Như Lai Thực Tánh
(phẩm 12 kinh Đại Niết Bàn do Thích Trí
Tịnh dịch)
Lời thưa trước: Một bài ngắn trên
internet về kinh điển PG đưa ra ba điều kiện để công nhận là kinh, luận, của PG
gọi là tam pháp ấn, phải xem vô thường, vô ngã và niết bàn là cứu cánh. Người
viết nại gốc từ các luận Long Thụ.
Nếu vậy thì Kinh
Niết Bàn không phải là kinh Phật.
Theo biện chứng, có
vô ngã phải có hữu ngã; một chân ngừng chân kia mới tiến tới để tiếp tục đi.
Phẩm thứ 12 của Kinh Niết Bàn nói rất nhiều về hữu ngã. (có hai kinh Niết Bàn
khác nhau; kinh Pali và kinh Phạn ngữ). Phẩm 12 nói đây ở phía "đại
thừa". Theo ngũ thời (phân chia của Ngài Thiên Thai), thời cuối là Pháp
Hoa Niết Bàn (Nhật: Hoke Nehan). Nếu Vô Lượng Nghĩa là tiền luận của Diệu Pháp
Liên Hoa Kinh thì Niết Bàn là hậu thiên hay phụ đính. Sau vô số những danh từ
những thuật ngữ, Pháp Hoa xuất hiện với ngôn ngữ bình dân đầy tình người. Thế
nhưng Niết Bàn thì còn nhiều thuật ngữ hơn nữa, nhưng ngôn ngữ cho thấy tầm
nhìn rộng rãi của Phật như (giới) trời phi tưởng, phi phi tưởng, phi phi phi
tưởng.
Niết bàn gồm đủ
huệ thức và hành trì.
Phẩm 12 chỉ nói
đến thường và ngã trong bộ tứ: thường lạc ngã tịnh. Chân ngã nói ở đây vẫn ở
trong thế động, không phải là một ý niệm cứng như "je pense donc je
suis" của Âu Châu. Phẩm 12 có những điểm quan trọng như sau:
Hữu ngã phải có,
là nòng cốt của mọi thứ; đó là chân ngã, Phật tính.
Giáo pháp phương
đẳng (rộng rãi) vừa là nước cam lồ, thuốc trị bệnh vừa là thuốc độc giết người.
Tuy không phủ
nhận việc quy y tam bảo đúng cách như quy y với chân tăng, không quy y với sư
hổ mang, Ngài nói khi nhận chân sự thường tồn của chân ngã, như lai tánh thì
không cần quy y gì nữa.
Hy vọng phẩm nầy
gây tò mò để quý hữu nghiên cứu thêm. Đọc Niết Bàn rất vui, rất nhiều ẩn dụ
thâm thúy. Khi đọc các ẩn dụ nầy, quý hữu sẽ thấy những chuyện trong Tam Quốc,
Đông Chu chỉ là những mánh khóe, những miếng võ chứ chưa tới võ đạo và thấy
những ẩn dụ nầy giải quyết những khó khăn trong cuộc đời, như Phật dùng để trả
lời các câu hỏi hóc búa.
Giáo lý của Phật
là một kho tàng vô tận muốn lấy bao nhiêu cũng được tùy sức mà gánh, tùy tánh
riêng mà chọn. Do đó, chỉ nên nói sự khác biệt và không cho sự khác biệt là sai
trái; chỉ chỉnh sửa những điều rõ rệt trong lịch sử. Căn cứ vào kinh Niết Bàn, vô
ngã chưa đủ nhưng thuyết giảng vô ngã đã rất hữu ích để người nghe thấy những điều
thiên hạ cho là chính mình, “le moi / the self” chỉ làm khổ mình như khi mất chức
trọng quyền cao.
Sau đảo chánh
1963 xuất hiện một số “cao ngạo tăng” thay cho các cao tăng đức hạnh. Từ đó có
nhiều người đề cao quy y nhị bảo (Phật, Pháp). Thời nay vấn đề tăng thì như cháo
lòng, thịt chó nhựa mận mà không ai thèm ngó đến chuyện quy y. Nhưng nếu có, cũng
như trở về 1963, phẩm 12 nầy đã giải quyết: khi liễu ngộ Phật tánh thường trụ thì
không cần quy y. Và cứ như phẩm nầy, bạn đã là Phật và không cần quy y gì ráo
trọi. Phật là bình đẳng; Phật là bạn. Vả lại Pháp Hoa nói thời mạc pháp (2.000 sau) mỗi chúng sinh là vị hộ pháp (votary of the Law), giữ chánh pháp ít nhất cho chính mình.
Nhưng coi chừng, nói nhỏ mà thôi; thiên hạ
nghe cho là phỉ báng Phật đến đốt nhà. “Business Bụt” cũng
phá nhà bạn vì sợ mất khách hàng.
=============================================
Như Lai Thực Tánh
Ca-Diếp
Bồ-Tát bạch Phật: “Thế-Tôn! Hai mươi lăm cõi có ngã chăng?
Phật
dạy: “Nầy Thiện-nam-tử! Ngã tức là nghĩa Như-Lai tạng. Tất cả chúng sanh đều có
Phật tánh tức là nghĩa của ngã. Nghĩa của ngã như vậy từ nào tới giờ thường bị
vô lượng phiền não che đậy, vì thế nên chúng sanh chẳng nhận thấy được.
Như
cô gái nghèo, trong nhà có nhiều kho tàng vàng vòng, tất cả người nhà không ai
biết. Một hôm có người khách lạ khéo biết phương tiện bảo cô gái nghèo: “Nay
tôi thuê cô dọn cỏ rác cho tôi”.
Cô
gái liền đáp: “Nếu ông có thể chỉ kho vàng cho tôi, rồi tôi sẽ dọn cỏ rác cho
ông”.
Người
khách nói: “Tôi biết cách thức, có thể chỉ kho vàng cho cô.”
Cô
gái nói: “Tất cả người nhà của tôi còn chẳng biếtđược, huống là ông mà có thể
biết!”
Khách
lại nói: “Nay tôi có thể biết chắc chắn”.
Cô
gái nói: “Tôi gấp muốn thấy, ông nên chỉ cho tôi”.
Người
khách liền ở trong nhà cô, đào được kho vàng ròng. Cô gái thấy kho vàng lòng rất
vui mừng ngạc nhiên lạ lùng, kính trọng người khách.
apaganthus
Người
khách khéo biết phương tiện dụ cho Như-Lai. Cô gái nghèo dụ cho vô lượng chúng
sanh. Kho vàng ròng dụ cho Phật tánh.
Nầy
thiện-nam-tử ! Ví như cô gái sanh một trai trẻ nầy mắc bịnh, cô gái buồn rầu
tìm y sĩ. Y sĩ đến xem bịnh, dùng ba thứ bơ, sữa, đường phèn hiệp lại bảo cho đứa
trẻ uống. Y sĩ dặn cho cô gái, đứa trẻ sau khi uống thuốc chớ cho nó bú, phải
chờ thuốc tiêu hóa, rồi mới được cho bú.
Cô
gái liền lấy chất đắng thoa trên vú rồi bảo đứa bé: “Vú của mẹ đã thoa thuốc độc,
con chớ chạm đến”.
Đứa
bé đói khát muốn bú, nhưng nghe mùi đắng trên vú bèn chẳng dám gần. Thời gian
sau thuốc uống đã tiêu hoá, người mẹlấy nước rửa sạch vú mình, gọi con đến bú.
Lúc đó
đứa trẻ mặc dầu đói khát nhưng nhớ mùi đắng nên chẳng dám đến bú.
Người mẹ
bảo : “Vì con uống thuốc nên mẹ lấy chất đắng thoa trên vú. Thuốc con uống đã
tiêu hóa, vú của mẹ cũng đã rửa sạch, giờ đây con có thể đến bú không hại gì.”
Đứa trẻ
nghe mẹ bảo lần lần đến bú.
Nầy
thiện-nam-tử! Đức Như-Lai cũng vậy. Vì độ tất cả chúng sanh nên dạy tu pháp vô
ngã. Nhờ tu pháp đó dứt hẳn tâm chấp ngã, được nhập Niết-bàn. Vì trừ những vọng
kiến trong đời nên thị hiện pháp xuất thế gian. Lại chỉ rõ quan niệm chấp ngã của
người đời là hư vọng chẳng phải chơn thật, nên dạy tu pháp vô ngã để được thân
thanh tịnh.
Như
cô gái kia chữa bịnh cho con, nên lấy chất đắng thoa trên vú. Cũng vậy, Đức
Như-Lai vì dạy tu pháp không nên nói các pháp đều không có ngã.
Như
cô gái kia rửa sạch vú rồi kêu con đến bú. Cũng vậy, đức Phật hôm nay nói
Như-Lai tạng.
Vì
thế nên các Tỳ-kheo chớ sanh lòng kinh sợ.
Như
đứa trẻ kia nghe mẹ kêu lần lần đến bú. Cũng vậy, các Tỳ-kheo nên tự phân biệt
Như-Lai tạng, chẳng được, chẳng có.
kim châm
Ca-Diếp
Bồ-Tát bạch Phật: “Thế-Tôn! Thiệt không có ngã. Vì lúc đứa trẻ mới sanh không
hiểu biết. Nếu là có ngã thời ngày mới sanh lẽ ra liền có hiểu biết. Do nghĩ nầy
nên định biết là không ngã.
Nếu
quyết định có ngã, sau khi đã thọ sanh, lẽ ra không chết mất. Nếu tất cả chúng
sanh đều có Phật tánh. là thường trụ, lẽ ra không hư hoại. Nếu là không hư hoại,
sao lại có Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, Tỳ-xá, Thủ-đà, Chiên-đà-la, Súc sanh v.v… sai
biệt nhau. Hiện nay thấy các thứ nghiệp duyên chẳng đồng, các loài đều riêng
khác. Nếu quyết định có ngã, thời tất cả chúng sanh lẽ ra không hơn kém.
Do
những nghĩa trên đây nên định biết Phật tánh chẳng phải là pháp thường trụ.
Nếu
cho rằng Phật tánh quyết định là thường trụ, thời do duyên gì lại nói có sát
sanh, trộm cướp, tà dâm, lưỡng thiệt, ác khẩu. Vọng ngôn, ỷ ngữ, tham lam, sân
khuể, tà kiến.
Nếu
ngã tánh là thường trụ, cớ gì sau khi uống rươu lại say mê.
Nếu
ngã tánh là thường trụ, thời kẻ mù lẽ ra thấy sắc, kẻ điếc lẽ ra nghe tiếng, kẻ
câm lẽ ra nói được, người què lẽ ra có thể đi.
Nếu
ngã là thường trụ, lẽ ra chẳng còn tránh hầm lửa, nước lụt, thuốc độc, dao
gươm, kẻ ác, thú dữ.
Nếu
ngã là thường trụ, thời những việc đã từng nghe thấy lẽ ra chẳng quên. Nếu chẳng
quên cớ gì lại nói: tôi đã từng thấy người nầy ở chỗ đó.
Nếu
ngã là thường, thời lẽ ra chẳng nên có niên thiếu, tráng niên, lão thành v.v… Lẽ
ra chẳng nên có thạnh, suy, mạnh, yếu cùng nhớ đến việc đã qua.
Nếu
ngã là thường, thời nó ở chỗ nào? Nó ở trong nước mũi, nước miếng, hay ở trong
các màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng ư!
Nếu
ngã là thường, lẽ ra nó phải khắp trong thân, như dầu mè không chỗ hở trống. Nếu
như vậy lúc chặt đứt thân thể, thời ngã đó lẽ ra cũng bị đứt !”
Phật bảo Ca-Diếp Bồ-tát : “Thiện-nam-tử! Ví như nhà vua có đại lực sĩ. Trên trán lực sĩ gắn hột châu kim cương. Lực sĩ nầy cùng người đánh vật. Hột châu kim cương bị đầu kẻ địch đụng lún khuất trong da, nơi đó thành vết thương. Liền nhờ y sĩ cứu chữa. Y sĩ tài giỏi xem vết thương biết là do hột châu lún vào ở khuất dưới da. Ysĩ hỏi lựcsĩ : “Châu kim cương trên trán của ông đâu rồi?”
Phật bảo Ca-Diếp Bồ-tát : “Thiện-nam-tử! Ví như nhà vua có đại lực sĩ. Trên trán lực sĩ gắn hột châu kim cương. Lực sĩ nầy cùng người đánh vật. Hột châu kim cương bị đầu kẻ địch đụng lún khuất trong da, nơi đó thành vết thương. Liền nhờ y sĩ cứu chữa. Y sĩ tài giỏi xem vết thương biết là do hột châu lún vào ở khuất dưới da. Ysĩ hỏi lựcsĩ : “Châu kim cương trên trán của ông đâu rồi?”
Lực
sĩ kinh hãi đáp: “Hột châu trên trán của tôi đã mất rồi ư? Nó rơi rớt ở đâu?”
Nói xong lo rầu khóc lóc.
Y
sĩ an ủi: “Nay ông chẳng nên buồn khổ. Vì lúc ông đánh vật, hột châu lún vào ở ẩn
dưới da, bóng nó hiện ra ngoài. Lúc các ông vật đánh nhau, lòng quá giận tức,
nên hột châu lún vào trán mà chẳng hay biết”.
Lực
sĩ chẳng tin lời của y sĩ. Nghĩ rằng: Nếu hột châu ở dưới da, máu mũ chảy tuôn
cớ sao hột châu chẳng trồi lên. Còn nếu hột châu ở trong gân, lẽ ra không thể
thấy. Hoặc giả y sĩ gạt gẫm ta chăng? Bấy giờ y sĩ cầm gương soi trên mặt lực
sĩ. Hột châu kim cương hiện ánh sáng trong gương. Lực sĩ nhìn thấy, ngạc nhiên
mừng rỡ.
begonia
Nầy
thiện-nam-tử! Tất cả chúng sanh cũng như vậy. Vì không được gần gũi bực thiện-tri-thức,
dầu có Phật tánh mà đều không nhận thấy. Bị tham, sân, si che đậy. Vì thế nên đọa
địa ngục, súc sanh, ngạ quỹ, a-tu-la, chiên-đà-la, sát-đế-lợi, bà-la-môn, tỳ-xá, thủ-đà. Sanh vào trong các dòng đó, nhơn tâm tưởng mà gây ra các thứ nghiệp
duyên. Dầu được thân người, nhưng phải điếc, đui, câm, ngọng, què, thọt. Thọ
các quả báo trong hai mươi lăm cõi. Vì tham, sân, si, che lấp bổn tâm, nên chẳng
biết Phật tánh. Như lực sĩ kia hột châu vẫn ở trong thân mà hô đã mất.
Cũng
vậy, chúng sanh chẳng biết gần gũi thiện-tri-thức, chẳng biết bảo tạng Như-Lai, nên tu học vô ngã. Như hạng chẳng phải bực thánh, dầu nói là có ngã, nhưng
lại chẳng biết chơn tánh của ngã.
Hàng
đệ tử của ta cũng giống như vậy, vì chẳng biết gần gũi bực thiện-tri- thức, nên
tu học vô ngã mà chẳng biết chỗ thật của vô ngã. Còn chẳng tự biết chơn tánh của
vô ngã, huống lại có thể biết chơn tánh của ngã.
Nầy
thiện-nam-tử! Đức Như-Lai nói các chúng sanh đều có Phật tánh, ví như y sĩ chỉ
hột châu kim cương cho lực sĩ, các chúng sanh nầy bị vô lượng phiền não che đậy
chẳng biết Phật tánh. Nếu dứt hết phiền não, bây giờ mới đặng chứng biết rõ
ràng. Như lực sĩ thấy hạt châu trong gương sáng.
Tạng
Như-Lai vô lượng chẳng thể nghĩ bàn như vậy.
Nầy
thiện-nam-tử! Ví như núi tuyết có một vị thuốc tên là dược vị. Thuốc đó rất
ngọt, ở dưới lùm bụi rậm, người không thấy được. Có người nghe mùi thuốc liền biết
chỗ đó chắc có thuốc ấy. Thuở trước có vua Chuyển Luân ở nơi núi tuyết nầy đặt
những bộng cây để tiếp lấy thuốc. Lúc thuốc đó chín thời từ đất chảy ra chứa vào
trong bọng cây, mùi vị thuốc ngọt ngon. Sau khi vua đã băng, thời thuốc đó hoặc
chua, hoặc mặn, hoặc ngọt, hoặc đắng, hoặc cay, hoặc lạt, tùy địa phương của
thuốc sanh ra mùi vị đều khác nhau. Nhưng vị thật của thuốc đọng ở nơi núi như
mặt trăng tròn. Người phàm ít phước dầu có đào xới chỉ luống khốn khổ mà không
thể được. Lúc có thánh vương ra đời, vì phước lớn của vua, liền đặng vị thật của
thuốc.
Nầy
thiện-nam-tử! Mùi vị tạng Như-lai cũng như vậy, bị các rừng bụi phiền não che đậy,
chúng sanh mê mờ chẳng thấy được.
Dược
vị trên kia dụ cho Phật tánh. Bởi các phiền não nên sanh ra các thứ mùi vị sai
khác như là địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, Trời, người, nam, nữ, sát-lợi, baà-la-môn, tỳ-xá, thủ-đà v.v…
Phật
tánh hùng mãnh không thể hư hoại, vì thế nên không ai có thể sát hại được. Nếu
sát hại được thời Phật tánh dứt, nhưng Phật tánh trọn không thể dứt, vì không bao
giờ tánh có thể dứt được.
Như
tánh của ngã tức là tạng Như-Lai không có gì phá hoại, đốt cháy được tánh ấy. Dầu
không có thể phá hoại, nhưng chẳng thấy được. Nếu chứng đặng vô thượng chánh đẳng
chánh giác mới thấy được tánh. Do cớ đó nên không ai có thể sát hại được.
Ca-Diếp
Bồ-Tát bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Nếu không ai sát hại được, thời lẽ ra không có
nghiệp bất thiện?”
Phật
nói: ”Nầy Ca-Diếp! Thiệt có sát sanh. Vì Phật tánh của chúng sanh ở trong thân
ngũ ấm, nếu sát hại ngũ ấm, gọi là sát sanh, đã có sát sanh, thời đọa ác thú.
Do
nhơn duyên của nghiệp mà có sát-lợi, bà-la-môn, tỳ-xá, hủ- đà, chiên-đà la,
nam, nữ v.v… hai mươi lăm cõi sai khác lưu chuyển trong dòng sinh tử.
Người
chẳng phải bực thánh vọng chấp tướng của ngã là lớn hay nhỏ, bằng hột cỏ, hoặc
bằng hột gạo, hột đậu, nhẫn đến bằng ngón tay cái. Họ vọng sanh các thứ tưởng tượng
như vậy. Tướng của vọng tưởng không có chơn thật.
Tướng ngã xuất thế gian, gọi là Phật tánh. Nhận lấy ngã nầy, gọi là rất lành.
Nầy
hiện-nam-tử! Ví như có người giỏi biết kho báu dưới đất, liền lấy cuốc bén đào
đất, thẳng đến đá bàn, cát, sỏi, có thể đào qua không khó, chỉ đến lớp kim
cương thời không thể xoi thấu.
Luận về chất kim cương, tất cả dao búa không thể làm hư bể. Phật tánh của chúng sanh cũng lại như vậy, tất cả nhà biện luận, thiên-ma, ba-tuần, cho đến các hàng trời, người, không thể phá hoại.
Luận về chất kim cương, tất cả dao búa không thể làm hư bể. Phật tánh của chúng sanh cũng lại như vậy, tất cả nhà biện luận, thiên-ma, ba-tuần, cho đến các hàng trời, người, không thể phá hoại.
Tướng
ngũ ấm là hữu vi, tướng hữu vi dụ như đá, cát, sỏi, có thể đào, có thể xoi. Phật
tánh dụ như kim cương, không thể phá hoại được.
Do nghĩa nầy, nên phá hoại thân ngũ ấm thời gọi đó là sát sanh.
Do nghĩa nầy, nên phá hoại thân ngũ ấm thời gọi đó là sát sanh.
Nầy
thiện-nam-tử! Nên biết quyết định rằng Phật pháp chẳng thể nghĩ bàn như vậy.
pensée, pansy
Nầy
thiện nam-tử! Kinh đại-thừa phương đẳng như chất cam lồ, cũng có lúc như thuốc độc.
Ca-Diếp
Bồ-Tát bạch Phật : “Do nhơn duyên gì mà Đức Như-Lai nói kinh đại-thừa phương đẳng
như chất cam lồ, cũng có lúc như thuốc độc”.
- Nầy thiện-nam-tử ! Nay ông muốn biết nghĩa
chơn thật của tạng Như-Lai chăng ?
Ca-Diếp
Bồ-Tát bạch Phật: “ Tôi nay thiệt muốn biết nghĩa của tạng Như-Lai”.
Bấy
giờ Đức Thế-Tôn nói kệ rằng:
Hoặc có người uống cam lồ.
Hại thân mạng mà chết sớm.
Hoặc có người uống cam lồ,
Thêm tuổi thọ sống được lâu,
Hoặc uống thuốc độc được sống,
Có người uống độc mà chết.
Trí vô ngại như cam lồ,
Đó chính là kinh Đại thừa.
Kinh điển Đại thừa như vậy,
Cũng gọi là chất thuốc độc.
Như bơ, đề-hồ v.v…
Nhẫn đến các thứ đường phèn.
Uốngvào tiêu hóa là thuốc .
Chẳng tiêu hoá thời thành độc.
Kinh Đại- thừa cũng như vậy,
Nơi người trí là cam lồ,
Kẻ ngu chẳng biết Phật tánh.
Nghe đại-thừa thành thuốc độc.
Với bực thanh văn, duyên giác.
Pháp đại thừa là cam lồ.
Cũng như trong các mùi vị.
Chất sữa là hơn tất cả.
Những người siêng năng tinh tấn.
Nhờ nương nơi pháp đại-thừa
Đặng đến nơi Đại-Niết-bàn.
Thành bực vua trong loài người.
Chúng sanh chứng biết Phật tánh.
Được chất cam lồ vô thượng
Thời không sanh cũng không tử.
Như Ca-Diếp Bồ-Tát thảy.
Nầy Ca-Diếp ông nên phải
Khéo phân biệt pháp tam-quy,
Thật tánh của pháp tam-quy.
Thời là chơn tánh của ngã.
Nếu có thể gẫm xét kỹ,
Tánh của ngã có tánh Phật.
Nên biết những người như vậy
Đặng chứng nhập tạng Như-Lai.
Biết ngã cùng biết ngã sở.
Người nầy đã được xuất thế.
Tánh, Phật, Pháp, Tăng, Tam-Bảo.
Là bực đệ nhứt vô thượng.
Kệ trên đây của ta nói.
Phật tánh đó nghĩ như vậy.
Hoặc có người uống cam lồ.
Hại thân mạng mà chết sớm.
Hoặc có người uống cam lồ,
Thêm tuổi thọ sống được lâu,
Hoặc uống thuốc độc được sống,
Có người uống độc mà chết.
Trí vô ngại như cam lồ,
Đó chính là kinh Đại thừa.
Kinh điển Đại thừa như vậy,
Cũng gọi là chất thuốc độc.
Như bơ, đề-hồ v.v…
Nhẫn đến các thứ đường phèn.
Uốngvào tiêu hóa là thuốc .
Chẳng tiêu hoá thời thành độc.
Kinh Đại- thừa cũng như vậy,
Nơi người trí là cam lồ,
Kẻ ngu chẳng biết Phật tánh.
Nghe đại-thừa thành thuốc độc.
Với bực thanh văn, duyên giác.
Pháp đại thừa là cam lồ.
Cũng như trong các mùi vị.
Chất sữa là hơn tất cả.
Những người siêng năng tinh tấn.
Nhờ nương nơi pháp đại-thừa
Đặng đến nơi Đại-Niết-bàn.
Thành bực vua trong loài người.
Chúng sanh chứng biết Phật tánh.
Được chất cam lồ vô thượng
Thời không sanh cũng không tử.
Như Ca-Diếp Bồ-Tát thảy.
Nầy Ca-Diếp ông nên phải
Khéo phân biệt pháp tam-quy,
Thật tánh của pháp tam-quy.
Thời là chơn tánh của ngã.
Nếu có thể gẫm xét kỹ,
Tánh của ngã có tánh Phật.
Nên biết những người như vậy
Đặng chứng nhập tạng Như-Lai.
Biết ngã cùng biết ngã sở.
Người nầy đã được xuất thế.
Tánh, Phật, Pháp, Tăng, Tam-Bảo.
Là bực đệ nhứt vô thượng.
Kệ trên đây của ta nói.
Phật tánh đó nghĩ như vậy.
Ca-Diếp
Bồ-Tát nói kệ bạch Phật:
Tô
inay đều chẳng biết.
Quy y nơi Tam-Bảo.
Thế nào sẽ về đến.
Vô thượng vô sở úy ?
Chẳng biết chỗ Tam-Bảo.
Thế nào là vô ngã?
Quy y Phật thế nào,
Mà đặng nơi an ổn?
Quy y Pháp thế nào,
Xin Phật vì tôi nói.
Thế nào đặng tự tại?
Thế nào chẳng tự tại ?
Quy y Tăng thế nào,
Lại đặng lợi vô thượng?
Thế nào thuyết chơn thật,
Đời sau thành Phật đạo?
Đời sau nếu chẳng thành,
Thế nào quy Tam-Bảo?
Nay tôi không dự biết,
Nên tuần tự quy y.
Thế nào chưa thai nghén,
Mà tưởng sẽ sanh con?
Nếu biết ở trong thai,
Thời gọi là có con,
Con nếu ở trong thai,
Chắc sẽ sanh chẳng lâu,
Đây gọi là nghĩa con,
Nghiệp chúng sanh cũng vậy.
Như lời Phật đã nói,
Người ngu chẳng biết được.
Do vì họ chẳng biết,
Luân hồi ngục sanh tử,
Giả danh Ưu-bà-tắc,
Chẳng biết nghĩa chơn thật.
Xin Phật rộng phân biệt,
Dứt trừ lưới nghi cho.
Đức Phật trí huệ lớn,
Xin thương vì phân biệt,
Xin nói nơi Như-Lai,
Tạng báu rất bí mật.
Quy y nơi Tam-Bảo.
Thế nào sẽ về đến.
Vô thượng vô sở úy ?
Chẳng biết chỗ Tam-Bảo.
Thế nào là vô ngã?
Quy y Phật thế nào,
Mà đặng nơi an ổn?
Quy y Pháp thế nào,
Xin Phật vì tôi nói.
Thế nào đặng tự tại?
Thế nào chẳng tự tại ?
Quy y Tăng thế nào,
Lại đặng lợi vô thượng?
Thế nào thuyết chơn thật,
Đời sau thành Phật đạo?
Đời sau nếu chẳng thành,
Thế nào quy Tam-Bảo?
Nay tôi không dự biết,
Nên tuần tự quy y.
Thế nào chưa thai nghén,
Mà tưởng sẽ sanh con?
Nếu biết ở trong thai,
Thời gọi là có con,
Con nếu ở trong thai,
Chắc sẽ sanh chẳng lâu,
Đây gọi là nghĩa con,
Nghiệp chúng sanh cũng vậy.
Như lời Phật đã nói,
Người ngu chẳng biết được.
Do vì họ chẳng biết,
Luân hồi ngục sanh tử,
Giả danh Ưu-bà-tắc,
Chẳng biết nghĩa chơn thật.
Xin Phật rộng phân biệt,
Dứt trừ lưới nghi cho.
Đức Phật trí huệ lớn,
Xin thương vì phân biệt,
Xin nói nơi Như-Lai,
Tạng báu rất bí mật.
Ca-Diếp ông nên biết,
Ta nay sẽ vì ông,
Khéo mở tạng bí mật,
Cho ông đặng dứt nghi,
Nay phải hết lòng nghe :
Ông trong hàng Bồ-Tát,
Thời đồng một danh hiệu,
Với Đức Phật thứ bảy.
Người quy y nơi Phật,
Thiệt là Ưu-Bà-Tắc,
Trọn chẳng lại quy y.
Những thiên thần nào khác.
Người quy y nơi Pháp,
Thời lìa sự sát hại.
Người quy y Thánh-Tăng,
Chẳng cầu các ngoại đạo,
Quy Tam-Bảo như vậy,
Thời đặng vô-sở-úy.
Ca-Diếp bạch Phật rằng:
Tôicũng
quy Tam-bảo,
Đây gọi là đường chánh,
Cảnh giới của chư Phật,
TướngTam-bảo bình đẳng.
Thường có tánh trí huệ,
Tánh ngã và tánh Phật,
Không hai không sai khác,
Đạo nầy Phật khen ngợi,
Thẳng đến chỗ ở an.
Cũng gọi chánh biến tri.
Nên được Phật tán thán.
Tôi cũng đến Phật đạo
Của Đức Phật ngợi khen. Là cam lồ tối thượng.
Các cõi chỗ không có.
Đây gọi là đường chánh,
Cảnh giới của chư Phật,
TướngTam-bảo bình đẳng.
Thường có tánh trí huệ,
Tánh ngã và tánh Phật,
Không hai không sai khác,
Đạo nầy Phật khen ngợi,
Thẳng đến chỗ ở an.
Cũng gọi chánh biến tri.
Nên được Phật tán thán.
Tôi cũng đến Phật đạo
Của Đức Phật ngợi khen. Là cam lồ tối thượng.
Các cõi chỗ không có.
thược dược
Đức
Phật bảo Ca-Diếp Bồ-Tát: “Nầy Thiện-nam-tử! Nay ông chẳng nên như hàng thanh-văn, cùng hàng phàm phu phân biệt ngôi Tam-bảo. Nơi đại-thừa đây không có
tướng tam-quy sai khác, vì trong Phật tánh đã có pháp và tăng. Nhơn muốn hóa độ
hàng thanh-văn và phàm phu, nên phân biệt nói tướng tam-quy sai khác.
Nầy
thiện-nam-tử ! Bồ-Tát nên suy nghĩ như thế nầy, nay thân của ta đây quy y nơi
Phật, nếu chính nơi thân nầy đặng thành Phật đạo, đã thành Phật rồi, chẳng nên
cung kính lễ bái cúng dường các đức Thế-Tôn. Vì chư Phật đều bình đẳng. Khắp vì
chúng sanh mà làm chỗ quy y. Nếu muốn tôn trọng pháp thân xá lợi, thời nên lễ
kính tháp miếu của chư Phật, vì muốn hóa độ chúng sanh, cũng làm cho chúng sanh
đối với thân của ta tưởng là tháp miếu mà lễ bái cúng dường. Những chúng sanh
đó, lấy pháp thân của ta làm chỗ quy y.
Tất
cả chúng sanh đều nương theo pháp tà ngụy chẳng chơn thật, ta sẽ tuần tự vì
chúng sanh nói pháp chơn thật.
Nếu
lại có chúng sanh nương theo phái chẳng phải chơn tăng, ta sẽ vì chúng sanh làm
chỗ chơn tăng để chúng quy y.
Nếu
có người phân biệt ba pháp quy y ta sẽ vì họ mà làm chỗ quy y duy nhứt, không
ba pháp sai khác.
Đối
với hạng sanh-manh, ta vì họ làm nhãn-mục.
Ta
lại sẽ vì hàng thanh văn, duyên giác mà làm chỗ chơn quy.
Nầy thiện-nam-tử! Như vậy, bồ-tát vì vô lượng chúng sanh ác và những người trí mà làm Phật sự.
Nầy thiện-nam-tử ! Ví như người lúc ra trận chiến đấu, tự nghĩ rằng trong đội ngũ đây, ta là người thứ nhứt, tất cả binh sĩ đều nương cậy nơi ta.
Cũng như vương-tử suy nghĩ thế nầy, ta sẽ điều-phục các vương-tử khác, nối ngôi đại vương giữ gìn nghiệp bá chủ, để đặng tự tại, khiến các vương tử đều phải quy y. Vì thế nên chẳng được sanh tâm hạ liệt. Như vương tử, vua và các quan cũng như vậy. Nầy thiện-nam-tử! Bồ-Tát cũng suy nghĩ như vầy: Thế nào ba sự cùng ta đồng một thể.
Nầy thiện-nam-tử ! Đức Phật nói ba sự tức là Niết-bàn. Như-Lai đó gọi là Vô-Thương-Sĩ. Ví như thân người, đầu là trên tất cả, chẳng đồng với tay chơn lóng đốt. Phật cũng như vậy, là bực tôn thượng, chẳng phải háp cùng tăng.Vì muốn hóa độ các thế gian, nên thị hiện những tướng sai khác, ví như bực thang kia.
Nầy thiện-nam-tử! Như vậy, bồ-tát vì vô lượng chúng sanh ác và những người trí mà làm Phật sự.
Nầy thiện-nam-tử ! Ví như người lúc ra trận chiến đấu, tự nghĩ rằng trong đội ngũ đây, ta là người thứ nhứt, tất cả binh sĩ đều nương cậy nơi ta.
Cũng như vương-tử suy nghĩ thế nầy, ta sẽ điều-phục các vương-tử khác, nối ngôi đại vương giữ gìn nghiệp bá chủ, để đặng tự tại, khiến các vương tử đều phải quy y. Vì thế nên chẳng được sanh tâm hạ liệt. Như vương tử, vua và các quan cũng như vậy. Nầy thiện-nam-tử! Bồ-Tát cũng suy nghĩ như vầy: Thế nào ba sự cùng ta đồng một thể.
Nầy thiện-nam-tử ! Đức Phật nói ba sự tức là Niết-bàn. Như-Lai đó gọi là Vô-Thương-Sĩ. Ví như thân người, đầu là trên tất cả, chẳng đồng với tay chơn lóng đốt. Phật cũng như vậy, là bực tôn thượng, chẳng phải háp cùng tăng.Vì muốn hóa độ các thế gian, nên thị hiện những tướng sai khác, ví như bực thang kia.
Vì
thế, nay ông chẳng nên như hàng phàm phu, nhận biết tướng ba pháp quy y sai
khác. Đối với đại-thừa, ông phải như dao bén mạnh mẽ quyết đoán.
Ca-Diếp Bồ-Tát bạch Phật: “Thế-Tôn! Tôi vẫn biết, nhưng cố ý hỏi, chẳng phải là không biết, tôi vì các vị bồ tát đại dõng mãnh, mà bạch hỏi chỗ thật hành thanh tịnh không nhơ, muốn đức Như-Lai vì các bồ tát tuyên nói những việc kỳ-đặc, tuyên dương kinh điển Đại-thừa Phương-đẳng. Đức Đại-Bi Thế-Tôn hôm nay đã khéo giải thuyết. Tôi cũng đã an trụ trong pháp đó. Chỗ thật hành thanh tịnh của bồ tát mà Phật đã nói đó, tức là tuyên thuyết kinh Đại Niết-Bàn.
Thế-Tôn! Nay tôi cũng sẽ rộng vì chúng sanh diễn dương tạng Như Lai bí mật như vậy, cũng sẽ chứng biết chỗ tam-quy chơn thật.
Nếu có chúng sanh nào có thể tin kinh Đại-Niết-Bàn nầy, người đó thời có thể tự nhiên rõ thấu chỗ ba pháp quy y. Vì tạng Như-Lai có Phật tánh vậy.
Có người tuyên nói kinh điển nầy, thời đều nói rằng trong thân vẫn có Phật tánh. Người nầy bèn chẳng cầu ba pháp quy y nơi đâu xa. Vì đời vị lai đây, thân ta bèn sẽ thành tựu ngôi Tam-Bảo. Phật tánh như vậy chẳng thể nghĩ bàn, ba mươi hai tướng, tám mươi thứ tốt cũng chẳng thể nghĩ bàn”.
Ca-Diếp Bồ-Tát bạch Phật: “Thế-Tôn! Tôi vẫn biết, nhưng cố ý hỏi, chẳng phải là không biết, tôi vì các vị bồ tát đại dõng mãnh, mà bạch hỏi chỗ thật hành thanh tịnh không nhơ, muốn đức Như-Lai vì các bồ tát tuyên nói những việc kỳ-đặc, tuyên dương kinh điển Đại-thừa Phương-đẳng. Đức Đại-Bi Thế-Tôn hôm nay đã khéo giải thuyết. Tôi cũng đã an trụ trong pháp đó. Chỗ thật hành thanh tịnh của bồ tát mà Phật đã nói đó, tức là tuyên thuyết kinh Đại Niết-Bàn.
Thế-Tôn! Nay tôi cũng sẽ rộng vì chúng sanh diễn dương tạng Như Lai bí mật như vậy, cũng sẽ chứng biết chỗ tam-quy chơn thật.
Nếu có chúng sanh nào có thể tin kinh Đại-Niết-Bàn nầy, người đó thời có thể tự nhiên rõ thấu chỗ ba pháp quy y. Vì tạng Như-Lai có Phật tánh vậy.
Có người tuyên nói kinh điển nầy, thời đều nói rằng trong thân vẫn có Phật tánh. Người nầy bèn chẳng cầu ba pháp quy y nơi đâu xa. Vì đời vị lai đây, thân ta bèn sẽ thành tựu ngôi Tam-Bảo. Phật tánh như vậy chẳng thể nghĩ bàn, ba mươi hai tướng, tám mươi thứ tốt cũng chẳng thể nghĩ bàn”.
túy cầu
Phật bảo Ca-Diếp Bồ-Tát: “Lành thay! Lành thay! Nầy Thiện-nam-tử! Ông đã thành
tựu trí huệ rất sâu. Nay ta sẽ lại vì ông nói pháp chứng nhập Tạng Như-Lai.
Nếu ngã là có, thời là pháp thường chẳng rời nơi khổ. Nếu không có ngã, thời tu hạnh thanh tịnh không được lợi ích.
Nếu cho rằng các pháp đều không có ngã, đó là đoạn kiến, nếu cho rằng có ngã thời là thường kiến.
Nếu cho rằng tất cả hành pháp là vô thường, thời là đoạn kiến, cho rằng các hành pháp là thường, thời lại là thường kiến.
Nếu nói là khổ, thời là đoạn kiến, nếu nói là lạc, thời lại là thường kiến.
Tu tất cả pháp thường đó, thời sa nơi đoạn kiến, tu tất cả pháp đoạn đó, thời sa nơi thường kiến. Như bước đi, cần phải do chưn trước, mới dời đặng chưn sau. Người tu pháp thường, pháp đoạn, cũng lại như vậy, cần phải do nơi đoạn và thường.
Do nghĩ nầy, nên người tu các pháp khổ đều gọi là chẳng lành, người tu các pháp lạc, thời gọi là lành. Người tu các pháp vô ngã, thời thuộc về phiền não, người tu các pháp thường, thời gọi là tạng Như-Lai.
Niết-bàn không có nơi chốn. Tu những pháp vô thường, thời là tài vật, tu những pháp thường, gọi là Phật, Pháp, Tăng, và chánh giải thoát.
Nên biết Phật pháp trung đạo như vậy, xa lìa hai bên mà nói pháp chơn thật. Người phàm phu ngu mê đối trong pháp đó không nghi, như người gầy yếu, được uống thuốc bổ, thời khí lực khỏe khoắn.
Những pháp hữu, vô, thể tánh chẳng nhứt định. Ví như tứ đại tánh nó chẳng đồng, đều trái phản nhau. Lương y khéo biết tùy món đại nào phát bịnh mà điều chỉnh đó.
Nầy thiện-nam-tử ! Cũng vậy, đức Như-lai đối với các chúng sanh, cũng như vị lương y, rõ biết thể tướng sai khác của các phiền não mà dứt trừ, khai-thị tạng Như-Lai bí mật, Phật tánh thanh tịnh thường trụ chẳng biến đổi. Nếu cho rằng có, thời lẽ ra trí chẳng nhiễm. Nếu nói là không, bèn thành vọng ngữ. Nếu nói là có, lẽ ra chẳng nên nín lặng. Lại cũng chẳng nên hý luận cãi cọ, chỉ nên cầu được rõ biết chơn tánh của các pháp.
Người phàm phu hý luận cãi cọ vì chẳng hiểu tạng Như-Lai. Nếu nói pháp khổ, người ngu bèn cho thân là vô thường, chẳng có thể biết nơi thân có tánh lạc.
Nếu nói vô thường, người phàm phu chấp tất cả thân đều là vô thường, như ngói chưa hầm chín.
Nếu là người trí nên phải quan sát, chẳng nên nói tất cả đều vô thường, vì nơi thân của ta có chủng tử Phật tánh.
Nếu nói vô ngã, người phàm phu sẽ cho là tất cả Phật, Pháp đều không có ngã. Người trí nên phải quan sát vô ngã là giả danh chẳng thật, rõ biết như vậy chẳng nên sanh nghi.
Nếu nói tạng Như-Lai là không tịch, người phàm phu nghe như thế sanh kiến chấp đoạn diệt. Người trí nên phải quan sát Như-Lai là thường, không có biến đổi.
Nếu nói giải thoát dụ như huyễn hoá, người phàm phu sẽ cho rằng chứng đặng giải thoát tức là dứt mất. Người trí nên phải quan sát đức Như-Lai giải thoát, dầu có đến đi, nhưng vẫn thường trụ không biến đổi.
Nếu nói vô minh làm nhơn duyên mà có các hành pháp, người phàm phu liền phân biệt tưởng rằng có hai pháp: “minh” đến “vô minh”. Người trí rõ biết tánh đó vốn không có hai. Tánh không hai đó tức là thật tánh.
Nếu nói các hành làm nhơn duyên có ra thức, người phàm phu cho rằng có hai: “hành” cùng “thức”.
Người trí rõ biết tánh đó không hai. Tánh không hai đó tức là thật tánh.
Nếu nói thập thiện, thập ác có thể tạo tác, không thể tạo tác, đường lành, đường dữ, pháp lành, pháp dữ, người phàm phu nghe đó cho là có hai, người trí rõ biết tánh đó không hai. Tánh không hai đó tức là thật tánh.
Nếu nói nên tu tất cả pháp khổ, phàm phu cho rằng có hai, người trí rõ biết tánh kia không hai, tánh không hai đó tức là thật tánh.
Nếu ngã là có, thời là pháp thường chẳng rời nơi khổ. Nếu không có ngã, thời tu hạnh thanh tịnh không được lợi ích.
Nếu cho rằng các pháp đều không có ngã, đó là đoạn kiến, nếu cho rằng có ngã thời là thường kiến.
Nếu cho rằng tất cả hành pháp là vô thường, thời là đoạn kiến, cho rằng các hành pháp là thường, thời lại là thường kiến.
Nếu nói là khổ, thời là đoạn kiến, nếu nói là lạc, thời lại là thường kiến.
Tu tất cả pháp thường đó, thời sa nơi đoạn kiến, tu tất cả pháp đoạn đó, thời sa nơi thường kiến. Như bước đi, cần phải do chưn trước, mới dời đặng chưn sau. Người tu pháp thường, pháp đoạn, cũng lại như vậy, cần phải do nơi đoạn và thường.
Do nghĩ nầy, nên người tu các pháp khổ đều gọi là chẳng lành, người tu các pháp lạc, thời gọi là lành. Người tu các pháp vô ngã, thời thuộc về phiền não, người tu các pháp thường, thời gọi là tạng Như-Lai.
Niết-bàn không có nơi chốn. Tu những pháp vô thường, thời là tài vật, tu những pháp thường, gọi là Phật, Pháp, Tăng, và chánh giải thoát.
Nên biết Phật pháp trung đạo như vậy, xa lìa hai bên mà nói pháp chơn thật. Người phàm phu ngu mê đối trong pháp đó không nghi, như người gầy yếu, được uống thuốc bổ, thời khí lực khỏe khoắn.
Những pháp hữu, vô, thể tánh chẳng nhứt định. Ví như tứ đại tánh nó chẳng đồng, đều trái phản nhau. Lương y khéo biết tùy món đại nào phát bịnh mà điều chỉnh đó.
Nầy thiện-nam-tử ! Cũng vậy, đức Như-lai đối với các chúng sanh, cũng như vị lương y, rõ biết thể tướng sai khác của các phiền não mà dứt trừ, khai-thị tạng Như-Lai bí mật, Phật tánh thanh tịnh thường trụ chẳng biến đổi. Nếu cho rằng có, thời lẽ ra trí chẳng nhiễm. Nếu nói là không, bèn thành vọng ngữ. Nếu nói là có, lẽ ra chẳng nên nín lặng. Lại cũng chẳng nên hý luận cãi cọ, chỉ nên cầu được rõ biết chơn tánh của các pháp.
Người phàm phu hý luận cãi cọ vì chẳng hiểu tạng Như-Lai. Nếu nói pháp khổ, người ngu bèn cho thân là vô thường, chẳng có thể biết nơi thân có tánh lạc.
Nếu nói vô thường, người phàm phu chấp tất cả thân đều là vô thường, như ngói chưa hầm chín.
Nếu là người trí nên phải quan sát, chẳng nên nói tất cả đều vô thường, vì nơi thân của ta có chủng tử Phật tánh.
Nếu nói vô ngã, người phàm phu sẽ cho là tất cả Phật, Pháp đều không có ngã. Người trí nên phải quan sát vô ngã là giả danh chẳng thật, rõ biết như vậy chẳng nên sanh nghi.
Nếu nói tạng Như-Lai là không tịch, người phàm phu nghe như thế sanh kiến chấp đoạn diệt. Người trí nên phải quan sát Như-Lai là thường, không có biến đổi.
Nếu nói giải thoát dụ như huyễn hoá, người phàm phu sẽ cho rằng chứng đặng giải thoát tức là dứt mất. Người trí nên phải quan sát đức Như-Lai giải thoát, dầu có đến đi, nhưng vẫn thường trụ không biến đổi.
Nếu nói vô minh làm nhơn duyên mà có các hành pháp, người phàm phu liền phân biệt tưởng rằng có hai pháp: “minh” đến “vô minh”. Người trí rõ biết tánh đó vốn không có hai. Tánh không hai đó tức là thật tánh.
Nếu nói các hành làm nhơn duyên có ra thức, người phàm phu cho rằng có hai: “hành” cùng “thức”.
Người trí rõ biết tánh đó không hai. Tánh không hai đó tức là thật tánh.
Nếu nói thập thiện, thập ác có thể tạo tác, không thể tạo tác, đường lành, đường dữ, pháp lành, pháp dữ, người phàm phu nghe đó cho là có hai, người trí rõ biết tánh đó không hai. Tánh không hai đó tức là thật tánh.
Nếu nói nên tu tất cả pháp khổ, phàm phu cho rằng có hai, người trí rõ biết tánh kia không hai, tánh không hai đó tức là thật tánh.
Nếu
nói tất cả hành pháp là vô thường thời tạng Như-Lai cũng là vô thường, phàm phu
cho rằng có hai, người trí rõ biết tánh đó không hai, tánh không hai đó tức là
thật tánh.
Nếu
nói tất cả pháp vô ngã, tạng Như-Lai cũng không có ngã, phàm phu cho rằng có
hai, người trí rõ biết tánh đó không hai, tánh không hai đó tức là thật tánh.
Ngã
với vô ngã nơi tánh không có hai thứ.
Tạng
Như-Lai, nghĩa tánh vô lượng vô biên như vậy, là chỗ mà chư Phật đều tán thán,
hôm nay ta ở nơi trong kinh thành-tựu tất cả công đức này đều đã nói rồi.
Nầy
thiện-nam-tử! Ngã cùng vô ngã tánh và tướng không có hai thứ, ông phải trân trọng
thọ trì như vậy, ông cũng phải ghi nhớ giữ gìn kinh điển nầy. Như ta ngày trước
trong kinh Đại-Bát-Nhã cũng nói ngã và vô ngã không có hai thứ.
vạn thọ
Nầy
Thiện-nam-tử! Như do sữa thành lạc, do lạc thành sanh-tô, do sanh-tô thành thục-tô,
do thục-tô đặng chất đề-hồ. Chất lạc đó là từ sữa sanh ra, hay là nó tự sanh,
hoặc do cái khác sanh ư, nhẫn đến đề-hồ cũng lại như vậy. Nếu từ cái khác sanh,
thời là lẽ ra chẳng phải do sữa mà thành. Nếu chẳng phải từ nơi sữa sanh, thời
sữa thành vô dụng đối với lạc, bởi sữa vốn không có lạc. Nếu lạc, tự nó sanh lấy
nó, lẽ ra chẳng từ sữa lần lần biến thành lạc. Nếu lần lần biến thành, thời là
chẳng sanh chung. Nếu chẳng sanh chung thời cả năm thứ không đồng một thời. Dầu
chẳng đồng một thời nhưng quyết định chẳng phải từ nơi chỗ khác mà có.
Phải
biết trong chất sữa đã có tướng của chất lạc. Vì nhiều vị ngọt nên chẳng thể tự
biến; nhẫn đến chất đề-hồ cũng lại như vậy.
Do
con bò cái ăn cỏ, uống nước, huyết mạch chuyển biến mà đặng có sữa. Nếu nó ăn cỏ
ngọt thời sữa nó nhiều vị ngọt. Nếu nó ăn cỏ đắng, thời sữa nó có lẫn vị đắng. Núi
Tuyết có thứ cỏ tên là phì-nhị. Bò cái ăn cỏ nầy, thời đặng thuần chất đề-hồ,
không có những màu xanh, vàng, đỏ, trắng, đen.
Do
cỏ lúa làm nhơn duyên mà sữa bò có màu vị khác nhau. Cũng vậy, các chúng sanh
do minh cùng vô minh, vì nghiệp làm nhơn duyên mà sanh có hai tướng. Nếu vô
minh chuyển thời biến làm minh. Tất cả những pháp thiện, bất thiện, v.v…, cũng lại
như vậy, không có hai thứ.”
Ca-Diếp Bồ-Tát
bạch Phật: “Thế-Tôn! Như lời Phật nói, trong sữa có tướng lạc, nghĩa đó như thế
nào? Thế-Tôn! Nếu nói rằng trong sữa quyết định có tướng lạc, do vì vi tế chẳng
thấy được, thế sao lại nói từ nơi sữa mà thành lạc. Phàm trước vốn không mà nay
có thời gọi đó là sanh. Như lạc đã vốn có, sao lại nói là sanh. Nếu nói trong sữa
quyết định có tướng lạc, thời trong cỏ lúa lẽ ra cũng có sữa, và trong sữa lẽ
ra cũng có cỏ lúa.
Nếu
nói trong sữa quyết định không có lạc, thế sao nhơn sữa mà đặng thành lạc. Nếu
trước vốn không, sau mới sanh ra có, thời cớ gì trong sữa chẳng sanh ra cỏ lúa?
- Thiện-nam-tử! Chẳng nên nói quyết định trong sữa có lạc hay trong sữa không lạc,
cũng chẳng nên nói từ nơi khác mà sanh.
Nếu
nói trong sữa quyết định có lạc, thời chất và vị của hai thứ sao lại khác nhau.
Vì thế nên chẳng nên nói trong sữa quyết định có chất lạc.
Nếu
nói trong sữa quyết định không có lạc, cớ sao trong sữa chẳng sanh vật khác.
Đem chất độc pha vào trong sữa, lúc sữa đó thành lạc, thời chất lạc đó giết chết
người, vì thế nên chẳng nên nói rằng trong sữa quyết định không có chất lạc.
Nếu
nói chất lạc từ nơi khác mà sanh, thời cớ gì trong nước lã chẳng sanh chất lạc,
mà phải từ nơi sữa, vì thế nên chẳng nên nói chất lạc từ nơi khác mà sanh.
Nầy
thiện-nam-tử! Bò cái kia ăn cỏ tiêu hoá biến thành bạch huyết, do phước lực của
chúng sanh, cỏ huyết biến thành sữa. Sữa nầy dầu từ nơi cỏ huyết mà ra, nhưng
chẳng đặng nói là hai thứ, chỉ đặng gọi là từ nhơn duyên mà sanh. Chất lạc, nhẫn
đến đề-hồ cũng lại như vậy.
Do nhơn duyên nên sau khi sữa mất biến thành chất lạc, ủ đông, hâm nóng, đó là nhơn duyên. Nhẫn đến đề-hồ cũng lại như vậy. Vì thế nên chẳng đặng nói quyết định rằng trong sữa không có tướng lạc.
Do nhơn duyên nên sau khi sữa mất biến thành chất lạc, ủ đông, hâm nóng, đó là nhơn duyên. Nhẫn đến đề-hồ cũng lại như vậy. Vì thế nên chẳng đặng nói quyết định rằng trong sữa không có tướng lạc.
Nếu
nói từ nơi khác mà sanh, thời ngoài sữa không do đâu để có chất lạc.
Nầy
thiện-nam-tử! “Minh” cùng “vô minh” cũng lại như vậy. Nếu chung với phiền não
thời gọi là vô minh, nếu chung với tất cả pháp lành thời gọi là minh. Do đó nên
ta nói không có hai tướng. Vì thế nên trước kia ta nói bò cái ăn cỏ phì-nhi ở núi
Tuyết, thời sanh thuần chất đề-hồ. Phật tánh cũng vậy.
Nầy
thiện-nam-tử! Do vì phiền não che đậy nên chúng sanh chẳng thấy Phật tánh, như
người phước bạc chẳng thấy được cỏ phì-nhị.
Như
trong biển lớn, dầu đồng một vị mặn, nhưng trong đó cũng có nước ngọt ngon, vị
đồng như sữa. Như nơi núi Tuyết, dầu sanh nhiều cỏ thuốc, nhưng cũng có cỏ độc.
Thân
của các chúng sanh cũng lại như vậy, dầu có giống rắn độc tứ đại, nhưng trong
đó cũng có diệu dược, tức là Phật tánh. Phật tánh chẳng phải là pháp tạo tác
làm ra, chỉ vì phiền não khách trần che khuất, nếu chúng sanh nào dứt trừ được
phiền não, thời liền thấy được Phật tánh thành đạo vô thượng.
Ví
như giữa hư không, giăng mây nổi sấm, trên ngà của tất cả voi đều sanh bông. Nếu
không có sấm nổ, thời bông không sanh.
Phật
tánh của chúng sanh cũng lại như vậy, thường bị tất cả phiền não che khuất nên
chẳng thấy được. Vì thế nên ta nói chúng sanh không có ngã.
Nếu
được nghe kinh điển Đại-Niết-Bàn vi diệu nầy, thời được thấy Phật tánh như bông
hiện trên ngà voi.
Dầu
nghe tất cả tam muội trong khế kinh, mà chẳng nghe kinh Đại-Niết-Bàn nầy, thời
chẳng biết được tướng Như-Lai vi diệu. Như lúc không có tiếng sấm, thời chẳng
thấy được bông trên ngà voi.
Nếu
được nghe kinh nầy rồi, liền biết tạng Phật tánh của tất cả Như-lai nói. Như trời
sấm thấy bông trên ngà voi. Được nghe kinh nầy liền biết tất cả chúng sanh đều có
Phật tánh.
Do
nghĩa trên đây, nên nói Đại-Niết-Bàn là tạng Như-Lai thêm lớn pháp thân, như
lúc trời sấm, bông trên ngà voi nhờ đó mà được sanh thêm.
Nếu
có thiện-nam, tín-nữ, có thể tập học kinh điển vi diệu Đại-Niết-Bàn nầy, nên biết
những người đây có thể báo được ân Phật, thật là đệ tử của Phật.
opium poppy
Ca-Diếp
Bồ-Tát bạch Phật: “Thế-Tôn! Phật tánh ấy rất sâu, khó thấy, khó vào như thế
nào?”
Phật
nói: “Nầy thiện-nam-tử! Như trăm người mù đến lương y để trị bịnh mắt. Lúc đó
lương y dùng kim vàng lột màng mắt của họ, lột xong, giơ một ngón tay hỏi rằng:
Thấy không? Người mù đáp rằng: Tôi vẫn chưa thấy. Lương ylại giơ hai ngón, ba
ngón; người mù mới nói rằng thấy mờ mờ.
Nầy
thiện-nam-tử ! Kinh điển Đại-Niết-Bàn vi diệu nầy, lúc đức Như-Lai chưa nói
cũng lại như vậy. Vô lượng Bồ-tát dầu đầy đủ thật hành các ba-la-mật, nhẫn đến
bậc thập-trụ vẫn còn chưa thấy được Phật tánh. Lúc Như-Lai đã nói, mới thấy được
chút ít. Lúc Bồ-Tát nầy đã được thấy, đều nói rằng: “ Thế-Tôn! Lạ lùng thay,
chúng tôi lưu chuyển thọ vô lượng sanh tử, thường bị vô ngã làm mê lầm.
Nầy
thiện-nam-tử ! Phật tánh ấy rất sâu như vậy, khó biết khó thấy, chỉ Phật biết
rõ, chẳng phải hàng Thanh-Văn, Duyên-Giác đến được. Người trí phải quan sát như
vậy để rõ biết Phật tánh.
California poppy
Ca-Diếp
Bồ-Tát bạch Phật:”Phật tánh vi-tế khó thấy như vậy, thế sao nhục nhãn mà có thể
thấy được.”
Phật
bảo Ca-Diếp Bồ-Tát: “Nầy thiện-nam-tử ! Như trời phi-tưởng phi-phi-tưởng kia,
cũng chẳng phải hàng nhị thừa biết được, chỉ tin theo khế-kinh mà biết. ccc
Phật
nói : “ Ví như hai người làm bạn thân nhau : Một người là vương tử, một người
là dân hèn, hai người đó thường qua lại nhau, lúc đó người nghèo thấy vương tử
có một con dao tốt, trong lòng thích muốn, thời gian sau, vương tử mang dao trốn
qua nước khác. Một hôm, người dân hèn ngủ nhờ nhà người khác, giữa giấc ngũ mơ
nói con dao! con dao! Người nhà nghe được bắt nộp cho vua. Vua gạn hỏi: Nhà ngươi
nói con dao, nay ở đâu? Người dân bèn thuật rõ việc trước. Nay nhà vua dầu giết
thần, banh xẻ tay chân cũng không thể tìm được dao. Thần cùng vương tử vốn là bạn
thân, trước kia, dầu mắt được thấy con dao, nhưng còn không dám chạm đến, huống
lại cố ý lấy.
Vua
lại hỏi: “Lúc nhà ngươi thấy dao, hình dạng giống thứ gì?"
Người
dân bèn thưa: “Tâu Đại-Vương, thần thấy con dao ấy giống như sừng dê đen”.
Vua
nghe xong, vui mừng cả cười, bảo rằng: “Nhà ngươi chớ sợ, ta tha cho ngươi,
trong kho tàng của ta, đều không có thứ dao ấy, huống là ngươi thấy con dao nơi
vương tử”.
Lúc
đó nhà vua lại hỏi các quan: “Các khanh từng thấy con dao đó chăng?” Nói xong
vua liền băng. Triều thần liền lập vương tử khác lên làm vua.
Tân vương
lại hỏi các quan: “Các khanh từng thấy con dao đó chăng? Hình dáng nó như thế
nào?”
Các
quan đồng tâu: “Chúng thần từng thấy hình nó như sừng dê đen”.
Vua
nói: “Trong kho tàng của ta, chỗ nào mà có thứ dao hình dạng như vậy?”
Lần
lượt bốn vị tân vương tra tìm con dao ấy đều chẳng đặng.
Sau
đó, vị Vương tử đào vong ngày trước, trở về nước, được tôn làm vua. Khi lên
ngôi xong, tân vương nầy lại hỏi các quan: “Các khanh có thấy con dao đó chăng?
Hình dạng nó thế nào?”
Các
quan tâu: “Chúng tôi đều thấy”. Rồi đua nhau trình bày hình dáng của con dao.
Người thì nói sắc dao thanh tịnh như hoa sen xanh. Người lại nói hình như sừng
dê. Người thì nói dao màu hồng đỏ như lửa. Người lại nói dao đen tuyền như rắn
đen.
Nhà
vua cả cười bảo: “Các khanh đều chẳng thấy biết hình dáng thật của con dao của
ta”. Nói xong bỏ đi.
Nầy
thiện-nam-tử! Bồ-Tát xuất hiện nơi đời nói tướng chơn thiệt của ngã cũng như vậy. Như Vương-tử mang con dao tốt trốn qua nước khác.
Người
phàm phu ngu mê cho rằng tất cả đều có ngã, có ngã. Như người dân hèn ngũ nhờ
nhà người khác, mơ nói con dao! Con dao!
Hàng thanh văn, duyên giác hỏi các chúng sanh, tướng của ngã như thế nào? Đáp rằng “Tôi thấy tướng
của ngã lớn bằng ngón tay cái. Có kẻ nói, như hột gạo. Có kẻ nói như hột cỏ.
Cũng có kẽ nói tướng của ngã ở trong tâm, sáng rỡ như mặt trời”.
Những
chúng sanh đó đều chẳng biết tướng của ngã. Như các quan chẳng biết hình dáng của
con dao.
Bồ-Tát
nói tướng trạng của ngã, hàng phàm phu chẳng rõ biết, vọng tưởng ra các hình tướng
của ngã, như những người nói hình dáng của con dao, giống như sừng dê đen v.v…
Các
hạng phàm phu đó, tuần tự nối nhau mà sanh những tà kiến.
Vì
dứt những tà kiến đó, nên đức Như-Lai hiện ra đời, nói pháp vô-ngã. Vương tử bảo
các quan: Trong kho tàng của ta không có thứ dao như vậy.
Nầy
thiện-nam-tử! Hôm nay đức Như-Lai nói ngã chơn thật gọi là Phật tánh. Phật tánh
như vậy ở trong phật pháp của ta, như con dao tốt kia.
Thiện-nam-tử!
Nếu có kẻ phàm phu, có thể nói đúng, đó chính là do vì tùy thuận Phật pháp vô
thượng. Nếu có người khéo phân biệt tùy thuận tuyên nói như đây, nên biết người
đó chính là Bồ-tát.-
=========================
No comments:
Post a Comment