add this

Wednesday, November 26, 2025

Cầu Ngói Thanh Toàn

 

Cầu Ngói xưa chưa bị cạo sửa
Ba khâu rựa nữa mới tới
Cầu Ngói Thanh Toàn

Tôn Thất Tuệ

Năm 1957 hay 58, tôi đi bộ cùng đoàn học sinh dưới sự hướng dẫn của thầy Văn Đình Hy từ Quốc Học xuống Đập Đá, qua khỏi đập rẻ phải. “Cầu Ngói Thanh Toàn trực chỉ hành”. Còn nhớ một bạn đồng hành, sau nầy là bác sĩ Hà Thúc Như Hỷ (quá vãng 2024). Đeo ba lô nặng cho nên cứ hỏi bộ hành địa phương còn bao xa mới đến Cầu Ngói. Tôi được trả lời: gần rồi, chừng ba khâu rựa. Chèng đét! Đi mãi không tới. Ba khâu rựa là ba chục cây số hè!? Rựa thì khi mô cũng có ba hay hai cái khâu tròn để giữ cho lưỡi sắt khỏi sút, mắc chi lại dùng làm đơn vị đo đường. Nhưng rồi chập tối cũng đến nơi và ngủ trên cầu.

Việc đầu tiên hôm sau là tìm hiểu bí ẩn ấy. Dễ quá, theo lời một bà cụ, tay phải cầm cái rựa, đi một hồi mỏi tay đổi qua trái là một khâu rựa, mỗi lần đổi tay là một khâu rựa. Có ai thong dong mà đi hóng mát, khi mô cũng tay xách nách mang. Từ đây đi bộ ra Đập Đá mới có đò qua Đông Ba. Mỗi lần đổi gánh qua vai, đổi rỗ qua tay v.v… là một khâu rựa.

Một đơn vị rộng rãi, cao su, thật dễ thương, uyển chuyển chỉ gây ý niệm không cần cân đo, như trong Nam, chục xoài mười hai, chục mười bốn, chục mười lăm; đơn vị không gian cũng là đơn vị thời gian. Ta yêu em ngàn kiếp hay một kiếp cũng là yêu. Trái lại một chợp mắt một kiếp sầu vô vạn; hay một thoáng em qua dài hơn ngàn triệu kiếp luân hồi sinh tử. Ta sống được bao nhiêu khâu rựa? Rất dài và rất ngắn; vạn pháp duy tâm tạo.

Sinh hoạt lai rai, tập hò tập hát thì xế chiều có lệnh về. Không ai lo mấy khâu rựa. Đoàn học sinh được chở bằng đò dọc không mui, lách qua lách về  (tiếp nối sông Như Ý?) thì đến sông An Cựu, chèo tiếp đến cầu Phủ Cam lên bộ về trường; tới ngay, một phần hai mươi (1/20) của khâu rựa chơ chi.

Tinh thần tự nhiên hài hòa giữa không gian vật thể và không gian nội tâm, giữa thời gian vật thể và thời gian quán niệm… tạo nên một Cầu Ngói Thanh Toàn, êm đềm như cảnh chùa nhỏ ngày xưa là Tra Am, không thách thức thiên nhiên như mũi tên gác chuông. Không kiểu cách cầu kỳ như cầu ngói Hội An. Dĩ nhiên khác với những chiếc cầu có mái trên thế giới với mục đích bảo vệ cầu trước thời tiết bất lợi. Cầu Ngói Thanh Toàn ăn nhập vào khung cảnh thiên nhiên, qua một hói nhỏ như hói Kẻ Vạn, Kim Long.

Từ lần thứ nhất theo đoàn học sinh, tôi không trở lại đây cho đến lần cuối 2001. Lần nầy tôi thấy quang cảnh còn như xưa, chưa xô bồ, chưa thành thị hóa. Nghe các cháu nói, ngày Tết nơi chỗ chợ nhóm gần cầu có bài chòi đúng cách xưa. 11 cái chòi như 11 cái miễu, thần sống áo xanh áo đỏ, lớn nhỏ, chăm chú nghe anh hiệu chít khăn đỏ hò một câu ca dao chuyển vào con bài đầu, ví dụ Hai bên lẳng lặng mà nghe con bài đi chợ: Khi xưa em nói rằng thương, để anh về bán nhà bán cửa, bán ông táo thổ công; nay chừ em nói rằng không, anh nghe như sấm sét giữa đồng ơi em. Ôn ầm. Trúng ba con trùng nhau là tới rồi, trống kèn ọ e, có người bưng mâm tiền chung và một lá cờ, trịnh trọng như nạp lễ cưới.

Cầu mái tranh Áo, Austria
Bài chòi biến dạng từ bài tới. Bộ bài tới hết sức chất phát hồn nhiên, không kiểu cách như tài bàn hay tam cúc. Bộ bài tới, theo cảm quan cá nhân, gồm đủ mọi thứ, vũ trụ cực tiểu, vũ trụ cực đại, đời người và người đời. Có trời là ông ầm; có con người riêng tư như bạch tuyết nọc đượng, cái âm cái dương trên thân thể. Có thầy có trò. Có anh cửu phẩm triều đình, nhưng là cửu bệt. Có con gà. Có lược sưa lược dày. Có gióng gánh. Có những xâu tiền mang ý nghĩa triết lý, đồng tiền có lỗ, dấu đâm thủng vào lương tri. Có thái tử, có kẻ nghèo, có chăn gối, bồng bế. Tôi không thể tự giải thích thêm cho đủ ba mươi lá; nhưng không quên con đỏ mỏ, biết đâu là cô em xảnh xẹ, ưa phấn son, coquette như con két nhiều màu Nam Mỹ.

Đứng ở chân cầu, tôi say sưa với nét hài hòa, tưởng như đang nắm tay linh mục Teilhard de Chardin trên đường tổng hợp khoa học, tôn giáo và thi ca để đến sự nhất thống; cái to nhất nằm trong cái nhỏ nhất; cái nhỏ nhất sống yên lành trong cái to nhất. Hoặc gần hơn là cùng cựu tu sĩ PG Phạm Thiên Thư gõ chén mà ca: hiện hữu đây rồi, tôi không là tôi, người không là người; đâu chẳng là Phật, đâu chẳng là Trời?

@

Vì sao lại viết bâng quơ, không đầu đuôi xuôi ngược gì trơn? Viết thế vì tâm thần tôi chếnh choáng khi thấy một tấm hình Cầu Ngói Thanh Toàn như một kẻ son phấn không ra cách, vua Louis 14 mặc áo Liêu Trai. Ngói men mới âm dương; rồng rắn trên nóc và nhất là một cổng màu vàng, bạn phải chui qua mới lên cầu. Trông giống cái am lên đồng. Mọi thứ, mọi di tích thực sự đã bị cạo sửa, như bia trước trường Quốc Học. Mà bắt chước Hội An cũng không đến nơi. Cầu ngói Hội An cầu kỳ nhưng không bị bắn khỏi khung cảnh chung, trái lại hòa nhịp với bối cảnh và kiến trúc thời Faifo, thời “Phải Phố nầy em”.

Nghệ thuật tạo hình thể (lớn hay nhỏ) đi theo lối công dụng (functional) / lối trang trí (ornamental) / dung hòa hai thứ. Khó tìm ra một lối nào mà tả Cầu Ngói nhưng không quên Cầu Ngói chính là công dụng. Công dụng chính là ý nghĩa cao quý của Cầu Ngói, người xây cầu thêm mái ngói, cho ai lỡ độ đường ngủ qua đêm không bị sương lạnh.

Dùng Cầu Ngói mới mà diễn tả ý nguyện của người xưa và đường lối nghệ thuật dung hợp thì giống như vô Chợ Đông Ba mua con nộm thợ mã phấn son lòe loẹt mà thưa đây là hoa khôi của cố đô.

Cầu Ngói không còn là cầu qua lại giữa người và cảnh, giữa linh thiêng và hiện thực, giữa bộ bài tới và thái cực âm dương, giữa đường đất đo bằng khâu rựa và nỗi lòng đánh dấu bởi buồn vui. Đi cả triệu khâu rựa nữa cũng không đến được Cầu Ngói năm xưa. Chỉ còn một khâu rựa cuối cùng, đi từ tâm hồn đến vùng hoài niệm, có Cầu Ngói uyên nguyên chưa bị đưa vào lò sát sanh thẩm mỹ lọ, thẩm mỹ treo đầu heo bán thịt chó.---

=================================================


=============================

Tuesday, November 25, 2025

Suy cảm ngày tạ ơn Thanksgiving



Roosevelt ký đạo luật An Sinh Xã Hội (Social Security Act) 1935

SUY CẢM về NGÀY TẠ ƠN

Tôn Thất Tuệ 2014


Hơn bảy năm nay (tình từ 2005) tôi đã về vùng quê nhiều cây cối nhưng lá rụng không gây nhọc mệt như lúc còn ở quanh Atlanta. Trong mười hai cô Hằng một năm thì tôi đã để riêng một em lo quét lá, từ mấy cây ốc của riêng mình và mấy cây ốc bên hàng xóm đổ qua. Lá phải bỏ vào bao giấy thùng giấy, hay trong thùng nhựa. Nhà ở góc đường nên phải dọn gần 100 mét (300 feet) bờ lề. Lao động sinh ra sáng kiến, nói vậy nếu muốn ủng hộ duy vật sử quan.

Tôi mới nghĩ ra lấy cái máy cắt cỏ có lưỡi đôi, thiết kế để chém nát cỏ đổ xuống làm phân; lấy cái máy ấy nghiền lá un đống trên đường, hốt bỏ vào gốc cây hay ăn gian để đó mưa gió cuốn đi, đúng như tên tiểu bang "Gone With The Wind".

Cây trong thành phố, từ lòng đất phát ra giữa những vùng mà chủ nhân xem lá là thành phần bất hảo phải lượm ngay. Chính vì vậy chúng không có gì ăn; vì trong rừng lá chồng lên lá, mục rả trở về cỗi nguồn trong sự tuần hoàn của vạn vật. Không có gì ăn nên cây không thọ, vã lại, cây trồng hoặc cùi từ nhánh hoặc bứng không có rễ đột để đi xuống sâu dễ bị gió lật.

Cây trong thị tứ không có sự bảo vệ tự nhiên của môi sinh. Cây cối to nhỏ từ đại thụ cho đến dây leo sống chung và trừ khử bênh tật cho nhau. Ví dụ, cây sồi chống vi khuẩn A ở bên cạnh cây sếu sẽ giúp sếu trừ độc hại vi khuẩn nầy. Dựa vào nguyên tắc cọng sinh ấy, Lương Nông Quốc Tế đã phối hợp với Trung Cọng thí nghiệm thành công trồng nhiều loại lúa khác nhau ở các luống to lớn xen kẻ. Các loại ấy khắc chế địch thủ của nhau như sâu, rầy, nấm v.v....

Trở về chuyện quét lá, thật nhiêu khê, nhất là lúc đã giá lạnh. Tôi không bao giờ phiền trách những ngọn lá khô. Chúng đã làm cho bầu trời xanh mát, chận những tia cực tím, cực đỏ, nhả hơi nước trong bóng mát, làm cho máy lạnh bớt chạy, chúng đã hút smog do con người thải ra. Nay chúng tàn lụi, khô héo rơi xuống đất như mọi sự chấm dứt của cuộc đời khác dù là vua chúa, kẻ nghèo cùng v.v...

Với những công đức vừa nêu, lá khô đáng được giải quyết, nếu không với thái độ biết ơn cao quý thì cũng không nên cho kèm theo những lời mắn mỏ như Shit, God damn... Cha mẹ đã nuôi dưỡng con cái, lúc chết các vị phải được chôn cất tử tế. So sánh hai việc là điều khập khểnh quá to và quá nhỏ, nhưng trên cái nhìn hoàn vũ thì đại pháp bất tăng bất giảm, bất cấu bất tịnh v.v...

Thanksgiving 1984, tôi được yêu cầu cầu nguyện trong một bữa ăn đông người. Tôi xin trời đất làm sao cho mọi người được ăn chỉ bằng một phần nhỏ của bữa cơm nầy. Giữa chừng chủ nhà cho biết từ trước đến nay, bà chỉ nghe cầu nguyện làm sao cho chính mình được tiếp tục có ăn.

Thấy một ông quan đánh một nông dân, vua Louis 10 (hay 12?) ra lệnh mời ông ăn một bữa không có bánh mì. Hôm sau, khi được hỏi có được thù tiếp đầy đủ không, ông nói chỉ tiếc không có bánh mì. Nhà vua giải thích tại vì ông đánh một người làm ruộng. Phùng Khánh, chị của Phùng Thăng, người dịch Siddharta của Hermann Hesse, đã học bài liên hợp tình người từ một người chị. Bé Khánh, mặc chiếc áo lụa vàng, đến thăm người chị đã xuất gia ở chùa Viên Thông, chị chỉ cho biết bao nhiêu bàn tay đã góp sức mà có cái áo, từ người nuôi tằm hái dâu cho đến ông thợ may. Bài học đã đưa ni sự tương lai Trí Hải suy nghĩ học hỏi thâm sâu về sự liên hợp của các pháp trong sự sinh thành vạn sự hữu hình lẫn vô hình.

Lần hồi con người vì tiện nghi đã không thấy những khổ nhọc để cung hiến thực phẩm. Người Mỹ không thấy việc 12 quả trứng có khi chưa được một dollars (cho đến 2010) là một điều quá khó, nó nằm trong cái vĩ đại to lớn của nước nầy bên cạnh phi thuyền con thoi và những khám phá không gian cực đại, khám phá hạ nguyên tử cục tiểu.

Trước sự sung mãn quá mức, người thụ hưởng quên cảm ơn chính sách nhân bản lấy con người làm gốc, làm cứu cánh tuy con người cũng là một phương tiện sản xuất. Một bản tường trình của World Bank tin tưởng tuyệt đối rằng nạn đói chỉ là hậu quả của một nền chính trị phi nhân, chứ không phải thiếu tài nguyên thiên nhiên hay kiến thức. Gần ba chục năm trước, một giáo sư tại đại học UC San Diego đã nghiên cứu lối sống trên những vùng khó khăn như sa mạc Phi Châu cũng đi đến kết luận như vậy.

Bắc Hàn đói kém mà Nam Hàn thì thành một trong năm con rồng của Đông Nam Á. Sau 1975, heo ở Cà Mâu ăn gạo trắng vì ngăn sông cách chợ, dân thành phố thì bị tội buôn lậu và tịch thu nếu đem quá 15 kg khoai mì; các trạm kiểm soát từ Saigon đi Đà Lạt xông một mùi thối vì rau cải bị tịch thu chất đống. Sudan đã phục kích đốt cháy các đoàn xe cứu đói. Phụ nữ Afghanistan dưới thời Taliban không được làm việc; không có tiền họ phải đi lượm bánh mì mốc, quết nhỏ trong cối đá cho con ăn. VN bị nạn đói năm Dậu vì Nhật thu gạo để biến thành nhiên liệu. Thập niên 1920 – 30, Staline đã cải cách ruộng đất ở Ukraine, thu hết sản lượng và đất đai và ra lệnh trồng những thứ cần cho kỹ nghệ Nga. Nạn đói đã hoành hành. Bức ảnh trẻ em lòi xương vẫn còn lưu trữ. Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh, nghe mà muốn chảy nước mắt.

Ở một điểm khác, người Âu Châu nhập cư lục địa Mỹ đã quên ơn người địa phương. Lớp người đầu tiên gần như chết đói và muốn trở về quê cũ; lạnh quá không thể trồng lúa mì. Người Da Đỏ chỉ cho họ phải làm đất và gieo hạt trước khi giá lạnh, lớp đá trên mặt thành một thứ cách nhiệt như người Eskimo ở trong nhà đá. Hạt được giữ ấm và ẩm sẽ nẩy mầm ngay khi băng tang.

Thế nhưng người mà Kha Luân Bố cho là tiền nhân của thánh Gandhi bị đánh đuổi giết chóc. Bò dài sừng cũng bị tiêu diệt, xương bò chất thành núi để chận đường lương thực của người Native Indian. Những ai sống sót thì bị tập trung vào các khu reservation. Họ đã mất hết mọi thứ kể cả truyền thống văn hóa. Họ được những đặc ân (sic) như uống rượu dễ dàng và được mở sòng bạc. Ngày nay người gốc Âu dùng tiền và thế lực vào khai thác hai điều nầy, nhất là mở casino. Các đội banh dùng hình ảnh người Da Đỏ như một thời thượng, chẳng có ý nghĩa tương thân hay ý thức lịch sử. Red Skin football ở Washington DC cũng giống như con ó Falcon của Atlanta; Seminole (bộ lạc) college football của Florida State U có khác gì con cá sấu Gator của Florida U. Cảnh người Da Đỏ, đội mũ có lông ngỗng, cỡi ngựa bên lề sân cỏ cùng các mợ cheerleaders sexy, chỉ tạo nên sự lạc lõng, đem người ta về những phim ảnh (nay đã lỗi thời) xem thổ dân là những thứ phải tiêu diệt, mô tả sức mạnh của súng đối với cung tên.

Văn minh vũ khí đã vào các reservation nầy, cách đây ít hôm (mùa Thanks Giving 2012), tại một khu tập trung North Dakota, có kẻ đem súng giết cả nhà người khác. Một chú bé giả chết nằm dưới xác của người anh đã thoát chết cùng một cô bé còn sống vì ham trượt tuyết sau đồi.

Sự bị ngược đãi nầy sẽ được vơi đi trên mức đại hùng đại lực đại từ bi, nếu sự đó được đem nhỏ lại vừa tầm với câu chuyện sau đây. Một thiền sư đã bị bò cạp cắn nhiều lần mà vẫn vớt chúng khỏi chết trôi. Trước sự chê cười thế gian, ông nói cắn là việc của nó, vớt là việc của tôi.

Trong thế giới hiện tượng, không có gì tuyệt đối, khóc cười bên nhau. Những người nhập cư đầu tiên đã tạo dựng những hạ tầng cơ sở, những con đường nhỏ, những con đê, những rừng thông, họ vẫn ôm ấp những ước mơ như không bị đàn áp về tôn giáo, muốn tổ chức chính quyền các cấp trong tinh thần tự trị để dân có thể tham gia. Họ không tránh được những sai lầm như xài phí tài nguyên thiên nhiên, tự tôn xem người Da Đỏ và Da Đen là những loài hạ đẳng.

Họ đã theo đường lối thực tiển, điều mà Staline mơ ước và khuyên cán bộ CS nên theo; họ không tha thiết triết lý trừu tượng như kiểu Descartes. Họ nói sự ồn ào huyên náo là kẻ thù của tự do tư tưởng, cho nên họ thiết kế các thành phố có chỗ nghỉ ngơi như công viên, những khu bảo trì thiên nhiên, họ nói người lái xe cày có quyền hưởng tiện nghi của xe du lịch nên đã chế tractor có cửa kính và máy nóng lạnh.

HK vẫn tiếp tục có những xáo trộn như vụ hiện nay 2014, tại Ferguson, Missouri với sự kiện một thanh niên da đen bị bắn mà người cùng da màu vơi nạn nhân cho là nhân viên công lực vi luật. Vụ nầy chưa tiến đến chỗ đốt thành phố Los Angeles sau khi tòa xử trắng án nhân viên cảnh sát đã hành hung Rodney King 1992. Nhưng tôi tin rằng những hà lạm ấy chỉ có tính cách ngoài da, có nghĩa là những hà lạm do các cá nhân đầy thiên kiến có từ trong lịch sử. Những sai quấy ấy không nằm trong một chính sách của một chính phủ như thứ chính phủ chủ trương thà giết lầm hơn bỏ sót; làng nào bất cứ làng lớn hay làng nhỏ bắt buộc phải có một địa chủ để đấu tố.

Tuy thành ngữ “freedom from wants” được biết nhiều qua miệng TT Roosevelt, giải tỏa con người khỏi sự bức bách của nhu cầu cuộc sống là suy tư, lo âu chính của mọi người từ chính giới, cho đến kỹ nghệ, kinh doanh. Ngày Tạ Ơn đừng quên Henry Ford, nhà đại cách mạng âm thầm. Đúng 100 năm trước, ngày 5 thg 1, 1914, Henry Ford đơn phương tăng lương công nhân từ $2,38 lên 5$ một ngày công 8 giờ. Tóm lược mục tiêu chính yếu là làm sao cho người thợ hãng Ford sẽ là người mua xe Ford. Lúc ấy một chiếc xe trị giá 3.000 dollar, chưa được một phần trăm dân chúng đủ sức mua. Nhà kinh doanh lập dị nầy đã đem giá thành xuống mức 500 đô và đưa ra thị trường 250 ngàn xế hộp vào năm 1913. Nhưng đồng lương mỗi năm của thợ thuyền chỉ có 354 đô. Một mặt Ford tiếp tục cải thiện hệ thống sản xuất một mặt tăng lương cho thợ thuyền.
Henry Ford (1863-1947)
Dĩ nhiên kết quả trực tiếp là số người mua xe gia tăng; đồng tiền tạo nên những chu kỳ kinh tế mới. Quyết định của Ford dù muốn dù không đã khai sinh trào lưu tiêu thụ (consumerism), ngày một mạnh thêm cho đến ngày nay, kéo theo hệ quả là lối sản xuất quốc tế (global) làm cho nước Tàu từ nghèo rệp đến chỗ thành chủ nợ thế giới, đứng ra tranh bá đồ vương.

Ai cũng biết, 1907, Bôn chê vít cướp chính quyền Nga, một nước nông nghiệp lạc hậu. Biến cố nầy không xẩy ra theo biện chứng của CS, nếu không muốn nói trái ngược. Trong lúc ấy, HK đã phát triển kỹ nghệ, đã có cái mà Marx gọi là vô sản, lớp người không làm chủ phương tiện sản xuất mà chỉ đi làm công ăn lương. Mọi người mê say lý thuyết hay mê say một đế quốc theo kiểu mới vừa chính trị vừa mang tính chất chủ nghĩa. Họ cho rằng HK sẽ đi đúng sách vỡ. CS QT đã hoạt động rất mạnh ở Mỹ, trên báo chí, trong nghiệp đoàn và trong các tổ bạo động, phá hoại. Họ tin tưởng ngòi nổ sẽ xuất phát từ Detroit, kinh đô xe hơi.


1925 Ford

Quyết định của Ford đã làm cho lý thuyết CS lạc quẻ. Công nhân Mỹ không bao giờ làm chủ xí nghiệp mà làm chủ chiếc xe hơi và căn nhà. Trong lúc ấy công nhân Nga làm chủ cả xí nghiệp, thuê phòng tập thể và không có xe hơi, chiều về phải xách lè kè bao lúa mì mua của hợp tác xã.



Ngoài ra Ford còn đóng vai trò bảo bọc (paternalism) công nhân qua các chương trình cải cách đời sống, và cải thiện nơi làm việc. Báo chí đã đi vào các công ty to nhỏ xem thợ thuyền làm việc ra sao vừa để bảo vệ cho họ và bảo vệ phẩm chất của vật dụng và nhất là thực phẩm vệ sinh.

An toàn của đời sống đã đi từ những sáng kiến cá nhân vào luật pháp, để thành những định chế pháp lý. Người đóng góp nhiều nhất phải kể là Tổng thống Franklin D. Roosevelt (FDR) Khởi đầu là câu chuyện Bốn Thứ Tự Do.

Tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng thì có ai lạ chi trên đầu môi từ ngày HK độc lập. Trong bài diễn văn về Tình Hình Liên Bang Dec 8 1941, FDR thêm vào hai thứ tự do khác: tự do đối với nhu cầu, tự do đối với sợ hãi. Người dân phải được chính quyền bảo vệ trước mọi thứ xâm lăng, trước mối sợ hải của chính quyền độc đoán; người dân phải có sự an toàn trong đời sống, không bị câu thúc bức bách bởi sự nghèo đói và ngu dốt. Những điều FDR nêu ra đã thành những đề tài nghiên cứu của các khoa học xã hội.
Freedom from fear, tranh Norman Rockwell



FDR đưa ra nhiều đạo luật có tính cách cấp tiến và bị Tòa Tối Cao cho là vi hiến. Nhưng rốt cục ông cũng đã tạo ra một khuynh hướng chính trị gọi là American Liberalism. Hiện nay đa số các đạo luật do ông ký đều bị hủy bỏ trong thập niên 1975-1985 dưới ảnh hưởng của chính sách bảo thủ, bớt quyền của chính phủ liên bang. Trong số ít ỏi những công trình còn sót lại, có ba điều hiện đang ảnh hưởng hầu như 100% dân chúng nhưng ít ai chú ý đến nguồn gốc.

Thứ nhất là đạo luật điện khí hóa nông thôn, một trong ba điều kiện để HK được xếp vào xã hội hậu kỹ nghệ (mọi thôn ấp đều có điện, nhà thương, trường học). Trong lúc ấy điện là một một giấc mơ của Staline, biểu lộ qua công thức: Xã Hội Chủ Nghĩa = độc tài vô sản + điện khí hóa. Điện đóng góp vào sự sản xuất thực phẩm rẻ nhất thế giới.

Thứ hai là điều các bạn thấy hằng ngày mà không để ý, nó nằm ngay cửa các ngân hàng: F.D.I.C. công ty bảo hiểm tiền bạn gởi. Federal Deposit Insurance Corporation, làm cho người ký thác yên tâm.

Thứ ba là đạo luật an sinh xã hội. Đó là nguồn gốc của hưu bỗng, trợ cấp tàn tật, tiền già, medicare, medical, medicaid, food stamps… (liên bang hay tiểu bang phối hợp).

Nhân Thanks Giving năm nay 2014, tôi lấy lại bài cũ từ 2012 thêm vào vài chi tiêt nhất là việc làm của Henry Ford và Franklin Roosevelt để thấy những phúc lợi ngày nay có được nhờ đóng góp của nhiều người. Hiện nay những người bi quan lo ngại cho sự sụp đổ của Hoa Kỳ với bằng chứng hơn 50% dân chúng nhận sự trợ cấp của chính phủ nhất là trợ cấp y tế vì lợi tức nằm dưới mức nghèo. Nhiều người trước kia xem ai nhận tiền trợ cấp là đáng ghét nay chìa tay nhận food stamp vì vật giá leo thang hay thất nghiệp. Có nhiều dấu hiệu cho thấy giai cấp trung lưu sẽ thành giống sắp bị diệt (endangered species). Trung lưu là giới mà, theo kinh nghiệm của chính trị học, giữ vững sự ổn định và liên tục của một quốc gia, lớp người làm lụng và đóng thuế.

Biều tình New York Oct 5, 2011
Tôi không dám tổng quát hóa nhưng cứ nhìn phố xá ở tiểu bang Georgia thì thấy sự lo âu nói trên không phải là vô căn cứ. Những nơi phồn hoa xưa được cho thuê để bán hàng “loại một đồng” hay để làm nhà thờ đặc biệt cho người Nam Mỹ, mới thành Christian sau khi đã là Roman Catholic. Còn cho thuê là còn tốt, nhưng nhiều nơi bỏ trống.

Nền doanh nghiệp mất tính chất cộng đồng. Công nhân Mỹ không làm chủ xí nghiệp như ở Nga (?!) nhưng họ xem các xí nghiệp là của chính họ, trong tâm tưởng, trong thương yêu. Ngày nay các xí nghiệp đem ra nước ngoài giá nhân công thấp, cái gì cũng “out source”, cái gì cũng “global”. Tâm hồn doanh nhân để ở những nơi chậm tiến, đồng lõa với chính quyền địa phương để bóc lột; có tiền họ lại cất dấu ở những nước khác để tránh thuế.
Dân chúng phẩn nộ sự tham lam của giới tài chánh bằng cách chiếm bên ngoài các ngân hàng nhất là ở New York. Phong trào được mệnh danh là Occupy Wall Street. Họ đòi hỏi đánh thuế người giàu. Thuế vụ HK rất phức tạp, từ đầu dựa vào nguyên tắc rất dân chủ là thuế lũy tiến (progressive tax), tỷ lệ thuế gia tăng cùng lợi tức, với mục đích giảm sự chia cách giàu nghèo, đưa thuế vào ngân sách để tái phân lợi tức qua các công trình hữu ích công cọng. Nhưng trên thực tế, người giàu tìm mọi cách đóng thuế rất ít. Sở thuế chỉ có một công việc là vây khổn giai cấp trung lưu và người nghèo. Một người già chỉ thiếu thuế 2 dollars, nhưng không biết, nó thành chưa được hai chục mà phải bị xiết nhà. Trong lúc ấy các chính khách, các giới nổi tiếng thiếu hằng triệu. Occupy Wall Street lưu ý một tệ trạng từ lâu là "kỹ nghệ vận động" (lobby) chính quyền lập và hành pháp làm giàu các công ty. Một danh từ mới đã ra đời mấy chục năm nay là "corporate welfare" (người nghèo thì ăn oen phe).

Cách đây hai năm TT Obama quyết định cho một công ty khai thác năng lượng mặt trời vay nửa tỷ để công ty nầy khai phá sản chưa đầy hai tháng sau. Công trạng của cựu thượng nghị sĩ Bob Dole là cho công ty ADM hai tỷ nói là để nghiên cứu sản xuất nhiên liệu từ bắp; nhưng ADM dùng tiền để chế thực phẩm từ bắp, nhất là mật bắp (corn syrup) thay đường. Các nhà dinh dưỡng tin rằng đường các loại nầy làm cho dân Mỹ phì lũ bệnh tật; nước ngọt chỉ là nước mật bắp.

Henry Ford đã quyết đi theo quan niệm “vertical”, thẳng đứng, nghĩa là công ty làm ra mọi thứ để ráp thành chiếc xe Ford. Vì vậy Ford nuôi cả những người may nệm ghế v.v…Về sau các hãng như GM, Chrysler cũng theo như vậy; không rõ bây giờ có còn như trước không.

Hiện nay phong trào New Economics đang cố gắng điều chỉnh những sai lạc trầm trọng.“Think tank” nầy gồm nhiều tổ chức trước đây nằm dưới cánh tay mẹ là Schumacher Center. Schumacher, nhờ làm việc ở Miến Điện, đã biết Bát Chánh Đạo; ông dùng một trong tám điều ấy, chánh mệnh, làm căn bản cho luận thuyết Buddhist Economics. Nhưng dù theo triết thuyết nào, cố gắng nầy nằm chung trong chiều hướng cải cách nhân bản mà Geiger đã tóm lược ý kiến phát biểu ở một đàm trường tại tiểu bang Maine:

Ngày nay, chúng tôi có thể nói không chút do dự rằng những sự thay đổi (có tính cách) cách mạng ở xứ nầy xẩy ra không phải vì giai cấp mà bởi vì tuyệt đại đa số người Mỹ, ở mọi tầng lớp xã hội, ngày càng được thỏa mãn nhu cầu làm người và làm dân. Nói khác, cuối cùng chúng tôi đã tự giải thoát khỏi lý thuyết Mát Xít và Âu Châu về giai cấp và về quần chúng cá đối bằng đầu không diện mạo riêng.
Cách mạng là thay đổi nhưng không phải thay đổi nào cũng giống nhau. Cuộc cách mạng Hoa Kỳ rất sâu rộng vì nó thay đổi quan niệm của dân chúng về ý nghĩa thế nào là làm người, làm một nhân thể.*
Xin cầu chúc mọi người an lạc, free from fear, free from want.
Thanks Giving 2014

Thursday, November 20, 2025

Quảng Trị 1972, chạy vô Nam răng không chạy ra bắc?


MỘT GÓC TRÁI TIM CHO QUẢNG TRỊ
Trần Kiêu Bạc 

Trong nhiều năm lăn lóc tận Sài Gòn
Tôi vẽ vào tay bản đồ Quảng Trị
Bao lần trong đêm như là mộng mị
Mơ về quê nhà xa đã nhiều năm.

Quảng Trị ơi! Mới xa chỉ một lần
Mà giọt thời gian lăn không trở lại
Hay xa một lần để rồi xa mãi
Chỉ gặp quê mình qua giấc mơ thôi?

Nóng ở Sài Gòn chỉ là nóng mồ côi
Không như gió Lào từng chùm thổi ngược.
Mưa lũ hàng năm không hề báo trước
Thay nắng đổ đầu khô nẻ thịt da.

Dáng Mẹ còm lưng đứng dựa cột nhà
Khóc gió bão qua chỉ mình ở lại
Quên mình nghèo vướng chân đầy cỏ dại
Trái tim nồng nàn không thể đóng băng.

Hẹn sẽ về như đã hứa trăm năm
Nếm lại cháo vạt giường và lòng thả
Ly rượu Kim Long muôn đời không lạ.
Gặp bạn xưa “nhận không ra ri hè”!

Mơ một ngày hoa xưa gọi bướm về
Bên bờ sông đầy bao dung Thạch Hản
Đêm Cửa Tùng sương treo cành lãng mạn
Cầu treo Dakrong đưa tuổi tác sang mùa
Sông Sài Gòn đèn sáng chợt lưa thưa
Nghiêng nỗi buồn bên bồi sang bên lở
Quê mình ơi! Mẹ hiền ơi! Vẫn nhớ
Đêm một mình một Quảng Trị trong tim!

*Trần Kiêu Bạc là Trần Ngọc Danh, sinh viên Quốc Gia Hành Chánh, khóa 17 đốc sự.



Sunday, November 16, 2025

Sầu riêng

 

 r
HƯƠNG SẦU RIÊNG

Tôn Thất Tuệ

Hôm đứng nhìn ra thung lũng tôi ch vào màu xanh cây lá dưới kia
ri nói vi Hương nơđất thp ấy hn có nhiu cây su riêng.
Dy su riêng chưa có trái, quá lm là có hoa.
Mà có hoa là s có trái. Dĩ nhiên nơy, nơi thung lũng kia
còn nhiu cây khác: xoài, mn, cam,  quít...
sao tôi ch bo Hương cây y: cây su riêng.
Cây su riêng, hoa su riêng và trái su riêng.

Lúc tôi ch vào thung lũng kia, nng pht màu xanh gn sóng
ca vùng đất thp. Nng pht ban mai âm m
trong cái lành lnh ca hơi sương. Hương không nói gì
ch im lng đưa mt v nơi xa kia
nơi cây su riêng đang đâm hoa.
Mt si khói xám còn nguyên hình chưa b gió bt
thư th đi lên không, nh bng trong màu xám,
trong  màu xám chàm ca núi rng, trong màu xanh đậm
đang sáng dn theo bước chân ca ánh sáng.
Ánh sáng ban mai trong sáng như ánh mt ca Hương.
Mt sáng ca Hương chiếu vào cây su riêng
đâu đó trong thung lũng ngàn xanh
và chiếu vào mt hoa su riêng nào đó
thêm ánh nng, thêm m áp cho hoa thành qu,
qu su riêng ca thung lũng ngàn xanh
cái thung lũng trong ánh mt ca Hương.

T lúc đến lúc ny là bao xa? Đo cách nào?
Ly ánh mt ca Hương để đo khong thi gian?
hay ly thi gian để đo ánh mt ca Hương?
Điu cđo và cái thướđo phđo li c sao?
Có ai điên gì mà đo ánh mt và thi gian
trên cõi đời ny. Đo làm gì! Đo làm sao!

Dù có đo hay không đo, thung lũng kia,
cái thung lũng có cây su riêng
cái thung lũng đón nhn ánh mtrm lng ca Hương
t lúc đến lúc ny, đã ny sinh qu su riêng.
Qu su riêng t n hoa su riêng nng pht ban mai
t n hoa mà ánh mt Hương cho thêm chút m áp,
qu su riêng ca thung lũng ngàn xanh
có si khói xám nh bng trong màu chàm.

Âm thm không kh rung mt tiếng nh,
thung lũng kia đã ny sinh
nuôi dưỡng trái su riêng, trái su riêng
gai nhn mà v ngt.
Âm thm không kh rung mt tiếng nh
Hương đã để li trong tôi mt ni su riêng;
Su riêng êm đẹp, dòng đời không phai. --


Friday, November 14, 2025

ba tôn giáo độc thần khác nhau giống nhau

Queen Noor and CNN Larry King


KHÁC BIỆT và TƯƠNG ĐỒNG
giữa Thánh Kinh Do Thái, TCG và Coran
Torah, Bible, Coran: différences et points communs
Je Pense.org Nov 2025 • ttt dịch

Ba thánh điển của ba tôn giáo độc thần cùng một gốc có những điểm tương đồng và dị biệt sâu sắc về hình thức và nội dung.

Thánh Kinh Do Thái (TKDT) - La Bible hébraïque "Tanakh" - gồm 24 tập; trong đó có 5 tập danh tiếng nhất gọi chung là Torah có nghĩa là giáo huấn. 5 tập nầy là Sáng Thế Ký, Xuất Hành, Lê Vi, Dân Số và Đệ Nhị Luật.
TKDT hầu như hoàn toàn giống Cựu Ước của Thiên Chúa Giáo (TCG). Torah mang tên mới Pentateuque với 5 tập sắp xếp khác thứ tự. Bên cạnh Cựu Ước, truyền thống TCG ghép thêm Tân Ước, mô tả đời sống của Jesus và các giáo huấn của Ngài, có ý nói những điều trong Cựu Ước được thực hiện trong các thành quả của Jesus. Đấy là sự khác biệt trọng yếu giữa TCG và Do Thái Giáo (DTG). Người Do Thái không công nhận tính cách thần thánh của Jesus, không xem Jesus là một nhà tiên tri hay đấng cứu thế.
Về phần Coran, thánh điển của Hồi Giáo được soạn thảo vào thế kỷ thứ 7, vay mượn phần lớn cửa DTG và TCG nhưng sửa đổi các sách xưa, phát triển các sự việc đặc thù và tạo ra một nền thần học mới.
Những soạn giả Coran gần gũi cộng đồng trí thức Do Thái và bị ảnh hưởng của TCG syriaque (có ngôn ngữ semantic)

Danh từ Bible có ngữ căn Hy Lạp là "ta biblia", có nghĩa là các cuốn sách. Nhưng ba tôn giáo độc thần và cùng gốc Abraham, đã phát triển ba cuốn sách riêng cho mỗi nhà.
Khác thì vẫn khác, ba tôn giáo nầy công nhận sự liên tục trong ba thánh điển liên hệ. Ví dụ, Coran cho phép người hồi giáo kết hôn với một phụ nữ theo hai cuốn sách kia, tức là tín đồ DTG hay TCG.

Vài điểm chung

Tiên tri giống nhau.
Cá ba thành điển đều có các nhà tiên tri mang tên giống nhau hay gần giống nhau:
• Adam • Noé (Nouh, Coran) • Abraham (Ibrahim), tổ phụ trong Thánh Kinh, nhà tiên tri trong Coran; là người sáng lập ba tôn giáo độc thần nầy) • Ismaël • Isaac (Ishaq), • Jacob (Jakub) • Joseph (Yusuf), • Moïse (Moussa): nhà tiên tri chính yếu của DTG và Hồi giáo, giải phóng dân tộc Chúa chọn • David (Dawud), • Salomon (Sulayman), con vua David, hiền triết của cả ba thánh điển • Job, • Jonah (Yunus), v.v...
Có thêm vài nhà tiên tri khác chỉ thấy trong Tân Ước và Coran như Jean-Baptiste (Yahya), Jésus (Isa). Jésus là một trong những nhà tiên tri quan trọng nhất của Coran.

Sự tích giống nhau
Cả ba thánh điển ghi ký các sự tích, các tình tiết có nội dung như nhau tuy các nhân vật mang tên khác nhau hay thêm bớt vài chi tiết nhỏ. Ví dụ
• Sự tạo lập thế giới và loài người: Vườn địa đàn, cây biết thiện ác (善恶知识树, thiện ác tri thức thụ), Satan cám dỗ, bị đuổi khỏi thiên đàng.
• Hồng thủy và tàu Noé
• Abraham và God: God ra lệnh Abraham giết con (Isaac trong Thánh Kinh, Ismael trong Coran để cúng God) nhưng sau cùng God ra lệnh chỉ giết con cừu.
• Chuyện Joseph bị anh em trong nhà bán làm nô lệ, sau đó Joseph thành thống đốc Ai Cập, cứu dân tộc khỏi nạn đói.
• Moïse và cuộc xuất hành di cư, rẻ nước Hồng Hải mà về cố hương.
• Tý hon David thắng khổng lồ Goliath
• huệ năng của Salomon, hoàng hậu Saba
• Jonah (Yuns) bị cá nuốt vô bụng.
• Riêng Tân Ước và Coran có thêm trường hợp Jesus sinh theo phép lạ. Bà Marie (Myram) được thiên thần Gabriel (Jibbril) báo trước sự ra đời của Jesus.
• Sau cùng ba thánh điển đều có chương về phán quyết cuối cùng và người chết sống lại.

Vài điểm khác nhau

Bên cạnh những tương đồng vừa kể, Torah, Thánh Kinh và Coran có những sự khác biệt sâu rộng, là những điểm nói lên tinh thần, nội dung riêng của mỗi tôn giáo.
Trong lúc DTG đang chờ đợi một vị cứu tinh thì TCG đã tìm thấy vị cứu tinh nầy trong Jesus. Riêng Hồi Giáo thì Hồi Giáo cho rằng Mahomet là vị tiên tri cuối cùng và lớn nhất, chấm dứt công việc gọi là thiên khải.
Tuy hoàn toàn vắng bóng trong TKDT, hình ảnh của Jesus hoàn toàn khác nhau trong Tân Ước và Coran.
Với người muslim, Jesus không phải là con của God, và không bị đóng đinh trên thánh giá. Như vậy, sự khác nhau trội yếu của ba tôn giáo độc thần nầy xoay quanh nhân vật Jesus.
Về hình thức, ba thánh điển nầy cũng khác nhau. Torah và Bible là những chuyện kể, trong lúc Coran nhiều tính chất thi ca hơn, nhiều tính cách ẩn dụ hơn.

Giải thích thêm các sự khác biệt

◙ TKDT, Torah, chú tâm vào sự liên hệ móc nối giữa God và dân tộc Do Thái trên bình diện tập thể (lịch sử Do Thái) và trên bình diện cá nhân (trách nhiệm luân lý, trung thành với God). Vị cứu tinh chưa đến, nhưng sẽ đến đem lại ân thưởng và hòa bình.

◙ TKTCG, Bible, mô tả sự liên hệ móc nối toàn diện: Jesus Christ là vị cứu tinh, thể hiện những lời tiên tri trong Cựu Ước, đem lại sự vinh hiển cho toàn thể loài người. Trọng tâm của thánh điển nầy là ân phước thiên hựu, lòng kính mến đối với God, và sự hy sinh của Jesus để gánh tội cho mọi người. Mặt khác, Jesus vừa là con của God và là God thị hiện có hình thể người. Quan niệm nầy hoàn toàn vắng bóng trong TKDT hay Coran. Sau chót, sự phục sinh của JC và lời hứa sự sống hằng cửu mang ý nghĩa của cái chết và vinh hiển.

◙ Coran tự đóng vai thiên khải sau cùng: Coran là lời của God, khải thị bởi Mahomet, vị tiên tri cuối cùng, xuất hiện để hiệu đính chỉnh sửa và bổ túc các thông điệp hiện có từ trước. Trọng điểm là sự tuân phục God, không qua trung gian. Mahomet chỉ là một nhà tiên tri, không phải là kẻ cứu độ. Coran nhấn mạnh sự kết nhất tuyệt đối với God, đã phủ nhận ba ngôi và tính chất thần thánh của Jesus.

¶ Các sự khác biệt nêu trên không đánh mất lý tưởng rao truyền của ba tôn giáo nầy. Ấy là đi tìm một God khó nhận biết, thực hiện công lý, sống theo lòng vị tha, từ bi và bác ái. Các thánh điển nầy nhấn mạnh trách nhiệm cá nhân, trung thành với God, đức tin và hy vọng.

Người dịch viết thêm:

Do Thái Giáo (Judaism), Thiên Chúa Giáo (Christianity) và Hồi Giáo (Islamism) là ba tôn giáo xuất phát từ ông tổ Abraham, gọi là các Abrahamic religions. Tuy nhiên danh tự nầy ít được nhắc đến trong cả ba tôn giáo nói trên. 2001, sau vụ 9/11 TT Bush không biết thùng thuốc súng muslim to nhỏ chừng nào bèn đến một ngôi đền, bỏ giày ngoài cửa đi vào chứng giám lời tuyên bố của một vị giáo lãnh: không ai lúc đẻ ra đã là kẻ khủng bố; quân khủng bố do học tập rèn luyện mà ra. Terrorists were not born but made. Hoàng hậu Noor của Jordan đến Mỹ nói trên đài CNN chương trình Larry King rằng Thiên Chúa Giáo và Hồi Giáo thờ chung một God. (Queen Noor ở Mỹ gốc Syrie, Roman Catholic, theo Muslim để lấy chồng là vua Jordan).
Điều nầy phản ảnh quan niệm đồng nguyên của ba tôn giáo Abrahamic. Các tổ chức Roman Catholic hay Protestant không lên tiếng đồng ý hay phản đối. Tuy vậy, giáo sư nào nói theo hoàng hậu Noor đã bị sa thải; các trường đại học là tinh anh đầu não của TCG, có nghĩa hai tôn giáo không có chung một God mà thờ.
Cũng vào lúc ấy, nhiều học giả chỉ trích các tôn giáo Christian đã cố tình ém nhẹm tính cách Do Thái (Jewischness) của Jesus, gián tiếp phủ nhận nguồn gốc Abrahamic, tóm lược Thánh Kinh theo chiều hướng riêng như Catéchisme thay cho Thánh Kinh.
Bài dịch nầy có thể làm sáng tỏ vài khúc mắc về sự liên hệ của ba tôn giáo. Người Việt hầu như không đá động đến Thánh Kinh hébraïque, Do Thái hay Coran. Một lần, tôi được lệnh bưng bàn ghế cho hai cuộc sinh hoạt sinh viên cùng ngày ở hai đầu một college cho hai nhóm ủng hộ và chống đối đồng tính luyến ái. Mỗi nơi đều ăn uống lai rai thì tôi cũng đến dự phần và hai nhóm nói rằng lập trường của họ đều đúng theo Bible, có ý tặng tôi một cuốn, tôi không nhận nhưng thấy hai cuốn giống nhau.
Ít hôm sau, trường cho môt ông mục sư mượn chỗ để ghi danh học lớp Bible (Bible Study). Tôi đem chuyện hai tổ chức chống nhau đều dùng Thánh Kinh ra nói làm quà. Ông nói với tôi: Forget it. Tôi hỏi ông forget cái gì thì ông hơi lúng túng nhưng nhanh trí nói, hãy bỏ quên Cựu Ước, vì Cựu Ước chỉ là lịch sử của Do Thái. Ông nói tôn giáo của ông chỉ dựa vào Tân Ước, mô tả rõ ràng lời dạy của Jesus. Nhưng bà vợ, cũng là mục sư, nói với tôi, giọng thấp hơn, Tân Ước là ngọn, Cựu Ước là gốc.
Có lẽ quan điểm của ông chồng mạnh hơn vì trên bàn chỉ có hai chồng Tân Ước, loại cổ điển và loại viết theo ngôn ngữ bình dân dễ hiểu.
Tôi cảm thấy mung lung và bối rối qua mấy vụ vừa nêu.
Tôi sực nhớ lúc nhỏ tình cờ gặp cuốn Thánh Kinh tiếng Pháp của Segund, mười chữ chưa hiểu được hai, đọc như tụng chú Đại Bi. Nhưng tâm hồn bình thản an lạc trong bình yên của Bến Ngự, không bị cấu xé bởi hai nhóm sinh viên và sự lựa chọn Tân cùng Cựu Ước của hai ông bà mục sư.

Thursday, November 13, 2025

Marguerite


marguerite
Marguerite
Tôn Thất Tuệ

Trời Di Linh như Lâm Đồng, Bảo Lộc
tôi có đi qua đây không? hình như có và không
khi tôi ngủ gục trên chiếc Traction chạy về Đà Lạt tìm em tôi đang bị săn đuổi bởi cuộc đời. 
Trời Di Linh mờ ảo trong tâm tư, buồn không tả, xót đau quằng quại, ôi Cao Nguyên không khí nhẹ hơn mây. Ôi Cao Nguyên, đau đớn đến nước nầy.
Tôi có nghe nói những cây khuynh diệp óng ánh mà ai cũng gọi là mimosa. Tôi có thấy những hoa cúc trắng, những cành hoa yếu marguerite ôm chân những hàng rào dựng bằng thân cây khô tự nhiên và quê mùa.
Thương nhớ lắm sáu mươi năm rồi, không phải ít mà thời gian rất nhẹ, bay nhảy từ Lâm Đồng qua Di Linh, về Đà Lạt, về Bảo Lộc mua trà Đỗ Hữu. Mà thời gian rất nặng như khối đồng chìm trong máu nóng tình yêu. 
Trời Di Linh và những trời lân cận ...như biển muối linh thiêng, nước mặn lắm, không có gì chìm được, không giúp người chôn kín những bi thương.
Em tôi đã chết như ngọn đèn gió thổi, dầu còn đầy, sức sống thừa dư; không ai hỏi em còn nhớ Cao Nguyên? Nơi em chết xa chỗ nầy, xa lắm. Câu hỏi sai; cần phải hỏi Cao Nguyên có nhớ em không?
Trời Di Linh, Lâm Đồng, trời Bảo Lộc, trời Đà Lạt
những trời nầy tu phép không lời, nhường việc thưa thốt cho những cành hoa marguerite, những hoa nầy lúc đẻ ra đã là câm. Rứa mà vẫn trương gân trương cổ hỏi thêm cho được:
Trời Di Linh... Đà Lạt và marguerite có còn nhớ em tôi* không? 
*Nam mô Tôn Nữ Phùng Thăng

Tuesday, November 11, 2025


MỜI ĐỌC CHƠI Read at our own risk
Tôn Ngộ Không

Chừng giữa 2012, tôi nhận một bản tin nội bộ đồng hương từ một người ở vùng thủ đô Mỹ. Có dấu triện màu xanh: Disclaimer: read / forward at your own risk. Đáng ngạc nhiên vì biết bao nhiêu thứ chuyển qua internet có ai làm chuyện ni mô. Ông dược sĩ nầy cẩn thận quá mức.
Dễ hiểu nhưng khó dịch ngắn gọn. Giải trừ trách nhiệm của người gởi.

Lúc ấy đã vào thu, mùa đám cưới. Chưa có ai mời nhưng vợ chồng tôi đã cắt trước xén sau mấy tháng trước dành được một trăm; khi mới đủ thì có người mời ăn đám cưới. “Giá” bình dân xìu xìn ển ển, năm chục một người đã bãnh rồi. May quá, “âm dạc” không có gì hay nhưng không làm bể lỗ tai như thông lệ. Một ông khách cùng phu nhân ngồi chung bàn tự giới thiệu là người điều hành một văn phòng luật pháp; ông nói quanh quanh cho biết mình là chủ nhân và chuyên lo bồi thường các thứ, không riêng gì xe cộ.
Chẳng có gì để nói trong lãnh vực giấy trắng mực đen, ra tòa vô tòa, tôi đem câu trên ra hỏi. Trúng nghề, ông ta nói lâu và dùng nhiều danh từ luật, nhiều lúc đi hơi xa, quảng cáo cho thương nghiệp của mình. Nay tôi nói lại một cách đơn giản.

At your own risk là một thành ngữ được thấy khắp nơi, ngay cả như ngoài bãi đậu xe thì có: Park at your own risk. Xe mất, hay bị đụng phá, xin quý khách tự lo đừng vô tiệm tui mà kêu réo. Mua lon sơn cũng thấy trên nhãn lưu ý khách hàng tự lo cái nguy bị sơn túa ra xe; mua vật liệu xây cất cũng vậy, bạn tự niềng nịt, ràng buộc, chủ nhân chỉ cung cấp dây nhợ mà thôi; giữa đường đồ đạt “tự do” gây tai nạn cho kẻ khác thì thuộc “your own risk”.
Cũng vậy, với câu giải trừ trên, nếu khi đọc bạn tức hộc máu hãy uống lon cốc để cứu hỏa; nếu hộc máu thiệt thì dùng Obama Care. Nếu tức đến độ phải chết thì thân nhân dùng bảo hiểm nhân thọ. Người chuyển đã giải trừ mọi thứ trách nhiệm.
Nếu bạn chuyển cho người khác mà họ không thích rồi đến sinh sự thì đó là “at your own risk”. Cái “risk” nầy có khi to lắm như chết người, bị đốt nhà, cả xóm cả làng bị lây.
Ông bạn nầy, theo lời ông khách kia, mời đọc nhưng thủ rất kỷ vì nước Mỹ có nền văn minh kiện tụng. Hằng năm Nhật Bản sản xuất kỹ sư với con số ngang với luật sư Mỹ hàng năm có chứng chỉ hành nghề. Nhà luật nầy nói thêm mời đọc trong các web cũng cần disclaimer loại nầy. Xuất hiện trên web chẳng khác cư ngụ ở vị trí chiến lược, giữa trục giao thông của các thế lực. Hay ít ra như có nhà ở ngã ba; không có thằng bé bên phải ném đá chọc chó không ngủ được, thì có con mẹ bên trái ó đâm, đem xú chiêng xì líp ra phơi chấn ngang mắt, mất tầm nhìn. Nghe mấy chữ xếch xi nầy, bà vợ mắng yêu: nói tầm bậy, ông.
Vị nữ lưu nầy có vài ý kiến, coi bộ từng là giang hồ hiệp khách trên các diễn đàn. Theo bà, tự thân các web đầy cạm bẩy như bất cứ xã hội nào; cạm bẫy là một sự vui thích. Mấy đứa con nít núp sau bụi cây cả giờ chờ bố đi làm về nhảy ra làm ma dọa. Nếu người cha tĩnh bơ đi vô nhà thì chúng buồn lắm, nên ông vờ hoảng sợ té nhào cho chúng thích, không hoài công mai phục. Cũng vậy, để cho vui nhiều kẻ hiểu rộng mà chỉ hụ hợ trước mấy lời lăng nhăng dao to búa lớn.
Nếu ví dụ trên đúng sự thật, bà kia tinh quái không khác gì Mai Siêu Phong luyện cửu âm bạch cốt trảo. Chớ khinh đàn bà là ở chỗ ấy. Nên nhớ bạn tiếp xúc với đàn bà "at your risk" nhé. Phải chuẩn bị như võ sinh võ sư trước tiên phải xuống tấn rồi mới múa may.

============================================

nu cười rất Đà Nẵng trước 1975

=======================================


===