Xích Bích Dạ Du, tranh Phó Bảo Thạch
kho trời vô tận, thiên nhất phương
tôn thất tuệ
Bản dịch Tiền Xích Bích Phú của Phan Kế Bính đơn giản dễ chịu hơn bản của Nguyễn Văn Thọ. Đây chỉ là một cảm quan, tôi không thể đối chiếu với nguyên văn. Nhưng nhờ phần diễn âm, tôi thấy không vừa lòng đối với hai tác giả khả kính nầy, riêng về một câu bảy chữ: vọng mỹ nhân hề thiên nhất phương. Hai vị nầy không diễn đạt hết cái hào hùng của câu nầy và của Đường Thi nói chung.
Hào hùng như Mireille Mathieu hát tình khúc Amour Défendu thiết tha như khi hát Marseillaise.
Vọng mỹ nhân hề thiên nhất phương. Đọc xong phải vỗ bàn, dằn ly rượu xuống mặt gỗ, như một tuyệt khúc trong sonate của Beethoven. Như khi diễn viên hát bộ vừa ngâm xong, người cầm trịch, đánh tiếng trống dứt khoát rồi bặc ngay âm thanh, tay nắm nạm tiền thưởng mà quẳng lên sân khấu.
Phan Kế Bính:
Nhớ ai canh cánh bên lòng
Nhớ ai canh cánh bên lòng
Nhớ người quân tử ngóng trông bên trời.
Nguyễn Văn Thọ:
Nhớ ai canh cánh khôn khây
Nhớ người má phấn đó đây cách trùng.
NVT đã đi theo con đường của PKB nhưng gần nguyên bản hơn chỉ trong một chữ “người má phấn” thay cho “người quân tử”.
Nói tùm lum tà la như thế mà tôi thật không hiểu rõ nghĩa của câu nầy. Tôi nhìn trong bản chữ Hán có thấy chữ thiên viết như trời thiên trời địa đất tử mất tồn còn ….. Là một danh từ, có thể là động từ không? Chữ thượng là một trạng từ, vừa là một động từ được chăng? Đài ngân thướng giai lục, thềm cấp rêu đã lên xanh. Ngọ thượng thiên lương (Tử vi: sao thiên lương ở cung ngọ).
Vọng tưởng đến người đẹp, đều nầy làm nghiêng đổ (thiên trong thiên vị?) một phương trời.
Vọng tưởng đến mỹ nhân, ta nghiêng người về một phương trời vì phương trời ấy chính là tâm thể của ta, hay đúng hơn mỹ nhân đã chiếm tâm thức ta để ta nhìn đâu đều thấy nàng như ta thấy đâu cũng là trời hay ít ra một góc trời.
Vọng mỹ nhân, ta chỉ có một hướng, (phương trong phương hướng?) như ta thường xướng nhất tâm đảnh lễ nam mô ...; nam mô là hướng về, hội nhập với. Theo một bài viết, học giả thiền Suzuky nói có bài kệ mà sáu người dịch khác nhau nghe cũng có lý và êm xuôi.
Thiên nhất phương là ba chữ sống chết.
Cao Bá Quát
Mãi cho đến nay tôi mới biết Cao Bá Quát dùng nguyên văn một câu của Tô Đông Pha. Đây không có chuyện đạo văn. Duy giang thượng chi thanh phong, dữ sơn gian chi minh nguyệt. Cao Bá Quát đem câu nầy vô thơ mình, bừng bừng sinh khí. Như một chão dầu sôi nhưng chưa đủ, cần một nội tướng như nhà tôi ném vào mấy lát cá salmon với nắm thì là, thì trời đất nổ tung như big bang. Miếng cá và nắm thì là trong tay CBQ là:
kho trời chung mà vô tận của mình riêng.
Hết ý, ngưng, dấu lặng, dấu lặng dài mấy vạn trường canh, nhắm mắt, thiên nhất phương.
phiên âm Hán Việt
Nhâm Tuất chi thu, thất nguyệt ký vọng. Tô Tử dữ khách
phiếm chu, du ư Xích Bích chi hạ.
Thanh phong từ lai, thủy ba bất hưng, cử tửu chúc
khách, tụng minh nguyệt chi thi, ca yểu điệu chi chương. Thiếu yên, nguyệt xuất
ư đông sơn chi thượng, bồi hồi ư đẩu ngưu chi gian, bạch lộ hoành giang, thủy
quang tiếp thiên. Túng nhất vĩ chi sở như, lăng vạn khoảnh chi mang nhiên. Hạo
hạo hồ như bằng hư ngự phong, nhi bất tri kỳ sở chỉ; phiêu phiêu hồ như di thế
độc lập, vũ hóa nhi đăng tiên. Ư thị ẩm tửu lạc thậm, khấu huyên nhi ca chi. Ca
viết:
“Quế trạo hề lan tương,
Kích không minh hề tố lưu quang.
Diểu diểu hề ngô hoài,
Vọng mỹ nhân hề thiên nhất phương”.
Khách hữu xuy động tiêu giả, ỷ ca nhi họa chi; kỳ
thanh minh minh nhiên, như oán, như mộ, như khấp, như tố, dư âm niểu niểu bất
tuyệt như lũ. Vũ u hác chi tiềm giao, khấp cô chu chi ly phụ.
Tô Tử tiễu nhiên, chính khâm, nguy tọa nhi vấn khách
viết:
– Hà vi kỳ nhiên dã?
Khách viết:
– Nguyệt minh, tinh hy, ô thước nam phi, thử chi Tào Mạnh
Đức chi thi hồ? Tây vọng Hạ Khẩu, đông vọng Vũ Xương, sơn xuyên tương mục, uất
hồ sương sương, thử phi Tào Mạnh Đức khốn ư Chu Lang giả hồ? Phương kỳ phá Kinh Châu, hạ Giang Lăng, thuận
lưu nhi đông dã, trục lô thiên lý, tinh
kỳ tế không, sái tửu lâm giang, hoành sáo phú thi, cố nhất thế chi hùng dã, nhi kim an tại
tai? Huống ngô dữ tử ngư tiều ư giang chử chi thượng, lữ ngư hà nhi hữu mi lộc,
giá nhất diệp chi biên chu, cử bào tôn dĩ tương chúc, ký phù du ư thiên địa, diểu
thương hải chi nhất túc, ai ngô sinh chi tu du, tiện trường giang chi vô cùng,
hiệp phi tiên dĩ ngao du, bão minh nguyệt nhi trường chung, tri bất khả hồ sậu
đắc, thác di hưởng, ư bi phong!
Tô Tử viết:
– Khách diệc (bất) tri phù thủy dữ minh nguyệt hồ? Thệ
giả như tư, nhi vị thường vãng dã. Doanh hư giả như bỉ, nhi tốt mạc tiêu trưởng
dã. Cái tương tự kỳ biến giả nhi quan chi, tắc thiên địa tằng bất năng dĩ nhất
thuấn; tự kỳ bất biến giả nhi quan chi, tắc vật dữ ngã giai vô tận dã, nhi hựu
hà tiện hồ? Thả phù thiên địa chi gian, vật các hữu chủ, cẩu phi ngô chi sở hữu,
tuy nhất hào nhi mạc thủ. Duy giang thượng chi thanh phong, dữ sơn gian chi
minh nguyệt, nhĩ đắc chi nhi vi thanh, mục ngộ chi nhi thành sắc, thủ chi vô cấm,
dụng chi bất kiệt, thị tạo vật giả chi vô tận tàng dã, nhi ngô dữ tử chi sở cộng
thích.
Khách hỉ nhi tiếu, tẩy trản cánh chước, hào hạch ký tận,
bôi bàn lang tạ, tương dữ chẩm tạ hồ chu trung, bất tri đông phương chi ký bạch.
Bản dịch của Phan Kế
Bính
Ngoài rằm tháng bảy mùa thu năm Nhâm Tuất, Tô Tử cùng
với khách bơi thuyền chơi ở dưới núi Xích Bi. Hây hẩy gió mát sóng lặng như tờ.
Cầm chén rượu lên mời khách, đọc bài thơ Minh Nguyệt và hát một chương Yểu Điệu.
Một lát, trăng mọc lên trên núi Đinh Sơn, đi lững thững ở trong khoảng hai
sao Ngưu, Đẩu. Khi đó, sương tỏa trên mặt sông, vẻ nước trong tiếp đến chân trời,
tha hồ cho một chiếc thuyền nhỏ đi đâu thì đi, vượt qua trên mặt nước mông mênh
muôn khoảnh. Nhẹ nhàng như cưỡi gió đi trên không mà không biết là đi đến đâu;
hớn hở sung sướng như người quên đời đứng một mình, mọc cánh mà bay lên tiên.
Vì thế uống rượu vui lắm, rồi gõ vào mạn thuyền mà hát. Hát rằng:
Thung thăng thuyền quế chèo lan,
Theo vừng trăng tỏ vượt làn nước trong.
Nhớ ai canh cánh bên lòng,
Nhớ người quân tử ngóng trông bên trời.
Trong bọn khách có một người thổi ống sáo, theo bài ca
của ta mà họa lại. Tiếng sáo não nùng rền rĩ, như sầu như thảm, như khóc như
than. Dư âm hãy còn lanh lảnh, nhỏ tít lại như sợi tơ chưa dứt; làm cho
con giao long (thuồng luồng) ở dưới hang tối cũng phải múa mênh, người đàn bà
thủ tiết ở một chiếc thuyền khác cũng phải sụt sùi.
Tô Tử buồn rầu sắc mặt, thu vạt áo ngồi ngay ngắn mà hỏi
khách rằng:
- Làm sao lại có tiếng não nùng làm vậy?
Khách đáp rằng:
- Câu "Nguyệt minh tinh hi, ô thước nam phi" (trăng sáng sao thưa, quạ bay về nam), chẳng phải là câu thơ của Tào Mạnh Đức đó
ru? Đương khi Tào Mạnh Đức phá Kinh Châu, xuống thành Giang Lăng, thuận dòng mà
sang mặt đông, tàu bè muôn dặm, cờ tán rợp trời; rót chén rượu đứng trên mặt
sông, cầm ngang ngọn giáo ngâm câu thơ, đó thực là anh hùng một đời, mà nay thì
ở đâu? Huống chi tôi với bác đánh cá kiếm củi ở trên bến sông này, kết bạn cùng
tôm cá, chơi với hươu nai, bơi một chiếc thuyền nho nhỏ, nhắc chén rượu để
mời nhau, gửi thân dù du (con vờ) ở trong trời đất xem ta nhỏ nhặt như một hạt
thóc ở trong bể xanh, thương cho sự sống của ta không bao lâu, mà khen cho con
sông này dài vô cùng. Vậy mà muốn được dắt tiên bay để chơi cho sung sướng, ôm
lấy vừng trăng tỏ mà sống mãi ở đời. Tôi biết không làm sao được như vậy cho
nên nảy ra tiếng rầu rĩ ở trong cơn gió thoảng”.
Tô Tử nói:
- Vậy thế bác có biết nước và mặt trăng không? Nước chảy
thế kia mà chưa từng đi bao giờ; mặt trăng khi tròn khi khuyết như vậy, mà chưa
từng thêm bớt bao giờ. Bởi vì ta tự ở nơi biến đổi mà xem ra thì cuộc trời đất
cũng chỉ ở trong một cái chớp mắt; mà nếu tự ở nơi không biến đổi mà xem thì
muôn vật cùng với ta đều không bao giờ hết cả. Cần gì phải khen đâu! Vả lại ở
trong trời đất, vật nào có chủ ấy. Nếu không phải là của ta thì dẫu một ly ta
cũng không lấy. Chỉ có ngọn gió mát ở trên sông, cùng là vừng trăng sáng ở
trong núi, tai ta nghe nên tiếng, mắt ta trông nên vẻ, lấy không ai cấm, dùng
không bao giờ hết, đó là kho vô tận của tạo hóa, và là cái thú chung của bác với
của tôi”.
Khách nghe vậy, mừng mà cười, rửa chén lại rót rượu uống
lần nữa. Khi đồ nhắm hoa quả đã khan, mâm bát bỏ ngổn ngang, cùng nhau gối đầu
ngủ ở trong thuyền, không biết vừng đông đã sáng bạch tự lúc nào.
Bản dịch của Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
Năm Nhâm Tuất mùa thu tháng bẩy,
Rằm đã qua, chiều lại bâng khuâng.
Dưới chân Xích Bích chập chùng,
Khách cùng Tô Tử thuận giòng chơi trăng.
Gió thu nhẹ linh lung khẽ thổi,
Sông như gương chẳng nổi sóng hoa.
Rượu ngon chuốc chén năm ba,
Hát cung "Yểu Điệu", ngâm thơ "Trăng Vàng".
Chẳng mấy chốc đông ngàn trăng ló,
Rẽ Đẩu Ngưu bỡ ngỡ đường mây.
Sương vương mặt nước tỉnh say,
Giòng sông trong vắt in mây lồng trời,
Thuyền một lá chơi vơi thỏa thích,
Nước muôn tầm xa tít mênh mông.
Nhẹ nhàng cưỡi gió tầng không,
Thuyền trôi nào biết vân mồng về đâu!
Lòng phơi phới ngỡ hầu thoát tục,
Tung cánh mơ phơ phất lên tiên.
Rượu ngon chếnh choáng hơi men,
Nhịp nhàng ta gõ mạn thuyền ta ca:
"Chèo lan nhẹ đẩy đưa thuyền quế,
"Khua ánh trăng ta rẽ nước mây.
"Nhớ ai canh cánh khôn khây,
"Nhớ người má phấn đó đây cách trùng”.
Khách có kẻ tay
nâng ống sáo,
Theo lời ca mà tạo nên cung.
Trên sông tiếng trúc linh lung,
Như sầu như thảm não nùng oán than.
Trời mây nước âm vang phảng phất,
Nước trời mây hiu hắt dư ba.
Giao long động tối la đà,
Thuyền đơn gái hóa mắt lòa lệ châu.
Tô Tử bỗng rầu rầu nét mặt,
Sửa dung y, khoan nhặt gạn gùng:
Vì đâu thổi tiếng não nùng,
Cùng nhau xin cạn nỗi lòng tiêu sơ.
Khách mới đáp: "Sao thưa trăng sáng,
Mấy bóng ô lãng đãng về Nam.
Ấy thơ Mạnh Đức xưa làm,
Dư âm phất phưởng mơ màng đâu đây.
Đây có phải phía Tây, Hạ Khẩu,
Miền Đông kia phải dấu Vũ Xương?
Sông sâu núi biếc miên man,
Cỏ cây muôn khóm chứa chan sự đời.
Xưa Mạnh Đức tơi bời nghiêng ngửa,
Phải nơi đây vì lửa Chu Lang.
Hồi nào quân tướng băng băng,
Kinh Châu vừa phá, Giang Lăng đà vào.
Thuận giòng nước ào ào tuôn đến,
Ngất trời mây xao xuyến bóng cờ.
Chén vàng pha ánh trăng mơ,
Ngà say quay giáo ngâm thơ oai hùng.
Ấy hào kiệt lẫy lừng một thủa,
Xưa tung hoành, nay ở nơi đâu?
Còn ta ẩn dật giang đầu,
Ngư tiều cam phận dãi dầu hôm mai.
Lấy tôm cá hươu nai làm bạn,
Một thuyền con mấy bận cùng say.
Phù du phận gửi trời mây,
Chiếc thân hạt thóc há dầy trùng dương.
Ngán kiếp sống mau nhường gió thoảng,
Khen sông dài thảng đãng vô cùng.
Lòng ta những muốn vẫy vùng,
Sánh vai tiên tử ngàn trùng lãng du.
Ôm trăng sáng say sưa thoải mái,
Sống cùng trăng, sống mãi với đời.
Nhưng mơ chẳng thực với người,
Nên ta quyến gió thổi bài sầu than”.
Tô Tử đáp: «Kìa trăng nọ nước,
Nước kia trôi sau trước vẫn nguyên.
Trăng kia tròn khuyết đôi phen,
Mà nào có giảm có thêm bao giờ.
Từ biến chuyển nhìn ra trời đất,
Thì đất trời chớp mắt đã qua.
Từ trong vĩnh cửu nhìn ra,
Muôn loài muôn vật như ta vô cùng.
Chi mà phải mất công khen ngợi,
Của cải đời chi vội bon chen.
Vật nào chủ nấy dĩ nhiên,
Của người tơ tóc chẳng thèm mảy may.
Duy gió mát tỉnh say mặt nước,
Duy trăng trong tha thướt đầu non.
Tha hồ tai ngóng, mắt nom,
Thanh âm sắc thái muôn muôn ngàn ngàn.
Đấy là cả kho tàng Tạo Hóa,
Tha hồ dùng, dùng đã ai ngăn.
Ấy kho vô tận vô ngần,
Chung nhau tôi bác quây quần hưởng vui.»
Khách nghe cạn, tươi cười hớn hở,
Nâng chén quỳnh uống nữa thêm vui.
Thịt thà hoa quả nhắm rồi,
Mâm mâm bát bát rơi bời ngổn ngang.
Chung gối ngủ trong khoang một giấc,
Trời hừng đông sáng quắc nào hay.
xuất xứ: tiền xích bích phú
tranh Tàu `1983