add this

Friday, December 12, 2025

Ra đi từ Vĩnh Long

 

sông lạch miền Nam
ngôn ngoại, trực giác
Tâm Thanh 

Tôi về Việt Nam ăn Tết, khi trở lui Oslo, gặp một chuyện trên máy bay, tới bây giờ vẫn còn lấy làm lạ. Tôi cũng hơi áy náy nữa, nên mong bà ngồi bên tôi chuyến đó, ghế số 27E, tình cờ đọc được bài này sẽ cho tôi biết tin bà có bình an không, mặc dầu khi chia tay, bà ra dấu hiệu ‘Cứ yên tâm’.

Đầu tiên khi lên máy bay tôi đã thấy bà chiếm chỗ của tôi, 27D, mà ngủ li bì. Lạ thật, mới lên máy bay đã ngủ. Tôi không dám đánh thức vì thấy mặt bà co giật một cách khổ não, chỉ sợ đụng phải lỡ bà lăn đùng ra thì mang vạ. Đấy, cái gì tôi cũng cứ nói thật, xin bà bỏ qua. Cuối cùng, vì bị hành khách đi sau thúc quá, tôi đành bước qua người bà mà vào chỗ ngồi tạm. Trước khi máy bay chuyển bánh ra phi đạo để cất cánh, cô tiếp viên tới kiểm soát, thấy bà chưa cài dây an toàn, lại bảo tôi cài cho bà. Một sự lầm tưởng tai hại. Nhưng tôi không đủ lanh trí để cải chính một cách tế nhị, chẳng lẽ tự dưng tôi nói ‘bả không phải vợ tôi’? Vả lại, cài giùm cái dây có cần gì phải là vợ chồng? Tôi nghiêng qua người bà tìm mối dây bên kia, nghe nồng nực mùi dầu cù là. Tôi nín thở cài khóa, tiếng kim loại ăn khớp kêu lách cách xác nhận là tôi đã làm chu đáo một nhiệm vụ nhỏ, nhưng có thể trở thành lớn, nếu nói dại có trục trặc gì xảy ra. Nhưng máy bay cất cánh an toàn. Khi đèn báo hiệu cho phép cởi dây an toàn, tôi cởi cho mình, rồi tần ngần nghĩ đã cài cho bà, thì tôi cũng nên cởi cho bà.
    – Ê! Làm gì kỳ vậy, cha già mắc dịch!

‘Chát!’ Bàn tay tôi bị bắt quả tang đang thò sang lòng bà. Tôi vừa giận vừa xấu hổ, ức quá mà không dám gây sự lại. Thôi thì phải tự an ủi là bà chưa ngoác mồm tuôn ra một tràng xỉ vả nặng hơn nữa, và còn may là hành khách chung quanh coi bộ không ai chú ý tới lời ‘vu cáo’ trắng trợn kia. Tôi đành im lặng chịu trận cho tới khi nghe bà nói trổng:
    – Mắc đái thấy mụ nội. Bao giờ máy bay mới ghé đổ nước, cho hành khách đi đái không biết?
Được dịp ‘đáp lễ’ sự lỗ mãng của bà bằng sự đàng hoàng và kẻ cả của mình, tôi chỉ giùm làm phước:
    – Toilette ở trước mặt kia kìa, bà.
    Bà ngơ ngác nhìn lên rồi ngơ ngác nhìn lại tôi:
    – ‘Toa với lết’. ‘Lết’ đi đâu cha nội? Tui mắc đái són ra quần bây giờ nè. Chạy te không kịp, ở đó mà ‘lết’.
Tôi bỗng nhận ra bên cạnh tôi là một người đàn bà, mặt thuôn dài, lưỡng quyền cao, khá đẹp, nhưng quê như một cục. Tôi hết giận:
    – Bà có biết đọc … xa tới đằng kia nổi không?
    – Chữ ta thì đánh vần được chớ, sao không? Mắc cái chữ Tây ôn dịch gì đâu. Mà biển gì kẻ chữ bằng con kiến!
    – Bà khỏi cần đọc chữ cũng được. Lên đó, thấy có cái cửa nào có vẽ hình ông Tây với bà Đầm, thì bà vào chỗ bà đầm mà … đái.
Bà vừa nhổm dậy đã bị sợi đai trì lại, la to:
    – Ối chu cha! Con mẹ đứa nào nó cột eo ếch tui, tế mồ tế mả nhà nó!
Tôi im thin thít, không dám tự thú nhận ‘tội ác’ của mình, chỉ giúp bà mở khóa dây. Giữa lúc không hề dám mong đợi, tôi lại được bà ban cho một nụ cười tươi rói, và một giọng ỏn ẻn:
    – Té ra hồi nãy chú tính cởi trói cho tui hả? Không biết đứa mắc dịch nào đi tầu đi xe mà còn phá.
Rồi bà lảo đảo đi lên cầu tiêu, lâu lắm mới thấy trở lại:
    – Không thấy nhà cầu đâu hết. Chú giắt tui đi được hôn?
    Tôi tính nói ‘bảo đảm bà không kiếm ra cái cầu cá tra trên máy bay đâu’, nhưng lại im lặng hướng dẫn bà lên cầu tiêu, mở một cửa trống chỉ cho bà vào. Bà ngạc nhiên:
    – Thì hồi nẫy người ta cũng chỉ cho tui cái tủ kín bưng như vầy. Có cầu kiều mẹ gì đâu?
Đã trót thì trét, tôi kéo bà vào hẳn bên trong, chỉ cho bà cách ngồi cầu, xé giấy, cách bấm nút xối cầu, rửa tay bằng xà bông, và thoa nước thơm, đủ lễ bộ. Để chắc ăn, tôi bảo bà làm ơn thực tập thử cái thủ tục quan trọng nhất là nhấn vào cái nút xối cầu. Bà vừa thò tay nhấn nút, tiếng cống hút rồ lên như cọp táp gà con, bà ôm chầm lấy tôi la:
    – Trời đất thiên địa ơi! Con gì nó rống quá trời!
Khi tôi để bà ở lại và đi ra, có một một cậu Việt Nam đứng chờ, nhìn một cách hóm hỉnh nói nhỏ:
    – Ông bà tình ghê!
Câu này, chắc hôm đó bà không nghe đâu, nhỉ? Về chỗ, tôi vẫn ngồi vào cái ghế đã bị đổi, đầu tràn ngập những dấu hỏi về người đàn bà kỳ lạ. Bà đi với ai? Đi đâu? Làm gì? Khi bà trở lại, lò dò mãi không tìm thấy chỗ, tôi phải vẫy tay, kêu:
    – Bà ơi! Đằng này nè!
    Tôi nghe từ hàng ghế sau, phía bên trái có giọng đàn bà, tiếng Việt:
    – Ông già lấy được bà vợ đẹp, chỉ tội quê không để đâu hết.
    Bụng tôi thon thót theo mỗi bước chân của bà, chỉ lo ngại cho những cái đầu người ngồi dẫy bìa bị tay bà quơ phải, lỡ mà bà nhằm cái đầu tóc giả của một ông Tây mà vịn thì tôi phải tuyên bố ‘ly dị’ ngay tại chỗ. Nhưng tôi thở phào khi cuối cùng bà tới được chỗ ngồi bình an, gieo bàn tọa cái rầm, thả ra mùi ‘eau de Cologne’ pha lẫn mùi dầu cù là.
    – Bà đi máy bay lần đầu?
    – Chớ lần mấy?
    – Bà đi đâu ạ?
    – Phần-lan.
    – Bà đi thăm bà con bên đó, chắc?
    – Bà con hồi nào? Theo chồng.
    – Ông nhà sang Phần-lan lâu chưa?
    – Chả người Phần-lan …

Bà kể bà làm nghề chèo ghe đưa khách tại bến đò Vĩnh Long. Chở bạn hàng cũng có, mà sau này chở khách du lịch cũng có. Thường thì bà chậm chân, không tranh được mấy mối khách du lịch béo bở. Một hôm bà để ý có một ông khách Tây cứ ngồi uống cà phê đá mà nhìn bà cả buổi, ‘cái đầu xồm không nhúc nhích’ và ‘cái môi đỏ chót liếm lia’. Cuối cùng ông đứng lên ra bến, đưa tay gạt hết mấy thằng giành mối ra một bên, mà tiến thẳng lại ghe bà, chẳng nói chẳng rằng, bước xuống, và bà chèo ghe cho ông coi cảnh trên sông Cổ Chiên. Bà nói tiếp:
    – Chiều về chả rút bóp ra một xấp tiền đô. Tui hổng dám lấy. Thằng chả xòe ra biểu lấy một ít cũng được. Nhưng chú tính coi – ai lấy kỳ vậy?

Cô tiếp viên đưa khay ăn tới. Tôi giúp bà hạ bàn xuống, chọn nước uống, và chỉ bà cách dùng mấy thứ lỉnh kỉnh như dao nĩa, khăn ăn v.v. Và tôi ngạc nhiên tại sao một người chèo đò nhà quê mà có bàn tay búp mang đẹp như vậy. Bà cầm dao ăn như cầm búa, nhưng ăn vén khéo và rất … bạo - so với các mệnh phụ phu nhân khác. Vẻ tự nhiên của bà và những món ăn hấp dẫn với rượu vang khiến tôi lên tinh thần. Tôi thấy đã đủ thân mật để nói đùa:
    – Bà không lấy tiền, chứng tỏ bà mê ông rồi?
    Bà cười khinh khích:
    – Mê cái mốc xì họ. Bộ ghe chùa sao? Tôi lấy cái tờ có vẽ số 1.
    – Sao bà không lấy tờ vẽ số 10 hay 20?
    – Lấy đủ công mình thôi chớ.
    – Rồi sau đó?
    – Sau đó hả? Mấy bữa sau, bữa nào chả cũng trở lại thuê ghe tui đi chơi lòng vòng… Rồi chả đòi lấy tui.
    – Ý! Chết mẹ người ta chưa!

Dầu biết trước bà đang trên đường đi về nhà chồng, tôi buông ra một câu sững sờ như thế vì hồi kết cuộc tới một cách đột ngột quá. Không ngờ tiếng reo của tôi đã làm giọng của bà ấm hơn , thốt ra mà thấy sướng cổ họng. Nhưng thấy sau đó bà im bặt, tôi lại lo bà giận tôi lỗ mãng.
    – Xin lỗi nhé!
    – Lỗi gì?
    – Dạ, không.
Tôi chờ đợi một câu truyện hấp dẫn, có đầu đuôi hơn. Tôi muốn biết buổi hẹn hò đầu tiên ở đâu? ông tỏ tình thế nào? tại sao bà biết ông thương mình thiệt? cái gì làm cho bà thích ông? ông làm nghề gì? có tổ chức đám cưới không? Nhưng bà không kể nữa, tiếp tục ăn món tráng miệng, khen ngon.
Tôi uống sang ly Cognac thứ ba, nghe ra giọng nhừa nhựa của chính mình:
    – Dô! Dô! Mừng cho mối tình của bà! Đẹp thấy … mẹ!
    Bà nhìn tôi, cau mặt:
    – Ê! Chú hổng nên bắt chước tui ăn nói cái kiểu ẩu tả đó.
Thế ra bà vẫn biết mình ăn nói khác thường. Tôi chữa:
    – Bà nói ngon lành hết xảy, chứ đâu có … ẩu tả.
    – Chú nói thiệt tình hay xí gạt tui?
    – Tui xí gạt bà làm mẹ gì? Bà là người tốt muốn chết.
    – Chú coi bộ cũng được, nên tui khuyên chú đừng bắt chước tui. Tui trót học thói xấu, không sửa được. Không muốn sửa. Thằng khốn nạn đó …

Tôi ngạc nhiên, tại sao mới ‘thằng chả’ thân mật đã lên cấp ‘thằng khốn nạn’?
    – Bà nói ai … khốn nạn?
    – Thằng chồng của má tui.
    – ‘Chồng của má’, tức thị là cha?
    – Cha ghẻ tui đó. Mà tui có kêu chả bằng cha đâu.
    – Sao vậy?
    – Nó nhậu say rồi đánh đập mẹ tui tối ngày. Một hôm nó định giở trò súc vật với tui, mẹ tui bắt gặp, nó đánh mẹ tui bất tỉnh nhơn sự, tui quơ con dao yếm, huơ cho nó ớn mà giang ra, ai dè nó tự lao thây vào lãnh dao, chết ngắt. Đúng là số chả chết. Bị ma men vật. Tui .. tui không cố ý. Ông tòa cũng thông cảm cho tui như vậy. Tui chỉ bị ba năm tù. Lúc má tui đau nặng, người ta lại thả cho về sớm gần năm để nuôi bả.

Bà ngưng kể, khóc. Tôi im lặng để bà khóc tự nhiên, nhưng thấy bà khóc mãi, tôi an ủi:
    – Việc đã qua rồi. Bà đừng buồn nữa.
    Bà mủi lòng, khóc mùi hơn:
    – Tui nhớ má tui với thằng Mẫn quá. Tui bỏ đi thiệt là tệ. Không ai coi chừng má tui với nó hết trơn.
    – Thằng Mẫn là ai?
    –  Nó là em cùng mẹ khác cha với tui. Nó bị tàn tật, què giò.
    – Cha em là ai?
    – Thằng chồng mắc toi của mẹ tui, chứ ai?
Tôi quay nhìn khuôn mặt hiền lành đẫm nước mắt và nghĩ có lẽ chính khuôn mặt này đã làm cho các quan tòa giảm khinh cho bà tội vô ý giết người. Phải tay tôi, đã cho bà trắng án. Rồi như bấm nút, bà nín bặt, chùi nước mắt, nói ráo hoảnh:
    – Bảy năm cãi lộn với thằng cha ghẻ và hai năm tù, hết thảy chín năm, tui quen ăn nói ba trợn. Sửa lại thấy … miệng lạt nhách.

Bà nói xong than:
    – Tui mắc ói quá. Trước khi lên máy bay đã uống ba viên thuốc, mà còn mắc ói.
    – Hèn gì bà vừa lên máy bay đã ngủ li bì.
Tôi vừa kịp banh cái bao ói thì bà ọc ra. Bà lại lấy dầu cù là ra xức. Cái nồng nàn của những chuyến đò đêm, cái ngất ngưởng của những chuyến xe đò trưa nắng, cái bệnh viện lưu động đó, dầu cù là con hổ. Hai mươi năm mới gặp lại, gặp lại vẫn nồng nàn. Tôi bật ghế cho bà nằm nghỉ. Tôi cũng ngả người, nhắm mắt, suy nghĩ miên man về câu chuyện của bà. Thỉnh thoảng tôi hé mắt, thấy bà chăm chú coi phim trên màn ảnh truyền hình. Tôi chỉ cho bà đeo ống nghe. Tay chạm phải bộ tóc thật rậm, khỏe mạnh.

Không biết máy bay đã bay tới đâu và mấy giờ ở dưới mặt đất. Tôi có cảm tưởng thời gian và không gian như đọng lại ở một nơi xa lạ, không liên quan tới trái đất. Nhưng tôi vẫn tưởng tượng dưới đó hàng mấy tỉ người đang lao xao cười, khóc, nói thật và nói dối, thông cảm và ngộ nhận, bằng nhiều thứ ngôn ngữ, chân ngôn xen lẫn ngụy ngôn.
Tôi thức giấc đã nghe nhiều người rục rịch. Bà đã bật ghế thẳng, ngồi đan áo, tôi hỏi:
    – Bà không ngủ?
    – Ngủ mẹ gì được. Vừa chợp mắt đã nghe tiếng gà gáy.
 Tôi ngạc nhiên:
    – Trên máy bay, làm gì có gà kìa?
 Bà không do dự:
    – Chắc nó gáy trong đầu tui. Bị ở nhà quê, nghe gà gáy riết, quen đi, cứ gần hừng sáng là nghe gà gáy trong tai.

Hình như bà giao tiếp với thế giới bên ngoài bằng trực giác. Thuần trực giác. Tôi chắc người đàn ông gặp bà trên bến đò Vĩnh Long cũng có trực giác rất mạnh. Tôi thích nghe tiếp câu truyện về họ.
    – Tại sao ông không về Việt Nam … rước dâu?
    – Chú đừng kiêu ngạo tui… Chả đòi sang đó chớ. Nhưng tui không cho. Tui nói dìa chi tốn tiền. Tui xin món tiền đó cho thằng Mẫn ăn học, chả bằng lòng, gởi tiền dìa rồi.
Khi bà dẹp len và kim đan để chuẩn bị ăn điểm tâm, tôi hỏi:
    – Bà đan áo cho ông?
    – Bển nghe nói lạnh lắm.
Chúng tôi ăn xong, máy bay qua một vùng ‘ổ gà trời’, hổng lên hổng xuống. Đèn báo nhắc cài dây an toàn. Lần này tôi chỉ cho bà cái khóa. Hành khách đi máy bay gặp những báo hiệu cài dây thế nào cũng ít nhiều lo lắng. Rủi ro, ai biết? Loa phóng thanh loan báo có bão, nhưng hành khách có thể yên tâm. Tôi lòn tay dưới gầm ghế, lấy cái phao cấp cứu. Bà hỏi:
    – Cái gì vậy?
    – Cái phao cấp cứu. Tôi chỉ kiểm soát xem nó có đó không, để mình yên tâm.
    – Tui đi sông đi nước hai chục năm trời, chẳng phao phiếc gì, cũng chẳng chết. Hôm đầu thằng chả xuống ghe cũng bày đặt hỏi phao, tui nói không cần, chả cũng chịu. Riết rồi chả nói đi ghe với tui mà không mang phao mới thích.
Bà không lộ một thoáng lo âu nào. Tôi có cảm tưởng người đàn bà này bay trên 10 ngàn bộ cao mà tưởng mình đang bơi xuồng trên sông Cổ Chiên, xuồng lật, chỉ việc nhào xuống nước bơi. Tôi cất phao trở lại chỗ cũ, hỏi:
    – Bà có chắc ông sẽ ra đón không?
    – Tui chắc mà. Tui biết ai là người tin được. Tui biết thằng cha này không bao giờ nói xạo.
lâu đài Suoomenlinna, Helsinky

Tôi cảm phục lòng tin của bà lắm, bà ạ: Bà bước thẳng lên mây đến với chồng. Tôi nghĩ mọi người trên chuyến bay này đều biết trước về cuộc hành trình, và biết điểm tới. Chỉ có bà nhắm mắt mà bước lên mây, không biết điểm tới nằm chỗ nào trên mặt đất. Bà đi tới với chồng, chứ không đi tới một nơi nào cả. Không một giây hồ nghi. Câu hỏi ‘Liệu ông chồng có tới đón không?’ chỉ bám vào đầu tôi, một con người thường thấy quá nhiều sóng lớn trên biển đời, lòng tin thường bị nhận chìm, đến nỗi mỗi bước đi về sau trở thành một dấu hỏi.

Tôi phải chờ bảy tiếng đồng hồ tại Copenhagen để được chuyển máy bay đi Oslo. Lịch trình bay đã ghi như vậy từ đầu. Còn bà, theo lịch trình lẽ ra chỉ phải chờ ba tiếng để chuyển máy bay, nhưng vì trục trặc đình công sao đó, phải thêm hai tiếng trễ nải. Chính hai tiếng trễ nải này khiến cho tôi lo ngại giùm bà. Tôi đề nghị:
    – Bà nên báo cho chồng bà biết máy bay trễ.
    – Chả biết mà … Cái gì chả cũng biết hết đó.
‘Cái gì chả cũng biết’, đã tin chắc như vậy, thì thôi, kệ bà. Tôi hướng dẫn bà đi coi các gian hàng trong sân bay. Bà bị kích thích mạnh vì vẻ tráng lệ và đồ vật bày trong các cửa hiệu. Bà trầm trồ, reo vui. Tôi hỏi bà có định mua cái gì làm quà cho chồng không, vì đồ ở đây miễn thuế, rẻ hơn ở ngoài, bà nói:
    – Tui mang theo nhiều đồ lắm, khỏi cần mua. Chú đừng cười nghe, tôi may ba bộ birama, kho một nồi tôm, và mua năm ký bánh phòng tôm, hai ký kẹo dừa. Nghe nói mấy thứ này ở bên tây không có. Mèn ơi! Tây u gì mà nó thích ăn tôm kho tầu gì đâu …

Đi với bà, tôi có cái vui thích như đi bên cạnh một đứa trẻ tò mò. Trẻ ngoan nữa, vì bà từ chối khi tôi đề nghị mua tặng một cái máy sấy tóc mà bà rất thích.
    – Ai lại để chú mua, kỳ chết. Để chả mua cho tui, nếu tui còn thích.
Theo tôi, bà có một bộ tóc mây quá đẹp. Tôi hy vọng ông chồng sẽ thuyết phục được bà đừng uốn tóc. Tôi thăm dò:
    – Tóc bà để tự nhiên như thế đẹp hơn.
    – Biết đâu thằng chả.
‘Biết đâu thằng chả’, thế là cả nhan sắc bà cũng giao cho ông luôn.
    – Hèn gì.
    – Chú lẩm bẩm cái gì?
    – Dạ, không. À, tôi định nói con gấu bông kia nhỏ bé quá, hèn gì ai cũng muốn bồng.

Tuy nhiên, bà càng tin tưởng, phó thác một cách ngây thơ, đầu óc đầy sạn của tôi càng nghi ngại. Rủi chồng bà không tới, bà sẽ xoay xở ra sao ở nơi xa lạ? Khi đi qua một trạm điện thoại, tôi đề nghị:
    – Bà nên điện thoại cho ông báo tin máy bay trễ, để ông khỏi lo.
Bà ngẫm nghĩ, rồi trả lời:
    – Chú nói có lý. Nhưng làm sao ra nhà dây thép bây giờ?
Tôi lấy cái thẻ nhựa của tôi tra vào máy điện thoại, và quay số bà ghi trong một tờ giấy nhét cẩn thận trong bóp. Chuông điện thoại reo. Bỗng tôi ngại ngùng, có thể người đàn ông nghe tiếng tôi ở đầu dây bên này, biết tôi đứng bên cạnh vợ ông và đâm ghen không. Tôi vội trao máy cho bà trước khi đầu dây bên kia trả lời. Tôi nghe bà la oang oang bằng tiếng Việt :
    – Ê! Ông Ron đó hả! Ê ông có nghe không, Ron, Ron, Ron?!
Bà nói liên hồi, xăng xái. Bà bụm bàn tay trước ống nói mà hét lên, cũng không có tiếng trả lời. Tôi nhớ đã thử lại nhiều lần nhưng không ai trả lời. Tôi an ủi:
    – Có lẽ ông đã đi đón bà, và đang chờ ngoài phi trường.

nữ tiếp viên Finnair, thập niên 1960
Sắp tới giờ bà phải lên máy bay, tôi cần được giải đáp vấn nạn lớn nhất rằng tại sao một con người ăn nói mộc mạc như bà lại có thể làm cho một người đàn ông lạ say mê cưới làm vợ. Và, mặc dầu bà thường kể ‘chả biểu, chả nói’, nhưng nói bằng ngôn ngữ gì? Suốt cuộc hành trình, tôi biết bà không hiểu một chữ tiếng Tây tiếng Mỹ, làm cách nào ông bà hiểu nhau, hiểu một cách thâm sâu như thế? Cụ thể nhất là có thiệt ông hẹn bà sang Phần-lan chuyến này? Và có chắc tất cả mọi chuyện không bắt đầu từ một sự … hiểu lầm nào đó do bất đồng ngôn ngữ? Tôi hắng giặng hỏi:
    – Tôi hỏi không phải, ông bà nói chuyện với nhau bằng tiếng Việt hay tiếng Phần-lan?
    Bà xăng xái:
    – Tiếng Việt mình, thằng chả có hiểu con mẹ gì.  Còn cái tiếng quỉ tiếng ma gì của chả, tui cũng đách hiểu.
Cũng hay. Nhờ không biết tiếng Việt, ông khỏi cần hiểu ‘con mẹ’ với ‘cái đách’ là gì. Có lẽ chỉ cần hiểu gật đầu là ‘có’ và lắc đầu là ‘không’, hai tín hiệu mà nếu thông suốt, minh bạch, con người đỡ được bao nhiêu phiền trược trong cái biên giới u minh nửa không, nửa có, của ngôn ngữ. Tôi nghe nói bộ óc điện toán cũng chỉ biết ‘gật đầu’ và ‘lắc đầu’.
Phương chi, con người, không phải chỉ có bộ óc, mà còn trái tim kỳ diệu. Điều này làm cho tôi, khi tiếng loa mời hành khách đi Helsinki vang lên, cảm thấy bớt áy náy. Cái gì làm cho một người đàn ông từ Helsinki sang tận bến đò Vĩnh Long gặp bà, thì cũng đang hướng dẫn bà từ Vĩnh Long sang Helsinki bình an.
Bà le te ra cổng số 39, tươm tất trong cái áo vét xanh đậm và quần tây thẳng nếp. Tôi đứng ngoài, bịn rịn nhìn theo, bà quay lại vẫy tay. Cái vẫy tay cũng không giống ai, bàn tay đưa ngang vai, lòng úp xuống, ngón tay phẩy phẩy ra phía ngoài, như giục tôi cứ đi đi. Cứ yên tâm.

Xuất xứ: Tập San Quốc Gia Hành Chánh Miền Đông, Dec 2017

Wednesday, December 10, 2025

 


CẢNH CŨ ĐEO THEO NHỮNG ĐOẠN ĐỜI
Tôn Thất Tuệ
• Facebook Nguyên Văn Phúc, Dec 10, 2025 đăng tải tấm hình xưa nầy với ghi chú: 
Bức không ảnh toàn bộ kiến trúc Bệnh viện Trung ương Huế, phủ Thừa Thiên - Huế, nhà lao Thừa Phủ, trường Đại học Y khoa Huế, trường Cán sự Y tế, trường Đồng Khánh, trường tiểu học Phú Vĩnh và một góc trường Quốc Học- Huế vào năm 1967.
Nguồn ảnh: panoramio - photo by Ngày Xửa Ngày Xưa.

•Tôn Ngô Không (con khỉ già) nhà cháu xin giúp vui như con khỉ làm trò.

Cứ nhìn bức ảnh và đọc ghi chú, những ai không quen với Huế sẽ cho rằng khu vực trọng điểm (danh từ nhiếp ảnh) rõ nhất lớn nhất là Bệnh Viện Trung Ương Huế. Kỳ thật BV rất mờ xa, gần góc phải phía trên. Nơi góc nầy, dấu hiệu lờ mờ của khoảng trống bên trên cho phép chúng ta hình dung con đường chéo bên dưới chạy từ Chaffenjon lúc ấy có tên Lê Thánh Tông (bây giờ là đường Hà Nội) đụng Lê Lợi; nơi giao tiếp nầy về sau là múi Cầu Mới.
Tôi không hẳn đã quen thuộc mọi kiến trúc nhưng cũng không phải là kẻ hoàn toàn xa lạ. Fifty fifty 50/50 nhưng đã là nhà báo chuyên nghiệp (sic) thì nói điều mình biết và những những gì chưa biết. Tôi đã xa Huế 1962 năm năm trước thời điểm ghi chú 1967.

Ô đường bên trái chỉ có góc đuôi trong hình đủ cho thấy một sân đá banh (bóng tròn) của trường Quốc Học. Thầy hiệu trưởng Nguyễn Văn Hai đã biến khu đất hoang phế hay hư hại trong suốt thời gian quân đôi Pháp đóng đồn thành một sân vận động thu nhỏ gồm thể thao và thể dục. Lúc ấy, cả hai miền Nam Bắc đều thi đua xây dựng hào khí và lạc quan mới. Tuy vậy chúng tôi thối mồm hát rêu rao: "khỏe vì nước bánh ướt tôm khô" thay "khỏe vì nước kiến thiết quốc gia". Thầy cũng cho xây lại bức tường dọc theo Ngô Quyền giống như các phần tường còn lại vì lý do mỹ thuật; khúc nầy bị nước sông Hương xô sập năm 1953.
Ô kế tiếp là trường Đồng Khánh, chàng cách nàng bởi đường Nguyễn Trường Tộ. Người em sầu mộng đã trở thành một đề tài văn chương, xài nhiều quá, đến chừng hóa thạch thành đá, một ước lệ hết hấp dẫn.
Thứ đến là Tòa Tỉnh Trưởng chiếm một nửa ô để phần sau thành lao Thừa Phủ. Chỗ nầy 1987 không còn gọi là Phủ Thừa hay Phủ Thừa Thiên.  Chỉ có đám dân hành chánh mới chi ly nói thêm đó là tòa tỉnh trưởng Thừa Thiên và cũng là Tòa Thị Chánh Huế. Theo lý thuyết có hai đơn vị hành chánh tỉnh Thừa Thiên và thị xã Huế. Tổ chức mù mờ, tỉnh trưởng luôn kiêm nhiệm thị trưởng, ông có phó thị và phó tỉnh phụ tá. Thời Pháp cũng có tỉnh và thị, có văn phòng gần phủ thủ hiến xưa (đã nói trong lần trước, nay xin xem hình).
Bệnh Viện Huế thì tôi sợ nhất cái nhà xác ở góc đường Ngô Quyền, tôi đã không đi học theo con đường nầy mà xuống Hàng Đoát đi lên từ khi thấy một người treo cổ ở nhà thương lao gần trường Cán Sự Y Tế tương lai..
Lúc tôi rời Huế, phía sau trường ĐK là một khu ruộng, nơi quá sâu thành hồ rau muống. Từ Bến Ngự, phía trái của Ngô Quyền qua khỏi ĐK mới có nhà xây cho đến giáp đường Hàng Muối, cũng là cơ sở của BV; thật sự nhà thương lao của Giáo phận TCG Huế. Nơi mé ruộng sâu là nơi tôi thấy xác người treo tòn ten trên lầu. Khu ruộng sâu bao quanh bởi Ngô Quyền, Nguyễn Trường Tộ và Nguyễn Huệ đã được lấp đầy theo kế hoạch của Cha Luận. Trước khi đi Saigon tôi có tham gia trại hè xúc cát Phú Bài đổ lên xe GMC quân đội chở về đây lấp tiếp. Chúng tôi ăn trưa tầng trên nhà khách phi trường Phú Bài. Ý chính lúc đầu của VĐH là làm trường cán sự y tế, đào tạo nhân viên y tế trung cấp cần thiết theo nhu cầu các nước đang phát triển. Viện vẫn duy trì trường nữ hộ sinh.
Tôi rời Huế nên chưa thấy các kiến trúc làm trường cán sự y tế hay đại học y khoa, cũng như không biết trường Phú Vĩnh. Cập nhật sau khi viết, trường Phú Vĩnh nằm ngay sau QH trong miếng ruộng tam giác sẽ đề cập bên dưới. Tòa nhà lầu hình chữ Y sau nhà thương lao là đại học y khoa.
Khúc đường ngắn khá rộng màu vàng theo hướng Nam Bắc là đường Nguyễn Trường Tộ, xưa nhiều cây long não cho đến cầu Phủ Cam. Ngô Quyền phía sau QH ĐK cặp hông bắc của khu y học, hông nam là đường Nguyễn Huệ; những ngôi nhà màu sáng ở góc phải dưới là trường bá công xưa, rồi đến tiểu khu quân sự Thừa Thiên. (tiểu khu sau đó chuyển về Tòa Khâm cũ). Cánh đồng sau trường cán sự chạy mãi đến Hàng Muối ngó qua trường bà mụ.
Tôi cũng chưa thấy những ngôi nhà trước trường cán sự dọc theo Nguyễn Trường Tộ. Những ngôi nhà nầy mọc lên trên cánh đồng tam giác ngay sau QH. Xưa kia chỗ nầy chỉ có hai ngôi nhà. Ngôi nhà lầu mở cửa ra Phan Bội Châu, từ 1945 tôi đã thấy người Tây ở và nuôi nhiều chó bẹt rê. 
Ngôi nhà thứ hai rất nhỏ mở cửa ra Nguyễn Huệ và ngó qua hông Tòa Tổng Giám Mục Huế; thiết kế quan cách hai bên tả hữu ở giữa là chính phòng. Đó là tòa án. Vì vậy khóm nầy gọi là khu tòa án gồm số nhà quanh quanh, kể cả trên kiệt 1 Phan Bội Châu nay là Nguyễn Thiện Kế, đến chợ Bến Ngự. Tòa án đã chuyển qua Tam Tòa khi chính phủ Pháp trả lại 1954 sau khi đã dùng làm sở tài chánh và sở công an. Tại chỗ nầy, lần đầu tiên tôi thấy tòa xử án và thấy ông luật sư. Tôi thấy luật sư Vũ Đăng Dung cao to, nói giọng bắc đeo kính cận màu đen, rồi sau đó biết ông có văn phòng nhìn qua Ciné Morin, sau nữa biết thêm ông Lê Trọng Quát tập sự với ông Dung. Nhưng vui nhất là tiểu đội cảnh sát bắt súng chào khi chánh án đăng đàn xứ án. Tôi còn nhớ mãi tiểu đội trưởng là anh Lâm, em vợ ông Tôn Thất Tùng, là cậu của BS Kỳ mới qua đời.

Tôi ở ngay chỗ nhìn qua nhà lầu lúc bé tránh xa vì sợ chó bẹt rê nhảy ra vồ. Thừa giấy thì viết lung tung đếm chữ lấy tiền. Đây nói về không khí sôi động thời 1945. Trước tòa án còn có nhà (thằng) Marboeuf sếp chúa Phòng Nhì (Deuxième Bureau), me xừ nầy cũng nuôi chó bẹt rê. Tây mà. Ghét tây thì ghét luôn chó. Mấy vị người lớn cứ kháo với nhau đã làm được việc vĩ đại thế nầy. Lấy trái khế dành là khế lớn nướng thật nóng, đến nhà tây quẳng trái khế nóng vào thì chó tham ăn cắn phải sẽ rụng hết răng và miệng làm độc sẽ chết toi. Lũ trẻ chúng tôi chỉ há mồm khoái chí.
Nay khỉ già lớn tuổi hơn mấy anh hùng vừa nêu, nghĩ lại cũng há mồm như khi mặc quần thủng đít. Đúng chứ, trong các trái cây dễ có thì khế là thứ duy nhất nhiều nước, nước đủ sức giữ nhiệt. Cứ xem là có thể giữ khế nóng mãi như khi còn trong bếp than. Nhưng mom mem tới gần hàng rào thì chúng bắn cho bỏ mẹ hay cho người ra bắt. Dân chúng còn tránh đi ngang nhà công an tây. Mà chó bẹt rê, tây nó cho ăn thịt bò không như người mình rẻo vụn bạng nhạng bò không có mà nấu canh húp nước. Chó biết đánh mùi và đâu có đói như dân mình mà phái tô hô tốp hốp cắn quả khế lùi tro. Âu cũng vì cái tinh thần rân tộc nó khiến cho mình thành anh hùng. 
• Khỉ già múa rối đã xong hết tuồng. Xin bái bai. Ọ è Rô Be (Robert) đánh đu, Tạc Dăng (Tarzan) nhảy dù, Dô Ro (Zoro) bắn súng, làm tao hết hồn thằn lằn cụt đuôi.






Monday, December 8, 2025

Thềm mưaTra Am

Giáng châu, mangoustan, ngọt giống như trái bứa chua

Thềm Mưa Tra Am
Tôn Thất Tuệ

Thiệt tình tôi, vì không kinh nghiệm, không thể diễn tả niềm hạnh phúc song đôi đạp xe với một nường, từ Nghẹo Dàn Xay, An Cựu, lên phía Ngự Bình, rồi đến rừng thông chùa Tra Am. Khu Ngự Bình và chung cả Huế trừ đồi Thiên An sau 1945 không còn cây thông. “Núi Ngự không cây chim ngủ đất; sông Hương vắng khách mấy mợ kêu trời". Nhưng chùa nầy còn được vài mươi gốc thông, để có những đoạn đường lá thông êm, những bóng mát dịu hiền. Hồi ấy chưa có dĩa giấy lon nhôm nên sạch sẽ lắm. Đó cũng là nơi cắm trại lý tưởng cho Hướng Đạo.
1957, tôi tập sự làm thiếu trưởng HĐ và theo trưởng Đoàn Mộng Ngô đưa thiếu đoàn mới lập đến rừng thông nầy cắm trại. Chúng tôi lập trò chơi lớn thông thường là tìm dấu vết cho bốn đội của các em. Trưởng Ngô dẫn tôi đi lập “kho vàng”.
Anh Ngô bảo tôi tên chùa là Tra Am không như ai cũng bảo Trà Am, dấu huyền như uống trà, thanh trà. Tên nầy từ bốn chữ: Tra bất như lê. Vị tổ lập chùa, trong bài cổ thi, đã ví mình là “tra” và Phật là “lê”. Trái tra cùng dòng họ với lê nhưng không ngon như lê. Ngài muốn nói tu đến chỗ gần chân Phật đã khó lắm, biết có làm được không, nên không tham vọng thành Phật.
Khối vàng quý đem chôn là một bông hải đường dấu dưới chân một cây cầu. Nói là cầu nhưng chỉ là một tấm đá bề ngang nửa thước tây, dài chừng hai thước, bắc qua một lạch nước, có thể nhảy qua dễ dàng. Một tấm đá sần sù khác không nhẵng như các bia thông thường nhưng đủ hình dáng cần thiết thành một cái bia. Bia nầy không diêm dúa như những khối đá cắt ngang, thư họa màu mè không ai đọc ra thường thấy như một phong trào hiện đại. Ba chữ Hán chúng tôi nhờ vị sư trẻ đọc là: Lược Ước Kiều từ một câu dài hơn: độ nhơn độ mã bất khả độ xa, vị chi lược ước; (cho người qua, cho ngựa qua, nhưng không cho xe qua; cho nên gọi là cầu giảm bớt).
Như vậy, nói cho thuần lý, “chùa Tra Am” dư chữ chùa; vì am là chùa nhỏ, như am thánh, am thần. Xưa kia, không phải có tiền đều được mặc áo lụa, áo màu; xây nhà to; phải có địa vị chức phẩm. Kinh Lễ của Tàu cho phép dân thờ năm đời ngũ đại, vua mới thờ bảy đời. Chùa của dân cũng vậy chỉ được làm như cái am; các chùa của triều đình mới được xây cao như Báo Quốc, Quốc Ân, Thiên Mụ, Diệu Đế.
Tra Am bây giờ không nhỏ nhoi êm ả ấm cúng như xưa. Đá rửa trước sau, lưỡng long chầu nguyệt trên nóc, tượng nầy tượng kia, khẩu hiệu thư họa đuôi rồng đầu công, ghế đá có tên người cúng dàng. Tôi có đến gần, lạch nước nhỏ nước mưa đã khoét rộng, không thể biết chỗ nào xưa kia là Lược Ước Kiều. Không bước vô. Xin bái bai.
Huế có trái tra ăn được không ngon, giống như trái sung tây (figue) nhưng không cùng họ với lê. Lại có vỏ tra khô để ăn ghém trầu; trầu nhai với nhiều thứ vỏ khác và hột mây hay thuốc rê. Nhưng không biết cây có vỏ nầy hình thù ra sao. Để hiểu sự so sánh tra lê, chúng ta có thể xem tra như trái bứa chua, gần giống với trái giáng châu (măng cụt) rất ngọt.
Bình luận bậy bạ (comment) dưới vài bài về Phật học, tôi nêu câu “tra bất như lê” không đúng ý Phật vì Ngài muốn chúng sinh bằng Ngài và hơn Ngài càng tốt.’
Nay tìm hiểu thêm, sự tích Tra Am có khác. Đầu tiên là một chòi tranh do hòa thượng Viên Thành dựng năm 1923 bên cạnh mộ của ân sư Viên Giác để tỏ lòng nhớ ơn và làm nơi tu niệm. Tăng sĩ nầy dòng họ vua có thể làm chùa lớn nhưng ông chỉ xây cái am; vì vậy chùa nầy có cái tên chẳng giống ai. Tra Am do một điển tích bên Tàu.
Trương Phu thuở nhỏ tên là Tra, cha Trương Thiệu tên Lê. Tống Văn Đế thường đùa: “Tra sao bằng Lê được!” Trương Phu cười mà tâu rằng: “Lê là cây trăm quả, Tra đâu dám sánh bằng!” Sau khi bố qua đời, Tra đã dựng nhà ở bên mồ suốt hai năm ba tháng để tỏ lòng hiếu nghĩa.
Cho đến khi chết Thích Viên Thành vẫn giữ lòng tri ân, qua di ngôn cuối cùng: “Tự hậu Tra bất như Lê dã”.
Phần tôi, tôi luôn nhớ Lược Ước Kiều và lạch nước nhỏ; hai thứ ấy đã góp phần xưa kia biến Tra Am làm một nơi vừa trang nghiêm vừa trữ tình, mộng mơ. Tra Am thời ấy đã hòa một điệu sống, một đối ảnh với những quán bánh bèo dưới những mái tranh, những buổi chiều thơ mộng, nơi vùng sơn cước thưa dân.
Hình ảnh cây cầu nầy tôi đã dùng làm một ý nhỏ (có cây cầu lạch nước gang tay gỗ đã mục vì hằn lên mưa nắng) trong bài vè đính kèm, với giọng nói của một người tạm dung, sống chen nơi thềm hoang rêu phủ, nhìn ra sân mưa. Bài nầy có người chế nhạo hoa nylon plastic mới không sinh diệt. Có người cho là Phật Giáo - ?! Nylon cũng được nhưng Phật thì cho em xin. Riêng tôi, với tư cách độc giả, tôi chỉ thích những hình ảnh âm nhạc.

THỀM MƯA
Tôn Thất Tuệ • 1983

Em của những giờ mưa tầm tã
của thềm hoang rêu phủ ấm hơi người
của lạnh buốt nơi ngày mai vô định,
em ngồi nghe những giờ mưa tầm tã.
Ngước lên không bầu trời trĩu nặng
nhìn ra sân vũng bùn gợn sóng
soi vào lòng lắng đọng xôn xao
những đau đớn trào ra khóe mắt,
mắt khô cằn cho mưa đổ trên cây.

Đường tạm dung một đêm khuya giá lạnh

như biển khơi cấu xé con tàu
những bóng đèn ai thắp hải đăng xa
em kinh hãi tưởng còn trên nước.
Sao giờ đó anh không yên giấc ngủ
tiếng chân đi hay sương khuya kêu anh dậy
để em thấy một khung trời khác lạ.

Em của những giờ mưa tầm tã

nét xa xăm anh bâng quơ hát nhạc
"đường em đi hằn lên mưa nắng
em thoát thai hóa kiếp em trở về".
Ôi vô lý,
cho chi nhau những chờ mong không có
nhạc thính phòng chỉ đau đớn Chopin.
Ở quanh em chỉ có những đìu hiu
một tiếng kèn xa xăm vọng lại
trên đĩnh đầu đổ tiếng hạc cầm.
Mãi thật xa, ôi những thật gần
chết đi thôi ôi những tiếng mưa rơi.
Một cuộc sống trong tầm tay sẵn có
vữa như bùn xin tan kiếp hiện hình.
Nhắm mắt lại loa vang đĩnh núi
hơi nhạc vắn hơi nhạc dài liên nhịp
em hồi sinh một kiếp gọi em về.

Đường em đi hằn lên mưa nắng

em thoát thai hóa kiếp không trở về
xin nhớ rõ là không anh nhé
nhưng hiện diện như lũ chim bé mọn
quên lỗi lầm trùng khởi khởi sinh
không ra đi không quầy trở lại
không đày ải ai, không bị ai đày đọa.
Em thương anh một nhà tu khổ hạnh
có cây cầu lạch nước gang tay
gỗ đã mục vì hằn lên mưa nắng
đường anh đi mấy độ quanh co.
Em thương anh một nhành hoa bách diệp
ngủ trong ngày để lộ triệu ngón tay
đường hoa đi không tình nồng vương vấn
cùng thoát thai để nhụy trên mây.

Em của những giờ mưa tầm tã

tiếng dương cầm từ mái ngói đổ rơi
những âm vang nóng lạnh bùi ngùi
em dâng hiến nụ cười tuổi mọng
để không còn bịn rịn những nguyên do
không vun xới những mầm tươi nửa độ
cho hoa nở ngoài vòng sinh diệt.
Mưa vẫn rơi, mưa rơi tầm tã
không buồn đâu, em đắp đổi nụ cười
cho hoa nở ngoài vòng sinh diệt.-

Sunday, December 7, 2025

 


RÚT CHỐT LỰU ĐẠN CHỐNG THAM NHŨNG

Tôn Thất Tuệ


Facebook Bảo Tồn Tiếng Việt, Dec 7, 2025, đăng hồi ký rất ngắn của ông Đỗ Văn Hiền thuộc Nha Kỹ Thuật (tình báo và đặc vụ, Tổng Tham Mưu QLVNCH).

Lúc xế trưa, gần tới giờ làm việc buổi chiều, trên đường từ ngã ba Đà Nẵng về Tổng Y Viện Duy Tân, trong lúc đi bộ, tôi gặp chiếc xe Jeep Quân Y giơ tay vẩy; xe ngừng, tôi nhìn qua, người ngồi trên xe là Y Sĩ Thiếu Tá Phạm Văn Lương, tui chào và xin quá giang về Tổng Y Viện Duy Tân, ông gật đầu, tui leo lên xe ngồi phía sau. Tui nghe danh ông khi còn làm việc ở Sài Gòn, về vụ ông cầm lựu đạn tới Quốc Hội để tố cáo tham nhũng.


Thanh Văn đã comment:
Thiếu tá Lương cải tạo cùng trại với tôi ở trại 1 Kỳ Sơn, Mõ Vàng Bồng Miêu, Quảng Nam. Ông làm tại trạm xá, không hiểu lý do gì mà ông đã uống thuốc sốt rét tự tử.

• Phần tôi, tôi có comment khá dài v/v y sĩ đại úy Phạm Văn Lương rút chốt lựu đạn như sau.

◙ Chuyện BS Lương cầm lựu đạn thì không ai biết bằng tôi. Tôi quen BS Lương vì ông là cháu của cựu thiếu tướng Đỗ Mậu; khi ông nầy về hưu tôi thường đến hầu chuyện. Một hôm chừng năm 1971, Lương đến nhà nhờ tôi đi mượn một bộ tam sự gồm lư trầm và hai cây đèn đem đến trụ sở của Việt Võ Đạo trong sân vận động Hoa Lư, đường Đinh Tiên Hoàng, Dakao, để VVĐ làm lễ khai giảng khóa huấn luyện. 
Trong dịp nầy, một thượng khách là BS Trần Ngọc Ninh, vừa từ trần 2025 103 tuổi, có bài huấn thị. Ông nói võ đạo không phải là võ thuật; võ thuật chỉ là các cú đánh đấm, các miếng võ, các thế võ; trong lúc ấy võ đạo là một lối sống hướng về tâm linh như nhu đạo, kiếm đạo, dùng võ thuật làm phương tiện huấn luyện. Khi phần vụ của VVĐ xong, ông Ninh đã ra về, BS Lương lên sân khấu, tố giác tham nhũng. Đang nói thì ông cúi xuống lấy một cái cặp bằng giấy cứng, móc ra một khẩu súng colt 45, rồi bỏ trở lại và lấy ra một quả lựu đạn. Ông rút chốt, bỏ chốt vào cặp, rồi kẹp cặp vào nách; tay kia vẫn cầm quả lựu đạn. Ông nói từ nay ông tuyệt thực, đòi gặp TT Thiệu, nếu không ông sẽ tiếp tục cầm quả lựu đạn cho đến khi kiệt sức thì thả tay cho nó nổ mà chết. Ông kéo theo một số thanh niên đi ra tòa nhà Quốc Hội, lúc ấy chừng 11 giờ tối. 
Họ đi hết thì tôi lấy bộ tam sự về, nhưng đi thẳng đến nhà ông Mậu, đường Gia Long gần đó đấm cửa cho biết sự việc như thế. 
Sáng hôm sau tôi bỏ sở ở Cục Quân Nhu ra tòa nhà QH, báo chí có đăng hình tôi nên Cục Quân Nhu phải báo cáo tổng tham mưu tôi vắng mặt để tránh trách nhiệm, những lần trước tôi vắng mặt thì bị la rầy rồi thôi. Ông Kỳ có đến và bảo BS Lương cùng đi ăn tiệm; BS Lương không chịu. Không biết bên trong vận động ra sao. Chừng 2 giờ chiều, một số quân nhân mặc áo quần phi công đến cho biết TT Thiệu đồng ý gặp và họ chở BS Lương vô dinh Độc Lập. Ông yêu cầu để tôi cùng theo, vì tôi là thành phần duy nhất trong ban chấp hành cũ của tổng hội sinh viên ở bên cạnh. Không biết BS Lương đã gài chốt lựu đạn trở lại lúc nào. Vì hôm sau tôi đến không thấy ông cầm gì trong tay. 
Hai xe không quân nầy không đi cửa chính mà theo đường Nguyễn Du đến cửa hậu ngó qua Vườn Tao Đàn. • An Ninh Phủ TT không lục soát người BS Lương và tôi nhưng yêu cầu BS Lương bỏ lại khẩu súng và trái lựu đạn, gặp TT xong ra về họ sẽ trả lại. BS Lương không chịu và nói không thể tin được. Tôi biết chuyện sẽ không đi đến đâu nhưng lo ngại cho sức khỏe của ông bạn, tôi bèn nói với BS Lương nếu Phủ TT không trả vũ khí thì chính tôi sẽ tuyệt thực tranh đấu với ông ta. BS Lương đồng ý. Các ông phi công nầy chở chúng tôi về phía trái của dinh, mé đường Hồng Thập Tự để lên lầu vô văn phòng của Phó TT Kỳ để ngồi chờ. Khoảng nửa giờ sau một phi công đưa chúng tôi đến hành lang chính để vào gặp TT. Nhưng nhân viên an ninh chỉ cho BS Lương đi tiếp, tôi và ông phi công kia trở về chỗ cũ chờ. Tôi thấy làm lạ, phủ phó TT như một trại lính, mọi nhân viên đều mặc quân phục không quân có phù hiệu cấp bậc, nai nịt như sắp hành quân. Trong lúc ấy, bên phía ông Thiệu, nhân viên đều mặc áo ba túi, không khác ông Hoàng Đức Nhã tổng ủy trưởng Dân Vận.
Chừng một giờ sau BS Lương trở lui; chúng tôi được chở ra cổng; mấy ông phi công từ giả. BS Lương nhận lại cặp giấy, mở ra xem còn có trái lựu đạn và khẩu colt. BS Lương kêu taxi riêng đi về, tôi cũng kêu taxi ra Nguyễn Huệ chỗ gởi xe Honda lúc sáng. BS Lương không bao giờ nói chi về cuộc gặp ông Thiệu. Trong những lần thăm viếng về sau, ông Mậu không bao giờ đề cập chuyện nầy, ông thường khen người cháu nầy rất giỏi.
Mãi đến gần đây thời internet mới có vài bài nói về BS Hà Thúc Nhơn tao loạn ở Nha Trang chống tham những, tác giả nói vụ ông Nhơn chỉ là do phe ông Kỳ làm khó; đồng thời nói vụ BS Lương cũng do ông Kỳ; họ nói từ đầu chí cuối nhân viên của ông Kỳ sắp xếp. ◙

Nói thêm, tôi không có ý kiến về nhận xét trên, chỉ biết ông Kỳ có đến thăm BS Lương và việc làm của các phi công như trên. Việc khác không liên quan, ông Kỳ đã cho Huỳnh Tấn Mẫm một số mìn tập (simulator) đế tấn công cảnh sát khi HTM biểu tình chống ông Thiệu.
Tôi chưa bao giờ viết về vụ nầy trên các diễn đàn; chỉ viết sơ sài trong email gởi vài người quen khi được hỏi. Nay có người nêu ra tôi mới giải thích. Phần lớn vì tốt đẹp phơi ra xấu xa che vào. Dẫu gì cũng VNCH mình. Nhưng già rồi thì có khi nghĩ chéo, tôi muốn nói riêng cái việc rút chốt lựu đạn.
Lựu đạn có tầm sát hại ít nhất trong vòng bán kinh 20 mét, sơ ý rớt  ra khỏi tay thì bao người chung quanh ông sẽ chết và bị thương, mặt khác ông cần nhiều người đi theo. Số nguời đi theo ông cũng như số người trong hội trường, nếu là người bên Mỹ hiện nay, sẽ chạy tránh xa. Một tay ôm cái cặp có khẩu súng bên trong, một tay cầm lựu đạn, người chen nhau thì nguy hiểm quá. Tôi nay 85 tuổi có khuynh hướng hoài nghi mọi thứ kể cả chính mình. Tôi nghi BS chơi một cú sân khấu, nói theo tiếng Anh là a theatrical venture. Ra đường tối ông sẽ gài chốt lựu đạn lại rất sớm. Có điều rõ là BS Lương đã không còn cầm lựu đạn mở chốt. Muc tiêu của ông là gặp ông Thiệu nếu không thì lựu đạn sẽ nổ và ông chết. Nhưng lựu đạn đã được gài lại, ít nhất 10 giờ đồng hồ trước khi có tin ông TT chấp thuận cho gặp. Gài chốt lựu đạn trở lại là việc đáng khen, tránh tử vong cho nhiều người khác.
Như tôi đã trình bày trên, BS Lương bỏ cái chốt vào cặp và mang theo. Hoặc giả, ai cấm ông đã chuẩn bị một chốt khác bỏ trong túi quần hay trong cặp.
Tôi chỉ bàn luận Tam Quốc cho vui nhưng vẫn giữ đủ cảm tình dành cho người bạn nầy. Nghe nói ông đã nẹt mấy chú lính VC vào lấy quân y viện xưng hô hổn láo: tao là một sĩ quan cao cấp, tụi bây ăn nói mất dạy quá. BS Lương là một phẩu thuật gia tài giỏi đã, đã mổ lấy ra khỏi người trái đạn M79 sắp nổ.
Sau vụ rút chốt nầy, nhiều người đã muốn ông làm bung xung để thành lập nhóm Tinh Thần Hà Thúc Nhơn, áp lực Bộ Thông Tin cho một giấy phép xuất bản nhật báo. Ông Lương và những người vận động đã bị ra rìa.

=====================================================

nụ cười Đà Nẵng thời xưa

==========================



Thursday, December 4, 2025

Người hãy hát lúc thịnh thời sắc nước


một ngôi nhà người giữ cừu trên núi Alpes

Hãy hát lúc thịnh thời sắc nước
Tôn Thất Tuệ

Dạ thưa,
Bỗng nhiên một sáng những ngày đầu tháng chạp tây, tôi nhớ đến ông tây bấy lâu đã nghĩ chéo vài câu thơ của người. Chéo có nghĩa vẫn mang một chút đúng. Nay muốn tự đính chính để tự học. Số là thầy Ngô Đốc Khánh có dạy một bài chừng mươi lăm câu thơ của Alfred de Vigny, tôi chỉ nhớ hai câu
Du haut de nos pensers vois les cités serviles
Comme les rocs fatals de l'esclavage humain. 
Từ đĩnh cao tư tưởng của chúng ta, em hãy nhìn những đô thị nô tì
như những tảng đá neo thuyền giam giữ loài người làm dịch lệ. 

Dịch vậy không thoát vì hai chữ servile và esclavage cùng nghĩa nô lệ. Tác giả dùng điển tích Hy Lạp thần linh bắt người làm nô lệ và giam trong những chiếc thuyền lớn neo vào ngọn núi như những cột neo (cabestan /captan) trên bến tàu.
Tôi đã dùng làm câu mưỡu cho bài thơ Hát Mãi Không Thôi, rồi hạ xuống. Việc tầm thường nhưng như một diễn biến suy tư.

Trước tiên tôi thấy đúng, nhờ sự hiểu biết, nhờ triết học mà thấy bao người đô thị chen nhau trong dục lạc, làm nô lệ cho nhau và nô lệ chính mình. Thế thì thôi, ta theo người xưa, canh độc, làm ruộng lai rai và đọc sách. Nhưng mà không, mọi việc to nhỏ đều chằn chịt kết vào nhau. Ai viết sách, in sách cho mà đọc? Con muỗi ở trong xe chạy 90 miles một giờ , nó cũng chạy cùng tốc độ 90 tuy bay lơ lửng.
Tôi hạ xuống, tôi không muốn dùng lý thuyết dấng thân đấu tranh, đấu tố, biện chứng, cái nầy hủy cái kia. Thế giới hài hòa đâu có vậy, sự sự vô ngại viên thông. Tôi bị ảnh hưởng bởi quan niệm thiện thệ của nhà Phật, và hai chữ Thiện Thệ là một trong mười danh hiệu của Phật. Thiện thệ là thấp, không cao nhưng xuyên thấu mọi việc mọi nơi.
Nếu quan niệm từ trên cao là hình tam giác thì thiện thệ vòng tròn mô tả trong hình nầy: (ego: ngã chấp; eco: môi sinh)

argument antispécisme

Ta trở lại xóm xưa quê cũ
gốc bàng tươi trái chín ướp đất vàng
trong vũng đục cùng trâu đầm hụp lặn
đàn đĩa đói ôm chân hút máu
như cô hồn đòi nợ buổi hăm ba.
Ta thương mến tấm thân tục lụy
và những gì tục lụy ở quanh ta.
Ta thương mến tấm thân mẹ dựng
gieo vào hồn hạt mộng thăng hoa
ta vẫn hát cho bình minh tư tưởng
cho hơi nồng vị mặn của xót xa.

Thưa bà con, nghe tàm tạm; chẳng hay sao lại đỗ ngay tú tài?! (Tú Xương).
Thế rồi chả có gì của Alfred de Vigny. Ôn ni nói chuyện khác, nếu có thì do diễn dịch phóng túng, nói cho sướng mồm.
Hai câu tiếng Pháp nằm trong đoạn nầy:

Pars courageusement, laisse toutes les villes;
Ne ternis plus tes pieds aux poudres du chemin
Du haut de nos pensers vois les cités serviles
Comme les rocs fatals de l'esclavage humain.
Les grands bois et les champs sont de vastes asiles,
Libres comme la mer autour des sombres îles.
Marche à travers les champs une fleur à la main.

Em hãy can đảm cất bước, bỏ xa phố phường
đừng để bụi đường lấm chân em.
Từ đĩnh cao tư tưởng, em hãy nhìn những đô thị nô tì
như những tảng đá neo thuyền giam giữ loài người làm dịch lệ.
Những khu rừng rộng lớn, những cánh đồng cho em những nơi trú ẩn thênh thang
chúng hồn nhiên tự tại tự do như biển bao quanh những hải đảo rậm um.
Em hãy bước qua những cánh đồng nầy, tay cầm một nhành hoa.

Đoạn nầy nằm trong một bài thơ dài 336 câu: Ngôi nhà của chàng chăn cừu La Maison du Berger. Đó là bài thơ duy nhất về tình yêu tặng Eva, với nội bối cảnh thân phận con người, lòng yêu mến thiên nhiên, một yếu tố đặc thù của phong trào lãng mạn. Thật vậy, thi ca của Vigny như nước chảy ca ngợi hành vi hào hùng, kể lại những huyền sử. Tính chất nầy được biết nhiều qua câu thơ: Gémir, pleurer, prier est également lâche. (Rên rỉ, khóc la, cầu xin đều hèn như nhau).

Rứa thì lắm lúc những suy nghĩ của mình chỉ là những thọ tưởng, níu tạm qua lường, theo kinh Bát Nhã là những uẫn. 
Bên trên tôi có nói như một hành trình tư tưởng. Không đúng nhưng gần như:
Lúc chưa học đạo, thấy núi là núi, sông là sông.
Vô học đạo thì thấy núi không phải núi sông không phải sông.
Thành đạo thì thấy sông trở lại sông, núi trở lại núi.
Before enlightenment, carry water; after enlightenment, carry more water (trước và sau khi giác ngộ đều gánh nước).
Sư hiểu chéo của tôi chỉ xẩy ra riêng tư, không như sự hiểu sai rộng lớn mấy trăm năm nay câu nói của Pascal: trí óc có những lý do mà con tim không biết. Ông Phật thì bị hiểu chéo hiểu sai rất nhiều lần. "40 năm nay ta không nói gì", Ngài bị chê là nói dối, nói quá nhiều đi chứ, đọc mệt nghỉ. Ta không nói gì rốt ráo vì chúng sinh chưa hiều, nay ta nói vị tằng hữu pháp: chúng sinh sẽ thành Phật.

◙ Á chà, tôi đã nhai kẹo cao su nhiều quá rồi đa.
Hôm ấy chừng 1988, tôi đến chùa Liên Hoa, Garden Grove, vào lúc Ái Thu chào tạm biệt thầy Chơn Thành. Ái Thu đẹp lắm, nửa đời xuân sắc, vừa ly dị chồng bác sĩ. Nhiều người rệu nước miếng trong số đó có Trần Kiềm từ bên Tây mới qua. Thấy tôi dòm theo nàng ra cửa, vị sư vui tính và bình dân nầy nói: làm một bài thơ nhé. Tôi dạ làm quà. Tôi thấy Ái Thu còn ngọt nước lắm, nay nàng bắt đầu cuộc đời mới, nên viết: Người hãy hát khi thịnh thời sắc nước.
Lúc ấy tôi có ý tặng nội san Giao Điểm của bác sĩ Trần Tiển Huyến nên viết thêm đoạn cuối có phần gượng ép lý luận nhiều hơn thi cảm, nói đến tam tài thiên địa nhân. Dù cho con người rất nhỏ như Cao Bá Quát nói: yên ba thâm xứ hữu ngư châu: [sâu, sâu nơi chốn xa kia, trong sóng vỡ tỏa ra như khói, có chiếc thuyền câu lấp ló thấy mờ sương]. Nội san nầy chỉ ấn hành một kỳ. Giao Điểm nầy không phải là Giao Điểm của ông Hồng Quan và nhóm Trần Chung Ngọc mà nhiều tôn giáo ngoài PG cho là quá khích.
Tôi cũng xin lỗi bài mang nhiều cá tính cũng như nhiều chữ quá bình dân như chó ngáp không trôi, lót chỗ chó nằm.

Sắp hết năm 2025. Thời gian nhanh nhưng nhờ thời gian xóa bao niềm đau thương và yêu thương đau đớn.

2026 sống an bình, đừng bị khuấy động bởi bầu cử midterm nếu ở Mỹ.

hát mãi không thôi
tôn thất tuệ

Người sẽ hát khi thịnh thời sắc nước
mãi đi lên trước giờ thái dương cư ngọ
môi hồng tươi chớm đỏ dáng huy hoàng
tay đưa thẳng đầy tin yêu mãnh liệt.

Ta sẽ hát lúc bóng chiều đổ sậm
ngày của trời theo biển đến xa xôi
trong hoang vắng cát thơm trổ nhụy
thả hương nồng theo triệu chấm lân tinh.

Trong đêm tối những bóng ma xuất hiện
những bóng người theo giây phút biến thiên
cung trầm bỗng những oan khiên đày đọa
những nụ cười ôm kín buổi hân hoan.

Ta sẽ hát theo đường tơ cung dẫn
những nhớ thương quê tổ tấy nguyên hình
gốc cổ thụ vòng trái tim rách nát
mũi tên tình đâm thẳng máu không rơi
móng tay khắc tên người yêu lối xóm
nhựa cây tươi trắng xóa áo nàng xinh.

Ta đã để tâm tình nơi mốc đá
những cheo leo trên biển cả vòng quanh
ta gởi gắm nỗi cô đơn tuyệt đối
những cheo leo trên biển cả của lòng ta.

Bên xóm lá, bình vôi ông táo
miễu cô linh van vái vài câu
nào học giỏi cưới nàng về làm vợ
xé mảnh bằng lót tã cho con.

Ta ngỗ nghịch cả với trời đất thiên địa
vững như đồng gươm giáo cười khinh
mà điếng mặt vì hôm qua nàng nói
bản luận trình chó táp không trôi
chuyện yêu thương tắt nghẽn ở văn chương
nàng nào biết ta thấy dòng mực đậm
những khổ đau chờ đợi trước nhà.

Ta vẫn hát về những quãng đời rách nát
những đói no mộng thực dây chuyền.
Lên núi cao ta nhìn thế gian tục lụy
nhìn vào thân ta thấy tục lụy hơn đời.

Ta trở lại xóm xưa quê cũ
gốc bàng tươi trái chín ướp đất vàng
trong vũng đục cùng trâu đầm hụp lặn
đàn đĩa đói ôm chân hút máu
như cô hồn đòi nợ buổi hăm ba.

Ta thương mến tấm thân tục lụy
và những gì tục lụy ở quanh ta.
Ta thương mến tấm thân mẹ dựng
gieo vào hồn hạt mộng thăng hoa
ta vẫn hát cho bình minh tư tưởng
cho hơi nồng vị mặn của xót xa.

Ta sẽ hát và xin người cứ hát
buổi thịnh thời sắc nước đang lên
và hát mãi sau giờ thái dương cư ngọ
lúc chiều tà áo đỏ phủ buồm nâu.
Người hãy hát cho mắt nhung lóng lánh
cho nụ cười tỏa lộ sức hồn nhiên.

Người hãy hát cho uyên nguyên sáng ngợi
cuối chân mây biển nước trâng hiền
đem trời đất về chung một mối
giao điểm vàng vũ trụ càn khôn
chiếc thuyền nhỏ con người hiện diện
sóng dập vùi nhưng đạt được toàn châu
làm giềng mối hiển linh cho vạn loại
giữ trong tay nguyên lý thuận hành.-


Tuesday, December 2, 2025






CAFÉ BƠ TRÊN GA
Tôn Thất Tuệ


1957, tôi đã vào đệ nhị và bắt đầu tật xấu hút thuốc và cà phê cà pháo. Lúc ấy trước ga Huế là một cái sân lớn như một cái túi, cái bao tử chỉ có một lối vào từ cầu ga ở ngã ba bờ sông. Bốn phía thì ba phía của ga gồm hai mặt có nhà xây và một mặt chỉ là hàng rào thưa cho thấy các đầu tàu, toa tàu bên trong như kho vật liệu. Phía còn lại là chiều dài đối diện với cửa ga gồm một số gian nhà ở mà tôi nghĩ đâu lưng với dãy nhà ngó ra bờ sông ngó qua trường Pellerin, trong đó có nhà của ca sĩ Hà Thanh. Dãy nhà trước ga im lìm, không mua bán gì, ngoại trừ có tấm biển trên lầu không lớn lắm quảng cáo dầu khuynh diệp Dung nhưng tầng dưới không có cửa hàng. Chúng tôi gọi người con gái trong gia đình là Dung dầu tràm; sau mới biết khuynh diệp và dầu tràm là hai người bạn hờ, gọi lầm nhau. Nay cũng biết thêm cô Dung là Hồ Thị Dung, ái nữ của thương gia Hồ Đắc Nghị.
Một hôm lên ga thương vay khóc mướn cảnh biệt ly mùa tựu trường, tôi thấy lần đầu tiên cái quán phở và cà phê ở gian cuối gần đầu máy xe lửa và như e ấp theo bóng một cây bàng. Xẹt qua thì biết người chủ trung niên rất dễ mến nói giọng bắc ngọt xớt, ông tự giới thiệu là một người Tàu, sinh ở Hải Phòng di cư vô nam theo gia đình bằng phương tiện riêng không theo tàu há mồm của các họ đạo TCG, tự lập không nhờ chính phủ. [Mới biết thêm ông Tàu nầy là ông Sáu có bà vợ Việt tên Hương]. Cà kê dê ngỗng vì ông có cái máy hát phô nô và rất nhiều dĩa 45 tua. Quán là nơi đầu tiên bán thuốc điếu lẻ hiệu ba số 5, lúc ấy ở trong lon sắt 50 điếu. Café phin nơi nầy giọt rất chậm, kèm theo một tẹt mốt nhỏ nước nóng, kiểu cách hơn là ly thủy tinh được giữ trong một tô nước nóng. Lấy phin xuống thì thấy nửa tách đen thui lền khên những khối cầu ly ty óng ánh biết là bơ, đoán biết bơ chỉ bằng nửa hột bắp, loan đủ che mặt ly; mùi beurre Bretel trong lon không đóng khối như bơ Mỹ. Chúng tôi đồn nhau tin café bơ.

Ông Tàu thật dễ thương, không dấu nghề, lần kế tiếp tôi được ông chỉ cách làm café chảy chậm, không phải vì nhiều café bột. Nhà hàng đã chuẩn bị các phin và cho vào mỗi phin một muỗng nước nóng để cà phê nở và cho nước sôi đi qua dễ và có thì giờ rút hết tinh chất, đồng thời làm cho chảy chậm.
Cafe đậm là phải vì lối ngấm nầy có phần giống cách vận chuyển của bàn lọc expresso. Nước đun nóng bắt đầu tạo hơi nước bốc lên ngấm nở café bột trước khi đủ sức tống nước sôi đi qua. Expresso đậm đặc nhờ kỹ thuật nầy.Các nơi khác thì sao không biết, chứ trong vùng theo con sông nhỏ nầy, quán café bơ ông Tàu Hải Phòng là văn minh lắm; không khí nho nhã có máy hát, thuốc ba số 5 thơm lựng. Beurre Bretel, bơ đồng tiền bên Tây gởi qua chơ bộ. Chúng tôi đem khoe với một ông đi học bên Tây về lo kiếm vợ; lơ tơ mơ nghĩ rằng ông nầy lê gót ngày ngày ở các quán Paris thì uống chất nước đen cũng bằng nơi ông Tàu Hải Phòng mà thôi. Ai dè ông cử bỉu môi nói quẹt bơ vô là thứ quê mùa, nó tanh lắm. Người Tây thêm bơ và rượu khi rang. Chết chửa, gặp ổ kiến lửa.

Ông nầy có bằng cử nhân giáo khoa sử địa nên biết người dân tỉnh nhỏ rang café ra răng.
Mỗi lần rang chừng 5 ký hột tươi, rang quay trong cái "trả" hình khối viên trụ và tốt nhất là khối cầu. Đốt lửa trong lò quay. Đầu tiên là khói đen xì ra; đến khi có khói trắng là được thì đổ ra cái trẹt cho bớt nóng. Khi rỗ hàng nóng vừa, sờ tay được thì bỏ trở lại vào thùng quay không phải để quay tiếp mà dùng để xóc cho đều rượu mạnh và beurre mới thêm vào. Món nêm cuối cùng là dầu olive. Olive tạo ra một màn rất mỏng bọc quanh hột café giữ hương thơm tổng gộp. Cho nên không xay café trước mất mùi hương; chỉ xay để dùng ngay. Beethoven theo lối nầy; mỗi sáng nhạc vương đếm đủ 60 hột đem xay. (xin mở link tham khảo bên dưới)
Nhờ bài học nầy về sau tôi nghe biết ở Saigon có café "đéo đã". Các chành người Tàu rang café bỏ mối, dùng rượu rum rẻ tiền hiệu Déoda. Rum (rhum) là rượu mạnh làm bằng mật mía. Rhum Déoda có lẽ làm tại VN nhưng nhãn hiệu thường có người da đen và cây mía ở các đảo thuộc địa như Haiti, Jamaica.
Theo lý thuyết, café, trà dùng tách sứ; rượu Tây dùng ly thủy tinh. Nhưng hầu hết các quán VN xưa dùng ly thủy tinh và giữ cho ấm như ông Tàu nói trên có thêm tô nước nóng và để ly vào. Ông Tàu theo đúng sách vở, tách nóng tạo nên cảm khoái khi môi đụng vào. Giống vậy, ly uống sâm banh phải bỏ vào nước đá cho thật lạnh làm cho rượu có nhiều tác dụng hơn.
Đầu tháng 10.2025 nầy, ông Nguyễn Phước Ái Mừng có viết về Quán Café Tôn trong Thành Nội Huế do thân phụ của tác giả gầy dựng. Ông Tôn đã bỏ bơ tươi vào ly và giữ cho ly ấm. Hai điều nầy giống ông Tàu. Không biết quán nào ra đời trước, có bắt chước nhau không.


Quá café bơ của ông Tàu châm ngòi cho dãy phố nầy thành khu ăn uống sầm uất. Các căn nhà ở nay biến thành quán ăn (trừ nhà Dung) bán đủ thứ, cháo lòng, bún bò, bánh ướt thịt nướng, nem lụi, hùm phả lằng có chi bán nấy. Các quán đều có món chung là chè nước đá trong ly cối. Món nầy vừa túi tiền học sinh. Đám học trò choai choai dê cỏn buồn sừng húc dậu thưa thường xúm xít ở quán Tao Phùng; cô Mùi thâu tiền, con nuôi bà chủ không đẹp chi nhưng có nét quyến rũ riêng; bà Tao Phùng ăn nói ngọt ngào như đường phèn. Chè ga làm cho công viên nhỏ bé nầy nhộn nhịp về đêm, nhường buổi sáng cho ông Tàu.
Quán có những ông khách ra chiều triết nhân, sáng tinh mơ đã đến hít một vài hơi ba số năm. Có vị lè kè một dĩa hát lớn 33 tua mượn đâu đó nhờ phô nô ông Tàu mà nghe Mozart, Chopin...Nghèo nhưng đầy phong vị thần tiên.
Tôi nhớ ông Tàu, nhớ café bơ, nhớ những lần mua vé vào sân ga (billet de quai) không để tiễn ai, không để đón ai mà để hưởng ké hương vị đoàn viên và thử mùi biệt ly, vì đời mình bơ vơ nào có quen ai. Tàu hỏa là một thứ lãng mạn, như tôn giáo là một thứ lãng mạn, nguyện cầu gục đầu bên nhau. À quên, tôi còn nhớ cái tên Dung dầu tràm, thơm như dầu tràm xanh. Mong rằng hoài niệm được ướp thơm bằng dầu tràm của...Dung.


Xin tham khảo: Kreutzer Sonata Beethoven

Wednesday, November 26, 2025

Cầu Ngói Thanh Toàn

 

Cầu Ngói xưa chưa bị cạo sửa
Ba khâu rựa nữa mới tới
Cầu Ngói Thanh Toàn

Tôn Thất Tuệ

Năm 1957 hay 58, tôi đi bộ cùng đoàn học sinh dưới sự hướng dẫn của thầy Văn Đình Hy từ Quốc Học xuống Đập Đá, qua khỏi đập rẻ phải. “Cầu Ngói Thanh Toàn trực chỉ hành”. Còn nhớ một bạn đồng hành, sau nầy là bác sĩ Hà Thúc Như Hỷ (quá vãng 2024). Đeo ba lô nặng cho nên cứ hỏi bộ hành địa phương còn bao xa mới đến Cầu Ngói. Tôi được trả lời: gần rồi, chừng ba khâu rựa. Chèng đét! Đi mãi không tới. Ba khâu rựa là ba chục cây số hè!? Rựa thì khi mô cũng có ba hay hai cái khâu tròn để giữ cho lưỡi sắt khỏi sút, mắc chi lại dùng làm đơn vị đo đường. Nhưng rồi chập tối cũng đến nơi và ngủ trên cầu.

Việc đầu tiên hôm sau là tìm hiểu bí ẩn ấy. Dễ quá, theo lời một bà cụ, tay phải cầm cái rựa, đi một hồi mỏi tay đổi qua trái là một khâu rựa, mỗi lần đổi tay là một khâu rựa. Có ai thong dong mà đi hóng mát, khi mô cũng tay xách nách mang. Từ đây đi bộ ra Đập Đá mới có đò qua Đông Ba. Mỗi lần đổi gánh qua vai, đổi rỗ qua tay v.v… là một khâu rựa.

Một đơn vị rộng rãi, cao su, thật dễ thương, uyển chuyển chỉ gây ý niệm không cần cân đo, như trong Nam, chục xoài mười hai, chục mười bốn, chục mười lăm; đơn vị không gian cũng là đơn vị thời gian. Ta yêu em ngàn kiếp hay một kiếp cũng là yêu. Trái lại một chợp mắt một kiếp sầu vô vạn; hay một thoáng em qua dài hơn ngàn triệu kiếp luân hồi sinh tử. Ta sống được bao nhiêu khâu rựa? Rất dài và rất ngắn; vạn pháp duy tâm tạo.

Sinh hoạt lai rai, tập hò tập hát thì xế chiều có lệnh về. Không ai lo mấy khâu rựa. Đoàn học sinh được chở bằng đò dọc không mui, lách qua lách về  (tiếp nối sông Như Ý?) thì đến sông An Cựu, chèo tiếp đến cầu Phủ Cam lên bộ về trường; tới ngay, một phần hai mươi (1/20) của khâu rựa chơ chi.

Tinh thần tự nhiên hài hòa giữa không gian vật thể và không gian nội tâm, giữa thời gian vật thể và thời gian quán niệm… tạo nên một Cầu Ngói Thanh Toàn, êm đềm như cảnh chùa nhỏ ngày xưa là Tra Am, không thách thức thiên nhiên như mũi tên gác chuông. Không kiểu cách cầu kỳ như cầu ngói Hội An. Dĩ nhiên khác với những chiếc cầu có mái trên thế giới với mục đích bảo vệ cầu trước thời tiết bất lợi. Cầu Ngói Thanh Toàn ăn nhập vào khung cảnh thiên nhiên, qua một hói nhỏ như hói Kẻ Vạn, Kim Long.

Từ lần thứ nhất theo đoàn học sinh, tôi không trở lại đây cho đến lần cuối 2001. Lần nầy tôi thấy quang cảnh còn như xưa, chưa xô bồ, chưa thành thị hóa. Nghe các cháu nói, ngày Tết nơi chỗ chợ nhóm gần cầu có bài chòi đúng cách xưa. 11 cái chòi như 11 cái miễu, thần sống áo xanh áo đỏ, lớn nhỏ, chăm chú nghe anh hiệu chít khăn đỏ hò một câu ca dao chuyển vào con bài đầu, ví dụ Hai bên lẳng lặng mà nghe con bài đi chợ: Khi xưa em nói rằng thương, để anh về bán nhà bán cửa, bán ông táo thổ công; nay chừ em nói rằng không, anh nghe như sấm sét giữa đồng ơi em. Ôn ầm. Trúng ba con trùng nhau là tới rồi, trống kèn ọ e, có người bưng mâm tiền chung và một lá cờ, trịnh trọng như nạp lễ cưới.

Cầu mái tranh Áo, Austria
Bài chòi biến dạng từ bài tới. Bộ bài tới hết sức chất phát hồn nhiên, không kiểu cách như tài bàn hay tam cúc. Bộ bài tới, theo cảm quan cá nhân, gồm đủ mọi thứ, vũ trụ cực tiểu, vũ trụ cực đại, đời người và người đời. Có trời là ông ầm; có con người riêng tư như bạch tuyết nọc đượng, cái âm cái dương trên thân thể. Có thầy có trò. Có anh cửu phẩm triều đình, nhưng là cửu bệt. Có con gà. Có lược sưa lược dày. Có gióng gánh. Có những xâu tiền mang ý nghĩa triết lý, đồng tiền có lỗ, dấu đâm thủng vào lương tri. Có thái tử, có kẻ nghèo, có chăn gối, bồng bế. Tôi không thể tự giải thích thêm cho đủ ba mươi lá; nhưng không quên con đỏ mỏ, biết đâu là cô em xảnh xẹ, ưa phấn son, coquette như con két nhiều màu Nam Mỹ.

Đứng ở chân cầu, tôi say sưa với nét hài hòa, tưởng như đang nắm tay linh mục Teilhard de Chardin trên đường tổng hợp khoa học, tôn giáo và thi ca để đến sự nhất thống; cái to nhất nằm trong cái nhỏ nhất; cái nhỏ nhất sống yên lành trong cái to nhất. Hoặc gần hơn là cùng cựu tu sĩ PG Phạm Thiên Thư gõ chén mà ca: hiện hữu đây rồi, tôi không là tôi, người không là người; đâu chẳng là Phật, đâu chẳng là Trời?

@

Vì sao lại viết bâng quơ, không đầu đuôi xuôi ngược gì trơn? Viết thế vì tâm thần tôi chếnh choáng khi thấy một tấm hình Cầu Ngói Thanh Toàn như một kẻ son phấn không ra cách, vua Louis 14 mặc áo Liêu Trai. Ngói men mới âm dương; rồng rắn trên nóc và nhất là một cổng màu vàng, bạn phải chui qua mới lên cầu. Trông giống cái am lên đồng. Mọi thứ, mọi di tích thực sự đã bị cạo sửa, như bia trước trường Quốc Học. Mà bắt chước Hội An cũng không đến nơi. Cầu ngói Hội An cầu kỳ nhưng không bị bắn khỏi khung cảnh chung, trái lại hòa nhịp với bối cảnh và kiến trúc thời Faifo, thời “Phải Phố nầy em”.

Nghệ thuật tạo hình thể (lớn hay nhỏ) đi theo lối công dụng (functional) / lối trang trí (ornamental) / dung hòa hai thứ. Khó tìm ra một lối nào mà tả Cầu Ngói nhưng không quên Cầu Ngói chính là công dụng. Công dụng chính là ý nghĩa cao quý của Cầu Ngói, người xây cầu thêm mái ngói, cho ai lỡ độ đường ngủ qua đêm không bị sương lạnh.

Dùng Cầu Ngói mới mà diễn tả ý nguyện của người xưa và đường lối nghệ thuật dung hợp thì giống như vô Chợ Đông Ba mua con nộm thợ mã phấn son lòe loẹt mà thưa đây là hoa khôi của cố đô.

Cầu Ngói không còn là cầu qua lại giữa người và cảnh, giữa linh thiêng và hiện thực, giữa bộ bài tới và thái cực âm dương, giữa đường đất đo bằng khâu rựa và nỗi lòng đánh dấu bởi buồn vui. Đi cả triệu khâu rựa nữa cũng không đến được Cầu Ngói năm xưa. Chỉ còn một khâu rựa cuối cùng, đi từ tâm hồn đến vùng hoài niệm, có Cầu Ngói uyên nguyên chưa bị đưa vào lò sát sanh thẩm mỹ lọ, thẩm mỹ treo đầu heo bán thịt chó.---

=================================================


=============================