tranh Van Gogh
chắp tay lạy người
tôn thất tuệ
Cảm ơn các bạn đã tiếp nhận với hảo ý bài Tình Yêu. Nhân các email liên hệ, tôi sực nhớ đến hình ảnh của người chị trong câu: vòng tay chị chấn ngang vùng sợ hãi. Chị sinh 1930 Canh Ngọ vừa qua đời trước Tết Con Rồng 2012, một ngày trước khi ông Táo về chầu trời.
Chiến tranh
Việt Pháp 1946 đã đưa anh chị em tôi vào tình trạng các bạn cứ tưởng tượng như bỗng dưng con cái các bạn ra đường sống cuộc đời homeless. Chị không đi học tiếp mà sống nơi nhà thờ họ ngoại với ông trưởng tộc nghèo, chung nhau tìm cách sống qua ngày. Rồi chị cũng lớn lên sống với nhà chồng gần Đàn Nam
Giao. Còn nhớ ông cha chồng có nói với dì tôi:
Thưa bà Lãnh (chồng lãnh
binh), nếu không có sự đảo lộn thì làm
sao tôi có thể đến nhà bà xin cưới dâu.
Hảo huyền xã hội ấy không phải là điều tôi muốn ghi lại. Điều chính yếu muốn nói là
nhờ những đổi thay xã hội ấy, chị tôi vì nghèo, ít học, đã không
làm gì có thể hại ai, mắng chưỡi ai, tống tiền, cho
vay cắt cổ, gạt gẫm, kể cả không có
dịp làm những sai lầm ngoài ý muốn như phạt tù kẻ vô tội. Chị tôi hay cúi nhìn xuống đất, nghĩa bóng và đen. Chị luôn hất cục đá vô lề, lượm những cành gai, những mẻ chai mẻ sành, đinh… sợ người ta đạp què giò.
Thỉnh thoảng chị gánh xuống chợ Bến Ngự bán những sản phẩm nhà vườn. Nghe
ghê quá. Nhưng chỉ có: một trái
mít non, một mụt măng tre
pheo, vài mụt măng cán dáo, mươi trái vả, vài bó chè xanh, trái thơm non.
Trái thơm là trái
thơm non, đem về trộn mắm ăn chon như dừa.
Quan trọng và đầy màu sắc là cái ngãu ớt mọi, ớt tím, ớt chìa vôi, còn xanh còn hườm theo thị hiếu ở Huế. Khi nào
trời thưởng, thì
có thêm nhúm nấm mối mọc dưới lá tre mục, hoặc vài ba
chục tai nấm mèo phơi còn ẩm.
Mấy thứ ấy không nặng bằng một thùng nước nên chị kèm theo năm bảy bó củi. Mấy bó củi nầy đầy tính chất phấn son,
cosmetic. Bên ngoài là những liếp gỗ mỏng trắng tươi từ thân cây
dương liễu; bên trong đủ thứ tầm khào, kể cả nhánh
vông gai xốp. Chẳng che dấu lường gạt ai được nhưng cái đẹp cũng câu khách, có giá vậy. Quanh xóm ai cũng nghèo, cho nên không thể mua đi bán lại, có chi bán nấy. Tường trình đầu tiên khi ở chợ về chỉ có hai
chữ hoặc “gạo hơn” hoặc “gạo thua”. Đến nay tôi chưa hiểu vì đâu có hai thuật ngữ ấy, gạo hơn là giá
hạ, gạo thua là
giá cao; tạm hiểu cùng một số tiền, thua
là bớt gạo; hơn thì thêm một chút.
Nhưng gạo đã làm chị bận tâm một cách khác vào tuổi đôi tám
(1945). Hơn mười năm trước, tôi có về Huế lo dời mô mã tổ tiên bị giải tỏa khu núi Ngự Bình.
Tôi chẳng đi đâu, ngoài công việc chính yếu trên.
Tôi lẫn quẩn trong vườn và tìm gặp những thứ chị mang đi bán như nói
trên. Cây chè đã lão hóa, thân hình cổ quái như những cây bonsai. Mấy cây mít chỉ có trái
lèo tèo như quả bưởi, nằm trên cao, chúng có cái tên không đẹp nhưng rất thông dụng ở Huế là mít đọt. Mấy bụi thơm có trái chín như hồi nhỏ người lớn hay đố, mặc áo điều áo đỏ ngồi chỏ hỏ sau nương. Cây vả xưa đã chết, mới trồng cây
con.
Chiều hôm trước ngày trở lại Saigon,
hai chị em ngồi yên lặng dưới giàn
hoa. Bỗng nhiên chị tôi nói:
Ba rất kính trọng người ăn mày.
Đến đây các bạn chưa hiểu vì sao tôi nói chị bận tâm về gạo. 1945
thì chị đã 15, tuổi ta là mười sáu đôi tám là đúng rồi, cái tuổi đủ để nhớ và biết nhiều. Chị nói vào
kỳ đói, gia đình tôi nấu cháo từng nồi lớn, mỗi người đi qua được mời một tô cháo trắng. Chị múc và cha tôi hai tay dâng bát (cái đọi) cháo rồi vái lạy người người ăn. Mỗi người chỉ có một tô, đi quanh đi quất đâu đó trở lui ăn nữa nhưng ăn liền tô thứ hai thì
không được. Của ít người nhiều.
Tôi chưa bao giờ chứng kiến cảnh đãi cháo ấy; có lẽ nấu đâu ngoài chợ vì nhà tôi ở trong kiệt. Nhưng tôi nhớ mồn một cha tôi mua nhiều gạo lắm (trẻ con thì
thấy gì cũng to cũng nhiều). Tự nhiên cái chái trước thành chỗ cao chỗ thấp cho tôi nhảy lên nhảy xuống. Chị phải lo đem gạo cho bà
con tận Cồn Hến, có khi qua đò nước lụt rất ghê sợ.
Năm đó cha tôi đi buôn gạo với bác
Thanh, tức là cha của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Tôi
còn nhớ bác Thanh đến nhà tôi
một lần. Sau hồi cư, tôi có
thấy vài lần trên xe
vespa trước khi bác chết vì tai nạn xe cộ trên đường từ phi trường Phú Bài
về Huế. Tôi
không hiểu số gạo để tại nhà để đem cho bà con lối xóm hay
nấu cháo có phần của bác Thanh hay không. Tuy vậy tôi luôn nguyện hồi hướng công đức cho bác Trịnh Thanh. Việc nầy tôi nghĩ TCS cũng không biết; cũng như không biết sự quen biết giữa cha tôi
và cha của ông. Tôi không quen biết TCS; chỉ có một lần tôi đi cùng với một người bạn vô Bộ Thông
Tin yêu cầu Ban Kiểm duyệt thông
qua bài Nhìn Những Mùa Thu Đi, lần ấy ông nhạc sĩ cũng đi chung.
Nói cho rõ thêm, việc can thiệp nầy là do
ông bạn (đã chết Mậu Thân)
còn tôi chỉ tình cờ đi theo.
mẹ con, tranh Nguyễn Cao Đàm
Trước và sau
vụ gạo nầy, cha tôi thật sự là homeless, nghĩa là ông chỉ lo đâu đâu ngoài đời. Ông tom góp mọi thứ trong
nhà để lo cho tuần lễ đồng, tuần lễ vàng. Mẹ tôi mất sớm nên chị lo cơm nước cho mấy em.
Chị tôi gánh
những gánh củi xuống chợ bán, lúc
chợ ế phải gánh rong quanh Bến Ngự bán cho
những người cùng thời với cha
tôi. Sau chiến tranh họ vẫn còn làm
chủ tiệm vàng,
tiệm xe đạp, quán
giải khát (buvette), chủ bàn ping pong, chủ tiệm tạp hóa v.v…Con cái của họ xưa kia cùng đi học bây giờ áo quần bảnh bao
không rách vá như chị. Không ai nhìn. Riêng chỉ có ông bà Viên Lang nhận ra, mời ăn cái bánh và chén nước. Dĩ nhiên những người như mụ Giá quét
chợ thì trò chuyện huyên
thuyên như ngày xưa vô nhà xúc gạo về ăn.
Nghèo chẳng có gì đáng khen
hay đáng trách. Nhưng cái
hay của cảnh hàn vi
là nó giúp mình không có phương tiện sách hại ai. Đó là trường hợp của chị tôi. Chị tôi dốt, không biết thiền là gì và cũng không
biết bát văn cửu vạn (bài bạc) là gì, không biết điều khiển 16 ông
tướng qua bốn vùng chiến thuật xanh đỏ trắng vàng; không biết champagne ra làm sao. Chị không biết thập ngưu đồ của thiền học. Chính
chị không biết đời mình là một ngưu đồ, suốt đời tận tụy và âm
thầm nghiền ngẫm sự việc chung quanh như trâu nhai lại.
Tôi tin tưởng cuộc đời vô cầu, vô tạo, vô lụy đã cho chị tôi một sự ra đi nhẹ nhàng. Vào nhà thương khám bệnh định kỳ, đột nhiên
hôn mê và từ giả mười giờ sau. Đây là một ví dụ, một trường hợp cụ thể của triết lý Kim Cang, đến từ hư vô và trở về với hư vô hay
nói khác chẳng đến chẳng đi. 82 tuổi đời, mà e
chừng đã có gần 70 tuổi đạo, đạo vái lạy kẻ nghèo đói, đạo chấp tay lạy người.
No comments:
Post a Comment