Vladimir Bukovsky họp báo 1976 tai Zurich |
Phán
xét mới về Nga
Secret Files of the Soviet Union
Amy Knight reviewing “Jugement in Moscow, Soviet Crimes and Western Complicity
Vladimir Bukovsky, nhân vật trội yếu trong phong trào
phản kháng Nga, đã từ trần ngày 27-10-1919 để lại cuốn sách xuất bản 20 năm trước
bằng tiếng Nga, Pháp và Đức nhưng bản tiếng Anh mới xuất hiện gần đây. Đóng góp
quan trọng của tác phẩm nầy là chép các tài liệu mật mà tác giả đã chụp hình khi văn
khố Nga mới mở cửa tại Moscou; việc chép nầy cũng mang những ý
kiến riêng của tác giả, giúp thế giới có cái nhìn hơi khác với cái nhìn hiện hữu
về Nga trong thời gian ngắn trước và sau ngày đế quốc đỏ sụp đổ; nhất là vai trò
của Gorbachev.
Vladimir Bukovsky (VB) sinh 1942 và lớn lên tại Moscou, luôn
tin tưởng mãnh liệt rằng sức mạnh cá nhân là vũ khí quan trọng nhất để chuyển đổi
nền chính trị quốc gia. Từ lúc nhỏ, ông đã “trở chứng”, không chịu làm lãnh đạo
đoàn thiếu nhi tiền phong ở trường, và bốn năm sau không chịu gia nhập đoàn thiếu
niên xung phong. Đầu năm 1963 ở tuổi 20, VB bị bắt vì sao chép các bài chống Liên
xô (LX); trước đó hai năm ông đã bị đuổi khỏi đại học khi đang theo ngành sinh
học, vì viết văn chống CSQT. Sau khi được “chẩn nghiệm tâm thần” ông phải ở hai
năm trong nhà thương điên, loại cơ sở nầy KGB thích dùng thay cho nhà tù cổ điển
để giam giữ thành phần chống đối.
Tổng cộng ông đã ở 12 năm trong nhà thương điên, trại lao động, nhà tù trước khi bị trục xuất, tay bị còng cho đến khi phi cơ hạ cánh ở Zurich năm 1976 để trao đổi với việc tha tù cho lãnh tụ CS Chile Luis Corvalan.
VB là một trong những người đầu tiên chủ trương biểu tình
công khai, thay vì các hoạt động lén lút bất hợp pháp; ông thường kêu gọi tôn trọng
trật tự xã hội. Chiến thuật đối đầu với chính quyền ông dùng là những đạo luật
thành văn. Theo hồi ký, ông đã soạn bài tự biện hộ dài một giờ rưởi tại phiên tòa
1976 xử tội biểu tình bất hợp pháp, ông đã trưng dẫn nhiều bộ luật về hình sự tố tụng. Ông lãnh án ba năm lao động cưỡng bách.
VB xứng lời khen tụng đã gây chú ý về việc Nga hà lạm ngành chẩn trị tâm thần để gây khổ não cho dân chúng mà Alexander Solzhenitsyn gọi là gulag thần kinh. Năm 1971 ông đã chuyền lậu đến tay các bác sĩ tâm thần Tây Phương một bức thư kèm bằng chứng cho biết nhiều người bất đồng chánh kiến bị giam trong nhà thương điên. Bức thư công bố trên Times of London đã gây phẩn nộ lớn tiếng trong giới trị liệu tâm thần. Điều nầy đưa đến việc VB bị bắt và năm sau ra tòa về tội mạ lỵ ngành trị liệu tâm thần LX.
Tại hải ngoại VB tiếp tục chống đối chính quyền Nga từ lúc định cư ở Cambridge, Anh Quốc năm 1976. Sau khi Gorbachev được bầu làm thủ lãnh đảng CS Nga năm 1985, VB chú tâm khuyến cáo các chính phủ đừng quá nhiệt tâm, say mê nhà lãnh đạo mới nầy. Gorbachev đưa ra một kế hoạch – được Tây phương ca ngợi – đương đầu với sự suy thoái trầm trọng của nền kinh tế Nga quá bấp bênh, bằng cách khởi xướng chính sách kinh tế tự do giới hạn, tự do phát biểu, bầu cử có nhiều ứng viên ở cấp tỉnh, cấp vùng. Nhưng theo VB, Gorbachev chỉ dùng những chính sách glasnost (đổi mới) và perestroika (chỉnh đốn cơ cấu lãnh đạo) như để xả xì và chận đứng sự thành lập những lực lượng chính trị thực sự độc lập, chứ không phải mở đầu một nền dân chủ đầy đủ vững vàng.
Năm 1991, VB trở về quê
nhà sau 15 năm lưu lạc, vào “buổi xế chiều hôm trước” ngày Xô Viết sụp đổ. Ông
thất vọng khi khám phá rằng mặc dầu đại đa số dân chúng sẵn sàng xô sập chế độ,
giới ưu việt, gọi là các nhà dân chủ lớn lên trong perestroika, không như thế,
không sẵn sàng xô sập chế độ. Tại diễn đàn nghị viện Cộng Hòa Nga (tuyên
bố tự trị trong Liên Hiệp Nga năm 1990), VB thúc dục đối đầu với chế độ Xô Viết
bằng một cuộc tổng đình công, nhưng các dân biểu chỉ muốn thỏa hiệp.
Sau khi Boris Yeltsin dẹp tan cuộc tạo loạn của thành phần bảo thủ vào tháng 8, 1991, VB trở lại Moscou nhằm nghiên cứu tại trung tâm văn khố của đảng CS Nga vừa mở cửa. Nhưng ông thấy các viên chức trách nhiệm không muốn xúc tiến phơi bày các bí mật, từ khi Yeltsin ký quyết nghị tái lập việc bảo mật. VB không được phép xem các tài liệu lưu trữ quan trọng, những thứ liên quan đến đời sống của chính mình.
Cuối năm ấy, ông gặp cơ
hội mới. Ông được mời làm nhân chứng trong vụ án sắp tới xét xử đảng CS Nga tại
tòa án hiến pháp mới thành lập. Ông đòi phải được tham khảo các văn kiện lưu
trữ mới nhận lời. Nhờ một máy ảnh nhỏ trong lòng bàn tay ông đã chụp hằng ngàn
tài liệu mật của đảng CS Nga và KGB. Về sau, ông đã đưa hết lên trang nhà,
nhưng chỉ 1/3 đã được dịch qua tiếng Anh. Nội dung tổng quát của cuốn Jugement in Moscow cho thấy chủ tâm của VB là phơi bày những tin tức về việc lạm dụng trị
liệu tâm thần mà hành hạ con người. Một tài liệu chụp hình được là tờ trình tháng 12, 1969 của phân khu KGB
Krasnodar chuyển tiếp đến Bộ chính trị (BCT) bởi trưởng ngành KGB lúc ấy là
Yuri Andropov xác nhận rằng tại vùng Krasnodar có 55.800 bệnh nhân tâm thần, là
những tội nhân có ý hướng xấu về chính trị, có hành vi bất hảo như muốn trốn ra
ngoại quốc hoặc viết thư mạ lỵ LX. Ngoài ra khu vực nầy hiện còn từ 11 đến 12 ngàn
người cần nhập viện để điều trị tâm thần. Phần trên tờ trình Andropov viết rằng các
vùng khác, tình hình đều giống vậy.
VB làm bài tính: Nga gồm
chừng 100 đơn vị vùng (quận hạt) lấy đó mà nhân lên thì KGB hiện có hơn một triệu người cần
vô nhà thương điên. Như vậy KGB cần thiết lập một gulag tâm thần.
Vì chiến dịch trên thế
giới chống hà lạm tâm thần, Andropov hủy bỏ ý định gia tăng số “bệnh nhân” nhập
viện. Tuy nhiên việc khủng bố tâm thần vẫn tiếp tục cho đến hết thập niên 1980.
Những tài liệu VB chụp được
còn cho thấy tầm mức rộng lớn và chiều sâu của cuộc chiến chính trị đầy tham
vọng chống Tây Phương, gọi là các biện pháp năng động, gồm việc hậu thuẩn tích
cực cho phong trào CSQT. VB viết: Từ 1969 cho đến ngày sụp đổ, Moscou đã giúp
hằng tỷ dollar cho các đảng CS; từ 1979 đến 1989, hơn năm trăm lãnh tụ CS đến
Nga tham dự huấn luyện đặc biệt. Nga đã
cung cấp vũ khí và trang bị quân sự cho El Salvador và Nicaragua để nuôi dưỡng
các tương tranh. Mặt Trận Giải Phóng Palestine đã dùng vũ khí Nga
cung cấp trong những vụ khủng bố. Các con số thống kê trong sách cho thấy
ngân sách đã bị hút sạch tiền.
Dĩ nhiên Nga không bao giờ
bỏ mất cơ hội làm hại HK, kẻ đối nghịch chính. Trong điệp văn tháng 4 1970 gởi
Trung Ương, Andropov ghi rõ: vì sự gia tăng chống đối của người da đen tại
Mỹ sẽ gây khó khăn cho giai cấp cai trị ở Mỹ và làm cho chính phủ Nixon xao
lãng trong chính sách đối ngoại, chúng ta phải thực hiện cho được một số biện
pháp giúp đỡ phong trào nầy. Andropov tiếp tục khai triển một kế hoạch rộng lớn
tuyên truyền rằng HK thực hiện diệt chủng chống Mỹ da đen. Gần 50 năm sau, Nga
lại theo kế hach cũ nầy bằng cách điều khiển một đạo quân hacker trong cơ quan Nghiên
Cứu Internet tung ra tin thất thiệt và xúi dục tranh chấp chủng tộc để ảnh hưởng
bầu cử tổng thống 2016. Nga xem nhẹ ảnh hưởng của phong trào phản kháng đối với
việc cai trị nội địa, nhưng chú tâm đặc biệt đến dư luận quốc tế. Để thành công
trong việc quảng bá chủ nghĩa CS, Nga cần giữ bộ mặt cho toàn vẹn đẹp đẽ. VB in
lại biên bản buổi thảo luận đầy kịch tính kéo dài nhiều giờ trong BCT về số
phận của Solzhenitsyn, khi Tây Phương sắp xuất bản cuốn “Quần Đảo Gulag”.
SolzhenSitsyn |
Nhưng cuối cùng, Andropov
thắng. Solzhenitsyn bị trục xuất cuối năm qua Tây Đức, và năm 1976 ông định cư
ở Mỹ.
Khác với cố gắng bất thành,
chống việc tây phương lên án vi phạm nhân quyền, tuyên truyền Nga chú trọng đến
luận điệu giải trừ vũ khí hạch nhân để vận động dư luận quốc tế thuận lợi.
Chiến dịch nầy chống kế hạch của Mỹ sẵn sàng sử dụng hỏa tiển đầu đạn nguyên
tử Pershing II, đặt các dàn phóng địa không ở Âu Châu. Mục đích là giúp Nga
không chạy đua vũ khí quá tốn kém. Trung Ương đảng tháng 5, 1976 đã quyết định
xây dựng một nền móng vững chắc để thực hiện kế hoạch tài giảm chạy đua vũ khí.
Tài liệu của VB cho thấy hoạt động nầy kéo dài đến 1980, bộ chỉ huy đặt tại
Phần Lan tài trợ bởi Quỹ Hòa Bình Xô Viết mà mọi người dân phải đóng góp. Chiến dịch nầy hoạt động thường xuyên, chỉ thay đổi chiến thuật
theo tình hình từng lúc. Nga đã vận động thành công, triệu người khắp Âu Châu
biểu tình chống việc thiết lập hệ thống hỏa tiển Perching của NATO.
Trong thời gian ấy khủng hoãng Ba Lan năm1980 trở thành một thử thách cho phong trào hòa bình và cho chính ngay sự sống còn của khối LX. Cuối tháng mười năm ấy BCT bàn luận về diễn biến tại quốc gia nầy nơi bất mãn vì kinh tế đã đưa đến các cuộc đình công, thợ thuyền đã chiếm xưởng đóng tàu Gdansk. Brezhnev than phiền: Phản cách mạng đã diễn ra đầy đủ Ba Lan. Sao lại vậy? Bộ trưởng ngoại giao Gromyko lên tiếng: Chúng ta không thể mất Ba Lan. Trong cuộc thư hùng chống Hitler, Liên Xô đã mất 600 ngàn quân để giải phóng Ba Lan, chúng ta không thể cho phép phản cách mạng xẩy ra. Cuộc khủng hoãng trầm trọng hơn vì liên đoàn lao động Solidarity lớn mạnh và đưa ra nhiều đòi hỏi. Lãnh tụ LX càng lo ngại CS Ba Lan không thể đương đầu với tình trạng bất ổn nầy. Andropov trình bộ chính trị rằng thủ tướng Jaruzelski hoàn toàn bó tay trước áp lực của nghiệp đoàn; Kania uống rượu nhiều hơn. Ít hôm sau ông cùng bộ trưởng quốc phòng Ustinov mật đàm với hai lãnh tụ Ba Lan nầy yêu cầu tuyên bố tình trạng khẩn cấp nhưng không đi đến đâu.
Mặc dầu 44 sư đoàn đã
chuyển đến biên giới, Brezhnev không có ý định đưa quân vào Ba Lan. Sự hăm dọa
nầy như đùa nhưng hiệu nghiệm; Jaruselski tuyên bố quân luật. Nga biết rằng nền kinh tế lụn bại đưa đến bất ổn nhưng
không thể thấy qua hành động của nghiệp đoàn Solidarity rằng XHCN không thể đi đôi với thịnh
vượng kinh tế. BCT tiếp tục mù quán cho đến khi chế độ sụp đổ từ bên trong.
VB đưa ra một điểm quan
trọng là không như Tây Phương nhận định, BCT không chia thành hai phe: bảo thủ cương quyết và tự do, trái lại luôn luôn đoàn kết giải quyết các vấn đề quốc tế
và quốc nội. Ông đã chê cười ý nghĩ rằng Andropov và đệ tử ruột Gorbachev thuộc
phái tự do chủ trương một cuộc cải cách toàn diện hệ thống cai trị LX.
Gorbachev |
Ngày 4 tháng 10 cùng năm
sau khi được báo tin ba ngàn người bị giết tháng 6 vừa qua tại Thiên An Môn,
Gorbachev nói với BCT rằng: Quý vị phải thực tế, người Tàu tiếp tục, không chịu
rời chính quyền, không khác gì chúng ta. Còn ba ngàn há?”. Năm sau ông điều
khiển đàn áp Baku; quân Nga ngày 19.01.1990 theo lệnh của ông tiến vào thành
phố dẹp cuộc đòi hỏi độc lập khỏi Moscou. Hơn hai ngàn người chết và mấy ngàn
bị bắt giữ. VB căn cứ vào nhật ký của thành viên BCT Vadim Medvedev ghi lại
việc sửa soạn tuyên bố khẩn cấp và gởi lính đến Baku. Khi Nga đã vữa nát,
Gorbachev vẫn xem quân sự là giải pháp chính yếu. Ngày 13.01.1991, quân Nga tấn
công người biểu tình Lithuania trước đài truyền hình, 30 thường dân chết. Cố
vấn ngoại giao Anatoly Chernayev ghi trong nhật ký hai ngày trước Gorbachev đã điện
đàm với Georges Bush hứa sẽ không dùng vũ lực. Ông nầy viết tiếp: Báo chí và
truyền thanh trong và ngoài nước thắc mắc Gorbachev có biết và điều khiển vụ
nầy hay đã hoàn mất sự kiểm soát. Tôi không quả quyết gì nhưng tin rằng Gorbachev
muốn tình hình diễn ra như vậy.VB phát giác mọi tài liệu liên quan cuộc đảo
chánh 1991 đã bị tiêu hủy nhưng tác giả nhấn mạnh huyền thoại nhóm bảo thủ và phản
động quyết chống Gorbachev; thông tin bóp méo nầy giống như huyền thoại đối
nghịch giữa nhóm tự do và bảo thủ.
VB lý luận rằng văn khố cho biết không một cơ quan nào kể cả KGB dám hành động tự ý mà không có sự chấp thuận của Gorbachev. Sự chuẩn bị tình trạng quân luật đã bắt đầu mấy tháng dưới sự lãnh đạo của Gorbachev. Mặc dù có nói đã đổi ý, Gorbachev vẫn chủ định trở lại Moscou nắm quyền nếu kế hoạch thành công.
Dưới con mắt nhà điểm
sách, VB chỉ trích quá đáng nữ thủ tướng Anh Margaret Thatcher, Ronald Reagan
và Bush. VB cho rằng tây phương, khi ủng hộ Gorbachev và chính sách cải cách, chịu trách nhiệm việc không thể thực hiện cuộc cách mạng dân chủ thực sự tại Liên Xô.
Người đọc có thể hỏi VB có chắc rằng hàng trăm triệu người sau bức màn sắt sẽ cùng
Tây Phương triệt hạ CS nếu Tây Phương ủng hộ tầng lớp bất đồng chánh kiến thay
vì Gorbachev. Phải chăng các cải cách của Gorbachev tuy chưa toàn bích đã đi
đúng hướng?
Một nhà phê bình khi đọc Judgment in Moscow đã nhận xét rằng VB không biết hay không nhìn nhận rằng perestroika của Gorbachev đã giảm thiểu tương tranh hạch nhân ở tầm mức đầy ý nghĩa.
Nếu VB cần tìm một người để trách móc, người ấy là Yeltsin, người tác giả đã cho qua hầu có thì giờ chỉ trích Gorbachev. Sau khi đã qua mặt Gorbachev, Yeltsin tái lập mật vụ an ninh thay KGB bị giải tán mùa thu 1991, cho phép hình thành nhóm tư bản “du côn”, giàu có trên sự thiệt hạ của người dân Nga.Công ty Random House đã
mua bản quyền Judgment in Moscow năm 1995 nhưng không ấn hành vì VB phản
đối các hiệu đính của bĩnh bút Jason Epstein. Epstein không thích lối hành văn
lê thê và lời phê bình các chính khách Mỹ không yêu nước. Mặc dầu hiệu đính nằm
trong diễn trình xuất bản, VB cho đó là kiểm duyệt chính trị. Phản ứng nầy dễ
hiểu vì VB đã quen với hệ thống pháp luật Nga, bắt buộc phải viết theo nhà cầm
quyền.
Các bĩnh bút không đồng
ý với VB rằng Tây Phương không thắng Chiến Tranh Lạnh, trái với dư luận đương
thời.
Nhưng ngày nay, VB không
còn bị chê bai khi ông nhấn mạnh rằng tội phạm trong chế độ CS không bị
triệt hạ mà còn hoành hành. Kinh tế gia người Nga Andrei Illarionove
2021 nhận xét rằng: hãy xem những kẻ chiến thắng năm 1991 đã giữ những chức vụ
cao cấp, (tổng thống, thủ tướng, chủ tịch thượng hạ viện v…) không có ai không
thuộc đảng CS hay KGB.
Nếu Tây Phương thắng Chiến
Tranh Lạnh thì vì sao Tây Phương đang đối đầu với một Kremlin hiếu
chiến, can thiệp vào bầu cử các nước và lập lại kho vũ khí hạch nhân. Vì sao
Nga đàn áp bắt bớ truy tố những người biểu tình ôn hòa?
VB trước đây đã thúc dục Yeltsin trừng trị tội phạm CS như kiểu tòa Nuremberg, nay hoàn hoàn tuyệt vọng. Nga bây giờ là một màn bi hài kịch, những thủ lãnh hàng thứ hai trong cấp đảng cũ, các tướng lãnh trong KGB đang điều khiển những nhà dân chủ và những vị cứu Nga thoát khỏi CS; cuộc sống của họ vô nghĩa, những hy sinh của họ không ai công nhận.
Không ngạc nhiên khi VB chỉ trích mạnh mẽ Putin. Năm 2008, theo đề nghị của giới dân chủ, ông tranh cử chức vụ tổng thống nhưng bị từ chối, ông không ở đủ 10 năm trước ngày bầu cử.
Từ khi chính quyền Nga
không tái tục chiếu khán thẻ thông hành năm 2014, VB không bao giờ trở về quê
cũ. Có lẽ VB vẫn mang trong tim hy vọng đồng hương sẽ thách thức phản kháng chế
độ Putin như ông đã làm thời son trẻ một kẻ phản kháng trong hòa bình. Nghe tin
VB chết nhà báo Ukraine Matvey Gnapolsky đã chia buồn như sau. “Ông không thể
chờ ngày Putin ra đi. Nhưng nhiều kẻ khác sẽ chứng kiến giúp và nhớ đến Vladimir
Bukovsky”.----
Xin đọc thêm cùng blog nầy: Gorbachev cầm vàng lội sang sông
Xuất xứ: Jugement in Moscow
''
No comments:
Post a Comment