Giấc
Mơ Ngàn Ngọc Bích, Thái Thanh
tôn thất tuệ
Beethoven cho trình làng cầm tấu khúc vĩ cầm duy nhất
cuối 1806. Người độc tấu cà ngẵng lại còn thêm phần ngẫu hứng của mình. Sự thất
bại chua chát nầy làm cho tác giả phải chuyển qua dương cầm viết lại từ đầu đến
cuối. Nhưng mãi đến gần 40 năm sau Felix Mendelssohn cùng cậu bé 12 tuổi Joseph
Joachim đưa nhạc phẩm nầy lên đĩnh cao, được công nhận là cầm tấu khúc trong
sáng nhất, đầy sức sống nhất, và cũng beethovenesque nhất. Ngày nay nói đến vĩ
cầm thì không quên nói đến nó; và bất cứ diệu thủ nào cũng nhờ nó làm nhãn hiệu
cầu tòa.
Nhắc đến chút nhạc sử nầy để nói tiếng hát của Thái
Thanh đã làm sống dậy nhiều bản nhạc, và lần nầy xin nêu vài cảm nghĩ nhân khi
nghe Thái Thanh qua Giấc Mơ Ngàn của Ngọc Bích. Lâu lắm khi mới qua Mỹ,
tôi nằm mơ thấy một người đàn cầm tấu khúc nói trên, anh ta chạy loạn chiến
tranh và vùi cây đàn trong đống lá. Tôi thức dậy và tiếng đàn vẫn bên tai nghe
còn rõ hơn; thì ra cái la dô nhỏ xíu ở đầu giường qua làn sóng FM đang phát
thanh ngón đàn của một ai đó. Kinh nghiệm mộng thực ấy, chiều nay, khi đang ngủ
trưa với giấc mơ khí trời mát dịu của hơi thu; tôi thấy có ai hát nhạc đề chính
của bản nhạc nầy và tôi ngâm câu thơ cổ: vi lô hiu hắt như màu khơi tiêu. Tôi
thức dậy, tiếng Thái Thanh như tiếp nối giấc mơ ngàn.
Thái Thanh
Văn Cao vào Saigon nói rằng hát như Thái Thanh mới là
hát; phải chăng Văn Cao đã quá sợ tiếng hát opera “ruộng” bắt chước của Nga hay
lối hát sắt máu mà Trung Tâm Cán Bộ Chí Linh đã bắt chước như muốn đâm chém người
ta trên màn hình Saigon VNCH? Phải chăng Văn Cao muốn nói Thái Thanh hát Thiên
Thai? Nếu Văn Cao nghe bài nầy thế nào ông cũng nói như vậy. Tôi phải mượn Văn
Cao vì không biết fa sol la si đô.
Trong phương thức lấy cái nầy diễn tả cái kia, tôi đã
thưa với các bạn rằng nếu Văn Cao là Sebastian Bach thì Phạm Duy là Beethoven.
Riêng ở đây bản nhạc của Ngọc Bích rất thánh thiện, rất spiritual như các tác
phẩm của Văn Cao. Dĩ nhiên đó là cảm quan về hơi nhạc, trong lúc đề tài vẫn nằm
trong nét chung, rất quen thuộc. Ngọc Bích viết chửng chạc, như những tác giả
khác đã nắm vững điều mình muốn diễn tả, nằm trong dòng nhạc với những khuôn mặt
“ít ồn ào” như Nguyễn Văn Quỳ (Dạ khúc), Nguyễn Thiện Tơ (Nhắn Gió Chiều), Việt
Lang (Tình Quê Hương) v.v… Nắm vững, tôi muốn nói không bị lấn cấn giữa
ký âm pháp tây phương và ngôn ngữ Việt Nam. Theo Tô Hải, ngoài Bắc đã học nhạc
lý của Nga Sô, và họ đã viết làm sao mà hai chữ hải quân, phải hát là hai
quần.
Khả năng ấy của Ngọc Bích góp phần giúp cho Thái Thanh
phát âm rất rõ ràng và có những phân đoạn (phrasing) sắc bén và tài tình. Thái
Thanh không hát uốn éo như cô con gái. Tôi không đề cập đến Ý Lan. Nhưng tôi muốn
nêu trường hợp của Lara Fabian qua bài Je suis malade của Serge Lama.
Lối ca réo rắc của Lara hấp dẫn phút đầu nhưng nghe kỹ thì thấy cô nàng không
diễn tả được nhiều, nhất là qua cái lỗi “làm nát bài” với lối ngắt câu ở giữa
các thành ngữ. Lối trình bày nầy rất đại chúng, rất nhiều kịch tính nhưng không
thấm thía như lối trình bày chân phương của Dalida hay chính tác giả. Lời lẽ
phân minh, cung đoạn rõ ràng là những căn cứ vững chãi đưa dẫn người nghe vào
trạng thái phi trọng lực, vùng không biên giới của nội tâm của tác giả, người
trình diễn và kẻ thưởng thức. Chân thật, chân nguyên, không mánh khóe. Những
bài hát rõ ràng không che dấu những ý thơ đơn giản nhưng sống mãi qua thử thách
thời gian. Một ví dụ trong lịch sử âm nhạc cận và hiện đại là những bài của
Brothers Four như Green Field…Ca sĩ Quỳnh Giao đã ca ngợi nghệ thuật xướng
ca của Anh Ngọc khi đưa dòng nhạc lước như thuyền trên sóng êm, chứ không đập vỡ
bản nhạc như đá ngầm chạm hông gỗ. Cô muốn nói đến những sự cắt khúc lên
xuống làm cho có vẻ ai oán mà thật sự phi nhạc lý và phi nghệ thuật; căn bệnh của
một thời, nói chung là thiếu cái “mỹ” (esthetique) trong mọi sinh hoạt của con
người hiện nay.
Tôi đã làm quen với bản nầy qua Khánh Ly. Nhưng KL nhiều
lúc chỉ hát bình thường, hát hằng loạt, mặc dầu cô đạt tỷ số cao những lần
trình diễn gọi là hay, không có trường hợp quá xệ xa cách những lần sáng giá.
KL hát tự nhiên, như không phải cố gắng, nhưng ít khi lột hết tinh túy
(texture), ngoại trừ những bản như Vũ Nữ Thân Gầy, Đêm Trên Sông Trăng. Cô đã
không làm được việc nầy với Giấc Mơ Ngàn.
Dễ hiểu nhất KL không có tài rung trong hầu hết các lần
trình diễn. Ngược lại Thái Thanh trong link nầy hát chậm như bước nhẹ của thu
sang, chấm phá như bước chân thời gian.
Những vibrato ấy, thật quá khó như của trời cho, như
gió rung cành, một thứ vi phong xuy động nói trong kinh Di Đà. Dĩ nhiên,
vibrato trong opera tây phương thiếu gì nhưng ít khi ta tìm được những thứ ngọt
ngào vừa trong sáng. Một cách dễ kiểm chứng nét độc đáo nầy là so sánh sự trình
diễn cùng một tác phẩm của Thái Thanh với một ca sĩ khác thuộc nhóm “top ten”.
Ví dụ Dòng Sông Xanh cùng với Mai Hương. (Thái Thanh là cô ruột của
MH). Những vibrato ấy như một ai lay cửa, dai dẳng và tha thiết: kìa thức dậy
đi, coi nhanh “trời thu, nắng thu chìm trong rừng”, hãy nghe đây “tiếng chuông chùa
ngân dài” cũng sẽ rơi vào vô tận như hòn sỏi vào hồ lắng.
Thông thường các danh thủ, hay danh ca, khi trình bày,
trông như độc lập với nhạc trưởng hay ca trưởng, nhưng trên thực tế họ tùy thuộc
những vị nầy; nói khác, sự độc lập chỉ trong ngón nghề nhưng đường hướng chung
phải ăn khớp với quan niệm của người chỉ huy tổng quát. Không hiểu TT có chịu sự
coaching của kẻ khác hay không. Thiết nghĩ lúc ban đầu thể nào cũng có sự dìu dắc
của Hoài Trung và Hoài Bắc. Thái Thanh tiếp nhận quan niệm chân phương dịu hiền
ở Hà Nội trước 1954 và năm 1953 TT đã hát Ngọc Lan của Dương Thiệu Tước. TT,
theo ngu ý, đã tự tìm cho mình một lối trình diễn phi thời gian, vượt thời
gian. Nếu vậy trong bài hát nầy, TT không cần một ai truyền một chiêu thức, chỉ
điểm một yếu huyệt để chinh phục cái thinh không uyển mịn của nghệ thuật và tâm
thức.
Thinh không tự nó là vô tận, chỉ thấy được với các thị
hiện, các hóa thân – emanation - : giấc mơ nhạt trong gió ngàn hay suối ngàn,
bóng em lả lướt…Lời của Ngọc Bích là vài nét thủy mạc trong bức tranh tàu. “Xa
một kiếp hồn yêu người nơi tranh thủy mạc, vớ mây trôi chắp nối suối tóc dài,
hòa mộng thực chuyển vần thực mộng, tắm suối hạc, hồn để quên ý lạc” (ttt)
Thật vậy, người nghe bềnh bồng giữa cái thực, cái không thực, cái xa cái không
xa. Tiếng chuông chùa ngân dài, đôi cánh chim rừng bay vào nơi mà ánh trời thu
khuất mất chìm.
Người nghe cảm nhận sự cô đơn như đứng trên bãi cát
vàng nghìn dặm không thấy khói cơm chiều. (bình sa vạn lý tuyệt nhân yên).
Nhưng cái cô đơn nầy thật đáng yêu, nó minh hiện chủ thể, còn biết mình đang biết
sương chiều buông mờ, cũng như tác giả câu chữ Hán nầy đã tự hỏi Kim dạ hà xứ
túc (đêm nay trọ ở phương nao?) Nói là cô đơn đáng yêu để phân biệt với cái cô
đơn giết người. [Cái cô đơn nầy cấu xé lương tri, nó đã vô hóa (annihiler) con
người làm cho cuồng điên, phải tự sát. (Lời cuối của Dalida: Pardonnez-moi, la
vie m’est insupportable )].
Các bạn của mình ơi, có thiệt như ri nơi tui ở: chiều
nay “trời thu nắng thu chìm trong rừng”. thân mến, 6/2012
Chiều nay nắng thu
chìm trong rừng,
Ngừng đây nghe gió theo mây vàng Lãng du lên mấy cung đàn Thời chinh chiến trôi ngày tháng bên suối ngàn Ngày thu ánh sương chiều buông mờ! Lòng khách say sầu muôn kiếp nhớ! Nhớ ai cười trong nắng vàng Bao ngày xuân tươi thắm nay đã phai tàn Thu về! chìm theo bóng huyền Phòng tôi đơn chiếc thêm tình lưu luyến! Thoáng nghe rồn rập tiếng ca Bóng em lã lướt, lã lướt! Em cười vui, em cười vui Làn tóc xõa xuống, nhịp đưa với cung đàn tiếc đời Tình duyên ấm áp chốn cô phòng Lòng người phong sương bớt mơ màng. Rồi khi tiếng chuông chùa ngân dài Từ xa đôi cánh chim tung bay Phút giây đã thấy tơi bời Làn hương xỏa trong chiều vắng không tiếc người Gặp nhau ước mong thành duyên hờ! Rồi nỡ chia lìa không tiếc nhớ! Giấc mơ nhạt trong gió ngàn Riêng mình ta than với đôi lứa chim rừng!
Thu về! chìm theo bóng huyền
Phòng tôi đơn chiếc thêm tình lưu luyến! Thoáng nghe rồn rập tiếng ca Bóng em lã lướt, lã lướt! Em cười vui, em cười vui Làn tóc xõa xuống, nhịp đưa với cung đàn tiếc đời Tình duyên ấm áp chốn cô phòng Lòng người phong sương bớt mơ màng. |
(tôn thất tuệ, 1939 bến ngự huế, tiểu học nam giao, biết đọc biết viết, georgia usa 30747)
add this
Friday, October 7, 2016
giấc mơ ngàn, cập nhật
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment