời 1945. Trước tòa án còn có nhà (thằng) Marboeuf sếp chúa Phòng Nhì (Deuxième Bureau), me xừ nầy cũng nuôi chó bẹt rê. Tây mà. Ghét tây thì ghét luôn chó. Mấy vị người lớn cứ kháo với nhau đã làm được việc vĩ đại thế nầy. Lấy trái khế dành là khế lớn nướng thật nóng, đến nhà tây quẳng trái khế nóng vào thì chó tham ăn cắn phải sẽ rụng hết răng và miệng làm độc sẽ chết toi. Lũ trẻ chúng tôi chỉ há mồm khoái chí.
Nay khỉ già lớn tuổi hơn mấy anh hùng vừa nêu, nghĩ lại cũng há mồm như khi mặc quần thủng đít. Đúng chứ, trong các trái cây dễ có thì khế là thứ duy nhất nhiều nước, nước đủ sức giữ nhiệt. Cứ xem là có thể giữ khế nóng mãi như khi còn trong bếp than. Nhưng mom mem tới gần hàng rào thì chúng bắn cho bỏ mẹ hay cho người ra bắt. Dân chúng còn tránh đi ngang nhà công an tây. Mà chó bẹt rê, tây nó cho ăn thịt bò không như người mình rẻo vụn bạng nhạng bò không có mà nấu canh húp nước. Chó biết đánh mùi và đâu có đói như dân mình mà phái tô hô tốp hốp cắn quả khế lùi tro. Âu cũng vì cái tinh thần rân tộc nó khiến cho mình thành anh hùng. 
• Khỉ già múa rối đã xong hết tuồng. Xin bái bai. Ọ è Rô Be (Robert) đánh đu, Tạc Dăng (Tarzan) nhảy dù, Dô Ro (Zoro) bắn súng, làm tao hết hồn thằn lằn cụt đuôi.






Monday, December 8, 2025

Thềm mưaTra Am

Giáng châu, mangoustan, ngọt giống như trái bứa chua

Thềm Mưa Tra Am
Tôn Thất Tuệ

Thiệt tình tôi, vì không kinh nghiệm, không thể diễn tả niềm hạnh phúc song đôi đạp xe với một nường, từ Nghẹo Dàn Xay, An Cựu, lên phía Ngự Bình, rồi đến rừng thông chùa Tra Am. Khu Ngự Bình và chung cả Huế trừ đồi Thiên An sau 1945 không còn cây thông. “Núi Ngự không cây chim ngủ đất; sông Hương vắng khách mấy mợ kêu trời". Nhưng chùa nầy còn được vài mươi gốc thông, để có những đoạn đường lá thông êm, những bóng mát dịu hiền. Hồi ấy chưa có dĩa giấy lon nhôm nên sạch sẽ lắm. Đó cũng là nơi cắm trại lý tưởng cho Hướng Đạo.
1957, tôi tập sự làm thiếu trưởng HĐ và theo trưởng Đoàn Mộng Ngô đưa thiếu đoàn mới lập đến rừng thông nầy cắm trại. Chúng tôi lập trò chơi lớn thông thường là tìm dấu vết cho bốn đội của các em. Trưởng Ngô dẫn tôi đi lập “kho vàng”.
Anh Ngô bảo tôi tên chùa là Tra Am không như ai cũng bảo Trà Am, dấu huyền như uống trà, thanh trà. Tên nầy từ bốn chữ: Tra bất như lê. Vị tổ lập chùa, trong bài cổ thi, đã ví mình là “tra” và Phật là “lê”. Trái tra cùng dòng họ với lê nhưng không ngon như lê. Ngài muốn nói tu đến chỗ gần chân Phật đã khó lắm, biết có làm được không, nên không tham vọng thành Phật.
Khối vàng quý đem chôn là một bông hải đường dấu dưới chân một cây cầu. Nói là cầu nhưng chỉ là một tấm đá bề ngang nửa thước tây, dài chừng hai thước, bắc qua một lạch nước, có thể nhảy qua dễ dàng. Một tấm đá sần sù khác không nhẵng như các bia thông thường nhưng đủ hình dáng cần thiết thành một cái bia. Bia nầy không diêm dúa như những khối đá cắt ngang, thư họa màu mè không ai đọc ra thường thấy như một phong trào hiện đại. Ba chữ Hán chúng tôi nhờ vị sư trẻ đọc là: Lược Ước Kiều từ một câu dài hơn: độ nhơn độ mã bất khả độ xa, vị chi lược ước; (cho người qua, cho ngựa qua, nhưng không cho xe qua; cho nên gọi là cầu giảm bớt).
Như vậy, nói cho thuần lý, “chùa Tra Am” dư chữ chùa; vì am là chùa nhỏ, như am thánh, am thần. Xưa kia, không phải có tiền đều được mặc áo lụa, áo màu; xây nhà to; phải có địa vị chức phẩm. Kinh Lễ của Tàu cho phép dân thờ năm đời ngũ đại, vua mới thờ bảy đời. Chùa của dân cũng vậy chỉ được làm như cái am; các chùa của triều đình mới được xây cao như Báo Quốc, Quốc Ân, Thiên Mụ, Diệu Đế.
Tra Am bây giờ không nhỏ nhoi êm ả ấm cúng như xưa. Đá rửa trước sau, lưỡng long chầu nguyệt trên nóc, tượng nầy tượng kia, khẩu hiệu thư họa đuôi rồng đầu công, ghế đá có tên người cúng dàng. Tôi có đến gần, lạch nước nhỏ nước mưa đã khoét rộng, không thể biết chỗ nào xưa kia là Lược Ước Kiều. Không bước vô. Xin bái bai.
Huế có trái tra ăn được không ngon, giống như trái sung tây (figue) nhưng không cùng họ với lê. Lại có vỏ tra khô để ăn ghém trầu; trầu nhai với nhiều thứ vỏ khác và hột mây hay thuốc rê. Nhưng không biết cây có vỏ nầy hình thù ra sao. Để hiểu sự so sánh tra lê, chúng ta có thể xem tra như trái bứa chua, gần giống với trái giáng châu (măng cụt) rất ngọt.
Bình luận bậy bạ (comment) dưới vài bài về Phật học, tôi nêu câu “tra bất như lê” không đúng ý Phật vì Ngài muốn chúng sinh bằng Ngài và hơn Ngài càng tốt.’
Nay tìm hiểu thêm, sự tích Tra Am có khác. Đầu tiên là một chòi tranh do hòa thượng Viên Thành dựng năm 1923 bên cạnh mộ của ân sư Viên Giác để tỏ lòng nhớ ơn và làm nơi tu niệm. Tăng sĩ nầy dòng họ vua có thể làm chùa lớn nhưng ông chỉ xây cái am; vì vậy chùa nầy có cái tên chẳng giống ai. Tra Am do một điển tích bên Tàu.
Trương Phu thuở nhỏ tên là Tra, cha Trương Thiệu tên Lê. Tống Văn Đế thường đùa: “Tra sao bằng Lê được!” Trương Phu cười mà tâu rằng: “Lê là cây trăm quả, Tra đâu dám sánh bằng!” Sau khi bố qua đời, Tra đã dựng nhà ở bên mồ suốt hai năm ba tháng để tỏ lòng hiếu nghĩa.
Cho đến khi chết Thích Viên Thành vẫn giữ lòng tri ân, qua di ngôn cuối cùng: “Tự hậu Tra bất như Lê dã”.
Phần tôi, tôi luôn nhớ Lược Ước Kiều và lạch nước nhỏ; hai thứ ấy đã góp phần xưa kia biến Tra Am làm một nơi vừa trang nghiêm vừa trữ tình, mộng mơ. Tra Am thời ấy đã hòa một điệu sống, một đối ảnh với những quán bánh bèo dưới những mái tranh, những buổi chiều thơ mộng, nơi vùng sơn cước thưa dân.
Hình ảnh cây cầu nầy tôi đã dùng làm một ý nhỏ (có cây cầu lạch nước gang tay gỗ đã mục vì hằn lên mưa nắng) trong bài vè đính kèm, với giọng nói của một người tạm dung, sống chen nơi thềm hoang rêu phủ, nhìn ra sân mưa. Bài nầy có người chế nhạo hoa nylon plastic mới không sinh diệt. Có người cho là Phật Giáo - ?! Nylon cũng được nhưng Phật thì cho em xin. Riêng tôi, với tư cách độc giả, tôi chỉ thích những hình ảnh âm nhạc.

THỀM MƯA
Tôn Thất Tuệ • 1983

Em của những giờ mưa tầm tã
của thềm hoang rêu phủ ấm hơi người
của lạnh buốt nơi ngày mai vô định,
em ngồi nghe những giờ mưa tầm tã.
Ngước lên không bầu trời trĩu nặng
nhìn ra sân vũng bùn gợn sóng
soi vào lòng lắng đọng xôn xao
những đau đớn trào ra khóe mắt,
mắt khô cằn cho mưa đổ trên cây.

Đường tạm dung một đêm khuya giá lạnh

như biển khơi cấu xé con tàu
những bóng đèn ai thắp hải đăng xa
em kinh hãi tưởng còn trên nước.
Sao giờ đó anh không yên giấc ngủ
tiếng chân đi hay sương khuya kêu anh dậy
để em thấy một khung trời khác lạ.

Em của những giờ mưa tầm tã

nét xa xăm anh bâng quơ hát nhạc
"đường em đi hằn lên mưa nắng
em thoát thai hóa kiếp em trở về".
Ôi vô lý,
cho chi nhau những chờ mong không có
nhạc thính phòng chỉ đau đớn Chopin.
Ở quanh em chỉ có những đìu hiu
một tiếng kèn xa xăm vọng lại
trên đĩnh đầu đổ tiếng hạc cầm.
Mãi thật xa, ôi những thật gần
chết đi thôi ôi những tiếng mưa rơi.
Một cuộc sống trong tầm tay sẵn có
vữa như bùn xin tan kiếp hiện hình.
Nhắm mắt lại loa vang đĩnh núi
hơi nhạc vắn hơi nhạc dài liên nhịp
em hồi sinh một kiếp gọi em về.

Đường em đi hằn lên mưa nắng

em thoát thai hóa kiếp không trở về
xin nhớ rõ là không anh nhé
nhưng hiện diện như lũ chim bé mọn
quên lỗi lầm trùng khởi khởi sinh
không ra đi không quầy trở lại
không đày ải ai, không bị ai đày đọa.
Em thương anh một nhà tu khổ hạnh
có cây cầu lạch nước gang tay
gỗ đã mục vì hằn lên mưa nắng
đường anh đi mấy độ quanh co.
Em thương anh một nhành hoa bách diệp
ngủ trong ngày để lộ triệu ngón tay
đường hoa đi không tình nồng vương vấn
cùng thoát thai để nhụy trên mây.

Em của những giờ mưa tầm tã

tiếng dương cầm từ mái ngói đổ rơi
những âm vang nóng lạnh bùi ngùi
em dâng hiến nụ cười tuổi mọng
để không còn bịn rịn những nguyên do
không vun xới những mầm tươi nửa độ
cho hoa nở ngoài vòng sinh diệt.
Mưa vẫn rơi, mưa rơi tầm tã
không buồn đâu, em đắp đổi nụ cười
cho hoa nở ngoài vòng sinh diệt.-