add this

Friday, October 6, 2017

sống cả trăm năm



Whitney Wegman as the layered TATIANA.
GULAG BARASHEVO dissenters at 8,400 ft. elev. and 20 deg. F cold. Widest shot.

nữ tù nhân gulag (phim tài liệu tái tạo Gulag Barashevo)

trăm năm cuộc đời Solzhenitsyn
JenniferTran

Một thế kỷ trong cuộc đời của ông ta, a Century in His Life. Một Dante, của Gulag. Đúng hơn, một Dante tái sinh; bởi vì nếu những độc giả của Dante hiểu ra một điều: địa ngục có thực, Solzhenitsyn vẫn (còn) phải chứng minh chủ nghĩa Cộng Sản là Cái Độc Cái Ác. Lưu đầy, là bất cứ nơi nào ông tới.

Mượn một hình ảnh của Shakespeare, từ cuối thập niên 1960 đến cuối những năm 1970, Aleksandr Solzhenitsyn bước qua thế giới như một gã khổng lồ. Giải thưởng Nobel văn chương, tháng Mười 1970; bị tống xuất khỏi nước Nga, tháng Hai 1974; Quần Đảo Ngục Tù xuất hiện tại Tây-phương trong cùng năm; tất cả đã làm cho ông trở thành, không chỉ một nhà văn lớn lao nhất thế giới, mà còn là nhà lãnh đạo tinh thần, nhà tiên tri, một danh hào có một không hai "vô địch thủ", kể từ Voltaire, hay Tolstoy. Công chúng theo dõi từng cử động, lắng nghe mọi lời tuyên bố của ông. Những cảnh tượng chen lấn, xô đẩy, tại phi trường với rừng người, rừng máy quay phim, micro. Tại "thế giới tự do", hàng triệu ấn bản Khu Ung Thư,(Cancr Ward); Tầng Đầu Địa Ngục (The First Circle). Tại Nga, và Đông Âu, hãnh diện, lo sợ, nhưng đầy tự hào, người ta chuyền tay nhau những bản sao: Hãy làm sống mãi "Hy vọng chống lại Hy vọng", (Hope against Hope: Hy vọng chống lại Hy vọng, hay Hy vọng Dù Không Còn Hy Vọng).
Sinh ra cùng với những biến động nội chiến tiếp theo cách mạng Bolshevik. Chỉ trong vòng 4 năm đầu đời của cậu bé, chừng 10 cho tới 25 triệu dân Nga chết vì đói, và hung bạo. Miền Nam nước Nga, nơi ấu thời của cậu, đã chìm vào ghê rợn. Cha chết trước khi cậu ra đời, được mấy bà nuôi dưỡng, cho ăn học, có khiếu về khoa học và toán. Được huấn luyện tại trường pháo binh, huy chương Anh Dũng Bội Tinh (Order of the Patriotic War) sau những trận phản công dữ dội, lấy lại Orel đầu tháng Tám 1943. Tháng Giêng 1945 trên đường tiến tới Berlin. Vẻ u ám, thê lương của những trận đánh khi đã xế chiều, đã tác động tới trí tưởng tượng của ông. Trong một bài thơ dài Những Đêm Phổ (Prussian Nights), ông miêu tả cảnh lính Nga tàn sát, hãm hiếp thường dân Đức, sát hại tù nhân chiến tranh.

Bị bắt tại bộ chỉ huy pháo binh ở East Prussia, ngày 9 tháng Hai, 1945. Cuộc du hành địa ngục bắt đầu. Nhờ nó, nhân loại hiểu gulag nghĩa là gì; nói rõ hơn, ông là người đem đến cho thế kỷ của chúng ta một trong những ý nghĩa đích thực của nó: thế kỷ gulag. Ông cảm nhận mớ bòng bong khổng lồ bệnh hoạn, tức vũ trụ tù đầy Stalinist: một lỗ đen rộng lớn, trong cuộc tạo thành lịch sử, với tất cả những nghi lễ, luận lý khùng, với bộ máy "nhà nước quản lý, đâu đâu cũng có con mắt". Ngay mỗi lần nghe kể lại, bộ máy giết người Stalinist vẫn giữ nguyên tính thú vật của nó.

Bị ung thư, và KGB giết hụt. Với căn bệnh hiểm nghèo, thoát chết do ý chí nhiều hơn do chữa trị. Với âm mưu sát hại bằng mũi kim tẩm thuốc độc ricin, liều lượng chí tử, nhưng may chỉ đem lại cơn đau tim năm 1971, theo lời các kẻ chủ mưu kể lại.
1994 trở lại Nga, sau những ngày tháng lưu vong tại Mỹ; sống, gần như cô độc, tại một nước Nga mới, trong không khí mafia và (mùi vị) McDonald; giữa những best-sellers, không phải tác phẩm của ông  mà thuộc loại thời thượng như làm sao sút ký, làm sao trở thành hạnh phúc như con mèo;  nơi giới trẻ tuổi tìm mọi cách để tránh xa những sách ông viết hay tự nhủ là không biết đến. Ở hải ngoại, nếu bắt buộc nhắc tới hoặc con người hoặc tác phẩm, thì người ta đều tỏ thái độ tránh né, hoặc thù nghịch.

Tại sao sự rẻ rúng, vô ơn, đối với ông? Lạ một điều, những nghi ngờ của ông về tài lãnh đạo của Stalin: (quá quốc gia, thiếu tinh thần cách mạng vững chắc; không có tài chỉ huy đưa đến hành động sát nhân hàng triệu binh sĩ, thường dân vô tội); những nhận xét bất cẩn như vậy trong thư tín bị phát giác, là đủ để ông nếm mùi gulag.

Khi Khrushchev bật đèn xanh cho xuất bản "Một Ngày trong Đời Ivan Denisovich", với ông ta, đây là một hành động chính trị giai đoạn: Anh tù Ivan là một nông dân, không phải một trí thức. Nếu ông ta tiếp tục tẩy uế chủ nghĩa Stalin, cuốn sách cũng chẳng thể kéo dài niềm vinh quang ngây ngất của nó. Cùng với sự xuất hiện của "Một ngày", chỉ trong "một đêm", Solzhenitsyn trở thành nổi tiếng. Ông tới gặp Anna Akhmatova, nhà thơ vĩ đại nhất khi đó hiện còn sống của nước Nga. Bà hỏi: "Liệu anh chịu được lâu, vinh quang?... Pasternak chịu, thua. Thật khó kéo dài vinh quang, nhất là thứ đến muộn." Lời cảnh cáo nầy chí lý ; tuy nhiên ông vẫn sống đời ẩn sĩ nhà quê, ăn món ăn nhà quê. Ông càng dấn thân vào sứ mệnh tự mình đặt để: ấy là tố cáo, lột trần Cái Ác. Hy sinh tất cả gia đình, bản thân... cho Quần đảo Gulag, một cuộc điều tra vừa có tính chất lịch sử và văn chương.
Tây-phương không thể hiểu, nhưng những bạn tù đã cho ông sự hỗ trợ cần thiết, đã ban thưởng cho ông, còn giá trị hơn cả Nobel văn chương. Thật dễ dàng chỉ trích ông, về cách đối xử với vợ con, nhưng không ai có thể trách cứ ông về chuyện một lòng một dạ với những bạn tù... với tư cách một nhà văn, một công dân.

Vintage 'The Gulag Archipelago' First Ed. Book - Image 4 of 5

Ý chí sắt thép của ông còn là do hậu quả của những trò khủng bố của KGB. Nó khiến ông phát triển kỹ năng chống lại họ, chơi trò hú tim, tìm đủ mọi cách liên lạc với bạn tù, những người phụ giúp ông trong việc thu thập và giấu giếm tài liệu. Bộ Chính Trị không biết đối xử với ông ra sao, sau cùng Andropov quyết định tống xuất, thu hồi thẻ công dân. Những Uỷ Viên khác tỏ ra khát máu hơn. "Chúng ta có hệ thống hình sự. Cứ để cho họ thẩm vấn rồi ban cho anh ta một án tù", Shelepin, trùm KGB nói. Kosygin đề nghị đưa ông tới ải băng Arctic Verkhoyansk, "như vậy không còn một tên phóng viên nước ngoài mò tới".

solzhenitsyn_w.jpg  Solzhenitsyn (1918-2008)
Andropov đã tiên đoán đúng. Ông tin rằng lưu đầy sang Tây-phương sẽ làm hoang mang những kẻ chống đối, và những bạn bè hải ngoại của họ. Đúng hơn nữa, Sozhenitsyn không phải là một chính trị gia. Thái độ chỉ trích gay gắt Tây-phương, lời kêu gọi chấn hưng đạo đức dựa trên tinh thần Ky-tô, tính lãng mạn theo kiểu Slave … đã tách lìa ông khỏi thế giới chung quanh. Sau bài diễn văn “để đời” ở đại học Harvard, vào năm 1978, ông lui về ở ẩn 18 năm, tại Vermont, với giấc mơ khổng lồ, hoàn thành bộ sách  Bánh Xe Đỏ. (lịch sử sự chuyển tiếp từ Nga quân chủ qua Sô Viết).

Thiếu tính chất khách quan của một sử gia và khả năng sàng lọc dữ kiện là những trở ngại khiến ông không thể miêu tả đất nước của ông, trong cơn đọa đầy, sa xuống tình trạng dã man. Ông nhìn quá khứ như là một cuộc chiến đấu tốt và xấu, thiện và ác, với những người Nga hô hào tự do dân chủ, nhưng ở lộn bên hàng rào. Chúng ta có thể tỏ ra không công bằng, khi hất hủi kiệt tác, magnum opus, này, coi là một thất bại khổng lồ. Một cách nào đó, ông không viết cho chúng ta, mà là cho một hậu thế xa vời, cho những thế hệ sau: họ có thể thưởng thức tác phẩm, thấy nó xứng đáng, hơn là cái nhìn tức thời của chúng ta.

Ông đã thành công trong việc lật tẩy cái gọi là đạo đức Cộng Sản, và từ đó, nhìn ra sự sụp đổ của nó. Cuộc đời của ông cho thấy rằng ngay cả trong thế kỷ hung bạo khủng khiếp như thế kỷ của chúng ta, sự can đảm của một cá nhân thôi, đã làm nên điều phi thường. (trích từ FB Nguyễn Quốc Trụ)


                
                      
Xin tham khảo hai bài điểm sách mà Jennifer Tran đã dùng để viết, của Georges Steiner và John Keep:


John Keep, The Times Literary Supplement, 3-1998
Dante of the gulag
ALEXANDER SOLZHENITSYN. A century in his life. By D. M. Thomas. 

Alexander Solzhenitsyn will be eighty this year (1998). Born into the turmoil of the civil war that followed the Bolshevik revolution, sentenced in 1945 to eight years in the camps, survivor of cancer and a KGB assassination attempt, he returned four years ago (1994)  from American exile to live in the Moscow of mafiosi and McDonald’s. It has been his fate, as D. M. Thomas remarks, “to embrace almost all of his country’s experience in the twentieth century”. This biography sets his literary achievements and epic struggle to give voice to Russia’s conscience in the context of his family background and emotional entanglements. It is an approach the subject himself has explicitly rejected.
Devoted as Solzhenitsyn is to preserving his privacy, he may well dismiss this un-authorized life as yet another example of Western depravity. But Thomas is a sympathetic observer with a poet’s eye for human foibles. He has interviewed elderly relatives, culled recent KGB disclosures, and done his best to draw a well-rounded portrait.
As an outwardly conformist mathematics student in the mid-1930s, Solzhenitsyn had already conceived the ambition to write the definitive account of the revolution. This work would eventually see the light, under a different ideological lodestar, as The Red Wheel, but most of his oeuvre takes its theme from his own unhappy experiences after 1945. Curiously, his doubts about Stalin’s leadership seem to have originated in the notion that he was too statist, insufficiently revolutionary. Incautious remarks in correspondence that was intercepted were enough to earn the brave young artillery officer his spell in the gulag. The novice zek learned to resist the camp authorities’ arbitrary commands, to bolster his spiritual resources, and to hone his literary talents. The First Circle, his greatest novel, appeared in English in
1968, but for twenty years the Russian text could circulate only in samizdat.
Lydia Chukovskaya saw him as “a reborn Dante, who had brought the living word from the nether regions”. Thomas points out that, whereas Dante’s readers knew that hell existed, Solzhenitsyn had to prove that Communism was evil. He was as much polemicist as poet.
By gulag standards, conditions in the Moscow sharashka where he worked in 1947 were relatively tolerable. Characteristically, Solzhenitsyn deliberately exchanged them for back-breaking physical toil in a regular camp in the wilds of Kazakhstan, so as to share the lot of ordinary prisoners. The noble act all but killed him. When released in February 1953, he was a haggard human wreck, yet his sharp blue eyes glinted with determination to record the iniquities that he, along with millions of others, had endured. Fortunately the dictator soon died and the gulag began to crumble; Solzhenitsyn’s sentence to “indefinite exile” lasted for a mere three years. He overcame his cancer, as much by an act of will as by medical remedies, and it was as a humble Ryazan schoolteacher that he burst upon the world of literature.
Had Khrushchev carried through destalinization consistently, One Day in the Life of Ivan Denisovich would not have caused a sensation. As it was, rehabilitation of Stalin’s victims proceeded fitfully. It did not involve telling the truth about the camps or the Terror. At select moments, the veil was partially lifted, but only for reasons of political expediency. It was on the second of these occasions, in 1962, that by an extraordinary stroke of good luck the hitherto unknown Solzhenitsyn became the first Russian writer to publish, with official approval, a story on this taboo subject. Ivan Denisovich Shukhov was no intellectual but a common peasant: this was one reason why Khrushchev gave the green light. (He also noted approvingly that the prisoner over-fulfilled his daily norm.) Overnight Solzhenitsyn became a celebrity. He went to see Anna Akhmatova, Russia’s greatest living poet. “Can you endure fame? . . . Pasternak could not. It’s very difficult to endure fame, especially late fame.” The warning was pertinent. To be sure, Solzhenitsyn’s head was not turned. He went on living in a spartan rustic retreat, eating the same food daily. But his character hardened further. He became less tolerant, more devoted than ever to his self-appointed task of exposing evil, and after a series of painful scenes his marriage broke down. He sacrificed everything to his massive “literary-historical investigation” of the camps, The Gulag Archipelago. “If only he had not been possessed by his idee fixe . . . . If only he had allowed himself some rest – even some boredom, stretched out supine, like Pushkin, on a billiard table, yawning and taking pot shots at the ceiling . . . .” But it was not to be. Painstakingly, Solzhenitsyn ordered the information covertly supplied by no less than 227 former prisoners and forged the indictment with the bond of sarcasm. There was too much of the latter for Western critics’ taste, but the author took heart from the messages of gratitude and encouragement he received from hundreds of fellow zeks. Nineteen men in Vladimir gaol smuggled out a letter paying tribute to his valour as writer and citizen – a prize more rewarding than the Nobel. “It is easy to criticise Solzhenitsyn for his treatment of his wife, but what cannot be gainsaid is his absolute commitment to the zeks . . . . For those millions, no flaws in his character could chip away at the granite strength of this man.”
The writer’s iron determination was fostered by the KGB’s intrusive surveillance. His archive was seized, his contacts harassed, his home bugged and raided. The “heat stroke” which he suffered in 1971, as we now know from statements by those involved, was due to ricin, a poison administered surreptitiously in a crowded shop – and the dose was meant to kill. Up to a point he enjoyed the battle, developing remarkable skill in concealing his activities. While keeping aloof from others in the democratic movement, he attracted a number of assistants, some famous in their own right, like Rostropovich, others humble typists who shared the danger with little thought of material reward. The Soviet authorities, now keen to abide outwardly by legal forms, found it hard to know what to do. Andropov advocated banishment abroad and deprivation of citizenship. His Politburo colleagues were more bloodthirsty. “We have judicial organs. Let them investigate and try him”, said Shelepin, a former KGB chief. The normally affable Kosygin suggested sending him to Arctic Verkhoyansk, “for no foreign correspondent will go there”.
Eventually Andropov got his way. Presumably he calculated that exile to the West would disorient the dissidents and their foreign friends. In a way, the ploy worked. Solzhenitsyn’s tirades against Western ways and institutions, his prophecies of doom from detente, alienated many. He was, after all, no politician. His call was for moral renewal based on Christian principles, with a strong dose of romantic Slavophilism thrown in. After 1978, when he delivered a memorable Harvard address, he chose the life of a recluse on his Vermont estate. From dawn to dusk he toiled at The Red Wheel, buried under mountains of historical material on life in Russia before 1917. This was, as Thomas points out firmly but gently, a great mistake. For Solzhenitsyn lacked historical objectivity and the skill to select the facts relevant to his purpose, to depict his country’s descent into barbarism. He saw the past as a Manichaean struggle between good and evil, with Russia’s liberal democrats ranged on the wrong side of the barricades. The wheel became mired down in the mud of the trenches and ground to a halt long before the logical denouement, in Red October.

It is, however, less than fair to dismiss his magnum opus as a monumental failure. Solzhenitsyn was writing for distant posterity, and later generations may find more merit in it than contemporaries. Georges Nivat argues that he created a new “polyphonic” literary genre, based on a mathematical construct, whereby each nodal point in the unfolding drama is scrutinized multi-dimensionally and explored by means of an internal discourse between characters and author. Nor does Thomas come to grips with the religious dimension of Solzhenitsyn’s thought. Can his vision of a morally regenerated Russia be realized without institutional support from a church that hitherto has shown no eagerness to repent its compromises with evil? There are other paradoxes, too, in his current situation that might have been examined, in lieu of the probing attention paid to the writer’s relationships with his successive Natashas and the Freudian theorizing about the source of his patriarchal attitudes. If Solzhenitsyn subordinated his emotional drive to a greater task, this was ultimately due to the circumstances facing any honest, in-dependent writer in Soviet conditions. He succeeded in undermining the regime’s moral foundations and so indirectly bringing about its collapse. His life shows that even in our terrible century courage can wreak marvels.

No comments:

Post a Comment