những dòng không đâu
(tôn thất tuệ, 1939 bến ngự huế, tiểu học nam giao, biết đọc biết viết, georgia usa 30747)
add this
Friday, December 12, 2025
Ra đi từ Vĩnh Long
Wednesday, December 10, 2025
Nguồn ảnh: panoramio - photo by Ngày Xửa Ngày Xưa.
Monday, December 8, 2025
Thềm mưaTra Am
Thềm Mưa Tra Am
Tôn Thất Tuệ
Thiệt tình tôi, vì không kinh nghiệm, không thể diễn tả niềm hạnh phúc song đôi đạp xe với một nường, từ Nghẹo Dàn Xay, An Cựu, lên phía Ngự Bình, rồi đến rừng thông chùa Tra Am. Khu Ngự Bình và chung cả Huế trừ đồi Thiên An sau 1945 không còn cây thông. “Núi Ngự không cây chim ngủ đất; sông Hương vắng khách mấy mợ kêu trời". Nhưng chùa nầy còn được vài mươi gốc thông, để có những đoạn đường lá thông êm, những bóng mát dịu hiền. Hồi ấy chưa có dĩa giấy lon nhôm nên sạch sẽ lắm. Đó cũng là nơi cắm trại lý tưởng cho Hướng Đạo.
1957, tôi tập sự làm thiếu trưởng HĐ và theo trưởng Đoàn Mộng Ngô đưa thiếu đoàn mới lập đến rừng thông nầy cắm trại. Chúng tôi lập trò chơi lớn thông thường là tìm dấu vết cho bốn đội của các em. Trưởng Ngô dẫn tôi đi lập “kho vàng”.
Anh Ngô bảo tôi tên chùa là Tra Am không như ai cũng bảo Trà Am, dấu huyền như uống trà, thanh trà. Tên nầy từ bốn chữ: Tra bất như lê. Vị tổ lập chùa, trong bài cổ thi, đã ví mình là “tra” và Phật là “lê”. Trái tra cùng dòng họ với lê nhưng không ngon như lê. Ngài muốn nói tu đến chỗ gần chân Phật đã khó lắm, biết có làm được không, nên không tham vọng thành Phật.
Khối vàng quý đem chôn là một bông hải đường dấu dưới chân một cây cầu. Nói là cầu nhưng chỉ là một tấm đá bề ngang nửa thước tây, dài chừng hai thước, bắc qua một lạch nước, có thể nhảy qua dễ dàng. Một tấm đá sần sù khác không nhẵng như các bia thông thường nhưng đủ hình dáng cần thiết thành một cái bia. Bia nầy không diêm dúa như những khối đá cắt ngang, thư họa màu mè không ai đọc ra thường thấy như một phong trào hiện đại. Ba chữ Hán chúng tôi nhờ vị sư trẻ đọc là: Lược Ước Kiều từ một câu dài hơn: độ nhơn độ mã bất khả độ xa, vị chi lược ước; (cho người qua, cho ngựa qua, nhưng không cho xe qua; cho nên gọi là cầu giảm bớt).
Như vậy, nói cho thuần lý, “chùa Tra Am” dư chữ chùa; vì am là chùa nhỏ, như am thánh, am thần. Xưa kia, không phải có tiền đều được mặc áo lụa, áo màu; xây nhà to; phải có địa vị chức phẩm. Kinh Lễ của Tàu cho phép dân thờ năm đời ngũ đại, vua mới thờ bảy đời. Chùa của dân cũng vậy chỉ được làm như cái am; các chùa của triều đình mới được xây cao như Báo Quốc, Quốc Ân, Thiên Mụ, Diệu Đế.
Tra Am bây giờ không nhỏ nhoi êm ả ấm cúng như xưa. Đá rửa trước sau, lưỡng long chầu nguyệt trên nóc, tượng nầy tượng kia, khẩu hiệu thư họa đuôi rồng đầu công, ghế đá có tên người cúng dàng. Tôi có đến gần, lạch nước nhỏ nước mưa đã khoét rộng, không thể biết chỗ nào xưa kia là Lược Ước Kiều. Không bước vô. Xin bái bai.
Huế có trái tra ăn được không ngon, giống như trái sung tây (figue) nhưng không cùng họ với lê. Lại có vỏ tra khô để ăn ghém trầu; trầu nhai với nhiều thứ vỏ khác và hột mây hay thuốc rê. Nhưng không biết cây có vỏ nầy hình thù ra sao. Để hiểu sự so sánh tra lê, chúng ta có thể xem tra như trái bứa chua, gần giống với trái giáng châu (măng cụt) rất ngọt.
Bình luận bậy bạ (comment) dưới vài bài về Phật học, tôi nêu câu “tra bất như lê” không đúng ý Phật vì Ngài muốn chúng sinh bằng Ngài và hơn Ngài càng tốt.’
Nay tìm hiểu thêm, sự tích Tra Am có khác. Đầu tiên là một chòi tranh do hòa thượng Viên Thành dựng năm 1923 bên cạnh mộ của ân sư Viên Giác để tỏ lòng nhớ ơn và làm nơi tu niệm. Tăng sĩ nầy dòng họ vua có thể làm chùa lớn nhưng ông chỉ xây cái am; vì vậy chùa nầy có cái tên chẳng giống ai. Tra Am do một điển tích bên Tàu.
Trương Phu thuở nhỏ tên là Tra, cha Trương Thiệu tên Lê. Tống Văn Đế thường đùa: “Tra sao bằng Lê được!” Trương Phu cười mà tâu rằng: “Lê là cây trăm quả, Tra đâu dám sánh bằng!” Sau khi bố qua đời, Tra đã dựng nhà ở bên mồ suốt hai năm ba tháng để tỏ lòng hiếu nghĩa.
Cho đến khi chết Thích Viên Thành vẫn giữ lòng tri ân, qua di ngôn cuối cùng: “Tự hậu Tra bất như Lê dã”.
Phần tôi, tôi luôn nhớ Lược Ước Kiều và lạch nước nhỏ; hai thứ ấy đã góp phần xưa kia biến Tra Am làm một nơi vừa trang nghiêm vừa trữ tình, mộng mơ. Tra Am thời ấy đã hòa một điệu sống, một đối ảnh với những quán bánh bèo dưới những mái tranh, những buổi chiều thơ mộng, nơi vùng sơn cước thưa dân.
Hình ảnh cây cầu nầy tôi đã dùng làm một ý nhỏ (có cây cầu lạch nước gang tay gỗ đã mục vì hằn lên mưa nắng) trong bài vè đính kèm, với giọng nói của một người tạm dung, sống chen nơi thềm hoang rêu phủ, nhìn ra sân mưa. Bài nầy có người chế nhạo hoa nylon plastic mới không sinh diệt. Có người cho là Phật Giáo - ?! Nylon cũng được nhưng Phật thì cho em xin. Riêng tôi, với tư cách độc giả, tôi chỉ thích những hình ảnh âm nhạc.
Em của những giờ mưa tầm tã
của thềm hoang rêu phủ ấm hơi người
của lạnh buốt nơi ngày mai vô định,
em ngồi nghe những giờ mưa tầm tã.
Ngước lên không bầu trời trĩu nặng
nhìn ra sân vũng bùn gợn sóng
soi vào lòng lắng đọng xôn xao
những đau đớn trào ra khóe mắt,
mắt khô cằn cho mưa đổ trên cây.
Đường tạm dung một đêm khuya giá lạnh
như biển khơi cấu xé con tàu
những bóng đèn ai thắp hải đăng xa
em kinh hãi tưởng còn trên nước.
Sao giờ đó anh không yên giấc ngủ
tiếng chân đi hay sương khuya kêu anh dậy
để em thấy một khung trời khác lạ.
Em của những giờ mưa tầm tã
nét xa xăm anh bâng quơ hát nhạc
"đường em đi hằn lên mưa nắng
em thoát thai hóa kiếp em trở về".
Ôi vô lý,
cho chi nhau những chờ mong không có
nhạc thính phòng chỉ đau đớn Chopin.
Ở quanh em chỉ có những đìu hiu
một tiếng kèn xa xăm vọng lại
trên đĩnh đầu đổ tiếng hạc cầm.
Mãi thật xa, ôi những thật gần
chết đi thôi ôi những tiếng mưa rơi.
Một cuộc sống trong tầm tay sẵn có
vữa như bùn xin tan kiếp hiện hình.
Nhắm mắt lại loa vang đĩnh núi
hơi nhạc vắn hơi nhạc dài liên nhịp
em hồi sinh một kiếp gọi em về.
Đường em đi hằn lên mưa nắng
em thoát thai hóa kiếp không trở về
xin nhớ rõ là không anh nhé
nhưng hiện diện như lũ chim bé mọn
quên lỗi lầm trùng khởi khởi sinh
không ra đi không quầy trở lại
không đày ải ai, không bị ai đày đọa.
Em thương anh một nhà tu khổ hạnh
có cây cầu lạch nước gang tay
gỗ đã mục vì hằn lên mưa nắng
đường anh đi mấy độ quanh co.
Em thương anh một nhành hoa bách diệp
ngủ trong ngày để lộ triệu ngón tay
đường hoa đi không tình nồng vương vấn
cùng thoát thai để nhụy trên mây.
Em của những giờ mưa tầm tã
tiếng dương cầm từ mái ngói đổ rơi
những âm vang nóng lạnh bùi ngùi
em dâng hiến nụ cười tuổi mọng
để không còn bịn rịn những nguyên do
không vun xới những mầm tươi nửa độ
cho hoa nở ngoài vòng sinh diệt.
Mưa vẫn rơi, mưa rơi tầm tã
không buồn đâu, em đắp đổi nụ cười
cho hoa nở ngoài vòng sinh diệt.-
Sunday, December 7, 2025
RÚT CHỐT LỰU ĐẠN CHỐNG THAM NHŨNG
Tôn Thất Tuệ
Facebook Bảo Tồn Tiếng Việt, Dec 7, 2025, đăng hồi ký rất ngắn của ông Đỗ Văn Hiền thuộc Nha Kỹ Thuật (tình báo và đặc vụ, Tổng Tham Mưu QLVNCH).
Lúc xế trưa, gần tới giờ làm việc buổi chiều, trên đường từ ngã ba Đà Nẵng về Tổng Y Viện Duy Tân, trong lúc đi bộ, tôi gặp chiếc xe Jeep Quân Y giơ tay vẩy; xe ngừng, tôi nhìn qua, người ngồi trên xe là Y Sĩ Thiếu Tá Phạm Văn Lương, tui chào và xin quá giang về Tổng Y Viện Duy Tân, ông gật đầu, tui leo lên xe ngồi phía sau. Tui nghe danh ông khi còn làm việc ở Sài Gòn, về vụ ông cầm lựu đạn tới Quốc Hội để tố cáo tham nhũng.
Thanh Văn đã comment:
Thiếu tá Lương cải tạo cùng trại với tôi ở trại 1 Kỳ Sơn, Mõ Vàng Bồng Miêu, Quảng Nam. Ông làm tại trạm xá, không hiểu lý do gì mà ông đã uống thuốc sốt rét tự tử.
Thursday, December 4, 2025
Người hãy hát lúc thịnh thời sắc nước
một ngôi nhà người giữ cừu trên núi Alpes
Comme les rocs fatals de l'esclavage humain.

gốc bàng tươi trái chín ướp đất vàng
trong vũng đục cùng trâu đầm hụp lặn
đàn đĩa đói ôm chân hút máu
như cô hồn đòi nợ buổi hăm ba.
Ta thương mến tấm thân tục lụy
và những gì tục lụy ở quanh ta.
Ta thương mến tấm thân mẹ dựng
gieo vào hồn hạt mộng thăng hoa
ta vẫn hát cho bình minh tư tưởng
cho hơi nồng vị mặn của xót xa.
Ne ternis plus tes pieds aux poudres du chemin
Du haut de nos pensers vois les cités serviles
Comme les rocs fatals de l'esclavage humain.
Les grands bois et les champs sont de vastes asiles,
Libres comme la mer autour des sombres îles.
Marche à travers les champs une fleur à la main.
Người sẽ hát khi thịnh thời sắc nước
mãi đi lên trước giờ thái dương cư ngọ
môi hồng tươi chớm đỏ dáng huy hoàng
tay đưa thẳng đầy tin yêu mãnh liệt.
Ta sẽ hát lúc bóng chiều đổ sậm
ngày của trời theo biển đến xa xôi
trong hoang vắng cát thơm trổ nhụy
thả hương nồng theo triệu chấm lân tinh.
Trong đêm tối những bóng ma xuất hiện
những bóng người theo giây phút biến thiên
cung trầm bỗng những oan khiên đày đọa
những nụ cười ôm kín buổi hân hoan.
Ta sẽ hát theo đường tơ cung dẫn
những nhớ thương quê tổ tấy nguyên hình
gốc cổ thụ vòng trái tim rách nát
mũi tên tình đâm thẳng máu không rơi
móng tay khắc tên người yêu lối xóm
nhựa cây tươi trắng xóa áo nàng xinh.
Ta đã để tâm tình nơi mốc đá
những cheo leo trên biển cả vòng quanh
ta gởi gắm nỗi cô đơn tuyệt đối
những cheo leo trên biển cả của lòng ta.
Bên xóm lá, bình vôi ông táo
miễu cô linh van vái vài câu
nào học giỏi cưới nàng về làm vợ
xé mảnh bằng lót tã cho con.
Ta ngỗ nghịch cả với trời đất thiên địa
vững như đồng gươm giáo cười khinh
mà điếng mặt vì hôm qua nàng nói
bản luận trình chó táp không trôi
chuyện yêu thương tắt nghẽn ở văn chương
nàng nào biết ta thấy dòng mực đậm
những khổ đau chờ đợi trước nhà.
Ta vẫn hát về những quãng đời rách nát
những đói no mộng thực dây chuyền.
Lên núi cao ta nhìn thế gian tục lụy
nhìn vào thân ta thấy tục lụy hơn đời.
Ta trở lại xóm xưa quê cũ
gốc bàng tươi trái chín ướp đất vàng
trong vũng đục cùng trâu đầm hụp lặn
đàn đĩa đói ôm chân hút máu
như cô hồn đòi nợ buổi hăm ba.
Ta thương mến tấm thân tục lụy
và những gì tục lụy ở quanh ta.
Ta thương mến tấm thân mẹ dựng
gieo vào hồn hạt mộng thăng hoa
ta vẫn hát cho bình minh tư tưởng
cho hơi nồng vị mặn của xót xa.
Ta sẽ hát và xin người cứ hát
buổi thịnh thời sắc nước đang lên
và hát mãi sau giờ thái dương cư ngọ
lúc chiều tà áo đỏ phủ buồm nâu.
Người hãy hát cho mắt nhung lóng lánh
cho nụ cười tỏa lộ sức hồn nhiên.
Người hãy hát cho uyên nguyên sáng ngợi
cuối chân mây biển nước trâng hiền
đem trời đất về chung một mối
giao điểm vàng vũ trụ càn khôn
chiếc thuyền nhỏ con người hiện diện
sóng dập vùi nhưng đạt được toàn châu
làm giềng mối hiển linh cho vạn loại
giữ trong tay nguyên lý thuận hành.-
Tuesday, December 2, 2025
CAFÉ BƠ TRÊN GA
Tôn Thất Tuệ
1957, tôi đã vào đệ nhị và bắt đầu tật xấu hút thuốc và cà phê cà pháo. Lúc ấy trước ga Huế là một cái sân lớn như một cái túi, cái bao tử chỉ có một lối vào từ cầu ga ở ngã ba bờ sông. Bốn phía thì ba phía của ga gồm hai mặt có nhà xây và một mặt chỉ là hàng rào thưa cho thấy các đầu tàu, toa tàu bên trong như kho vật liệu. Phía còn lại là chiều dài đối diện với cửa ga gồm một số gian nhà ở mà tôi nghĩ đâu lưng với dãy nhà ngó ra bờ sông ngó qua trường Pellerin, trong đó có nhà của ca sĩ Hà Thanh. Dãy nhà trước ga im lìm, không mua bán gì, ngoại trừ có tấm biển trên lầu không lớn lắm quảng cáo dầu khuynh diệp Dung nhưng tầng dưới không có cửa hàng. Chúng tôi gọi người con gái trong gia đình là Dung dầu tràm; sau mới biết khuynh diệp và dầu tràm là hai người bạn hờ, gọi lầm nhau. Nay cũng biết thêm cô Dung là Hồ Thị Dung, ái nữ của thương gia Hồ Đắc Nghị.
Một hôm lên ga thương vay khóc mướn cảnh biệt ly mùa tựu trường, tôi thấy lần đầu tiên cái quán phở và cà phê ở gian cuối gần đầu máy xe lửa và như e ấp theo bóng một cây bàng. Xẹt qua thì biết người chủ trung niên rất dễ mến nói giọng bắc ngọt xớt, ông tự giới thiệu là một người Tàu, sinh ở Hải Phòng di cư vô nam theo gia đình bằng phương tiện riêng không theo tàu há mồm của các họ đạo TCG, tự lập không nhờ chính phủ. [Mới biết thêm ông Tàu nầy là ông Sáu có bà vợ Việt tên Hương]. Cà kê dê ngỗng vì ông có cái máy hát phô nô và rất nhiều dĩa 45 tua. Quán là nơi đầu tiên bán thuốc điếu lẻ hiệu ba số 5, lúc ấy ở trong lon sắt 50 điếu. Café phin nơi nầy giọt rất chậm, kèm theo một tẹt mốt nhỏ nước nóng, kiểu cách hơn là ly thủy tinh được giữ trong một tô nước nóng. Lấy phin xuống thì thấy nửa tách đen thui lền khên những khối cầu ly ty óng ánh biết là bơ, đoán biết bơ chỉ bằng nửa hột bắp, loan đủ che mặt ly; mùi beurre Bretel trong lon không đóng khối như bơ Mỹ. Chúng tôi đồn nhau tin café bơ.
Cafe đậm là phải vì lối ngấm nầy có phần giống cách vận chuyển của bàn lọc expresso. Nước đun nóng bắt đầu tạo hơi nước bốc lên ngấm nở café bột trước khi đủ sức tống nước sôi đi qua. Expresso đậm đặc nhờ kỹ thuật nầy.Các nơi khác thì sao không biết, chứ trong vùng theo con sông nhỏ nầy, quán café bơ ông Tàu Hải Phòng là văn minh lắm; không khí nho nhã có máy hát, thuốc ba số 5 thơm lựng. Beurre Bretel, bơ đồng tiền bên Tây gởi qua chơ bộ. Chúng tôi đem khoe với một ông đi học bên Tây về lo kiếm vợ; lơ tơ mơ nghĩ rằng ông nầy lê gót ngày ngày ở các quán Paris thì uống chất nước đen cũng bằng nơi ông Tàu Hải Phòng mà thôi. Ai dè ông cử bỉu môi nói quẹt bơ vô là thứ quê mùa, nó tanh lắm. Người Tây thêm bơ và rượu khi rang. Chết chửa, gặp ổ kiến lửa.
Ông nầy có bằng cử nhân giáo khoa sử địa nên biết người dân tỉnh nhỏ rang café ra răng.
Mỗi lần rang chừng 5 ký hột tươi, rang quay trong cái "trả" hình khối viên trụ và tốt nhất là khối cầu. Đốt lửa trong lò quay. Đầu tiên là khói đen xì ra; đến khi có khói trắng là được thì đổ ra cái trẹt cho bớt nóng. Khi rỗ hàng nóng vừa, sờ tay được thì bỏ trở lại vào thùng quay không phải để quay tiếp mà dùng để xóc cho đều rượu mạnh và beurre mới thêm vào. Món nêm cuối cùng là dầu olive. Olive tạo ra một màn rất mỏng bọc quanh hột café giữ hương thơm tổng gộp. Cho nên không xay café trước mất mùi hương; chỉ xay để dùng ngay. Beethoven theo lối nầy; mỗi sáng nhạc vương đếm đủ 60 hột đem xay. (xin mở link tham khảo bên dưới)
Nhờ bài học nầy về sau tôi nghe biết ở Saigon có café "đéo đã". Các chành người Tàu rang café bỏ mối, dùng rượu rum rẻ tiền hiệu Déoda. Rum (rhum) là rượu mạnh làm bằng mật mía. Rhum Déoda có lẽ làm tại VN nhưng nhãn hiệu thường có người da đen và cây mía ở các đảo thuộc địa như Haiti, Jamaica.
Theo lý thuyết, café, trà dùng tách sứ; rượu Tây dùng ly thủy tinh. Nhưng hầu hết các quán VN xưa dùng ly thủy tinh và giữ cho ấm như ông Tàu nói trên có thêm tô nước nóng và để ly vào. Ông Tàu theo đúng sách vở, tách nóng tạo nên cảm khoái khi môi đụng vào. Giống vậy, ly uống sâm banh phải bỏ vào nước đá cho thật lạnh làm cho rượu có nhiều tác dụng hơn.
Đầu tháng 10.2025 nầy, ông Nguyễn Phước Ái Mừng có viết về Quán Café Tôn trong Thành Nội Huế do thân phụ của tác giả gầy dựng. Ông Tôn đã bỏ bơ tươi vào ly và giữ cho ly ấm. Hai điều nầy giống ông Tàu. Không biết quán nào ra đời trước, có bắt chước nhau không.
Quá café bơ của ông Tàu châm ngòi cho dãy phố nầy thành khu ăn uống sầm uất. Các căn nhà ở nay biến thành quán ăn (trừ nhà Dung) bán đủ thứ, cháo lòng, bún bò, bánh ướt thịt nướng, nem lụi, hùm phả lằng có chi bán nấy. Các quán đều có món chung là chè nước đá trong ly cối. Món nầy vừa túi tiền học sinh. Đám học trò choai choai dê cỏn buồn sừng húc dậu thưa thường xúm xít ở quán Tao Phùng; cô Mùi thâu tiền, con nuôi bà chủ không đẹp chi nhưng có nét quyến rũ riêng; bà Tao Phùng ăn nói ngọt ngào như đường phèn. Chè ga làm cho công viên nhỏ bé nầy nhộn nhịp về đêm, nhường buổi sáng cho ông Tàu.
Quán có những ông khách ra chiều triết nhân, sáng tinh mơ đã đến hít một vài hơi ba số năm. Có vị lè kè một dĩa hát lớn 33 tua mượn đâu đó nhờ phô nô ông Tàu mà nghe Mozart, Chopin...Nghèo nhưng đầy phong vị thần tiên.
Tôi nhớ ông Tàu, nhớ café bơ, nhớ những lần mua vé vào sân ga (billet de quai) không để tiễn ai, không để đón ai mà để hưởng ké hương vị đoàn viên và thử mùi biệt ly, vì đời mình bơ vơ nào có quen ai. Tàu hỏa là một thứ lãng mạn, như tôn giáo là một thứ lãng mạn, nguyện cầu gục đầu bên nhau. À quên, tôi còn nhớ cái tên Dung dầu tràm, thơm như dầu tràm xanh. Mong rằng hoài niệm được ướp thơm bằng dầu tràm của...Dung.
Xin tham khảo: Kreutzer Sonata Beethoven
Wednesday, November 26, 2025
Cầu Ngói Thanh Toàn
| Cầu Ngói xưa chưa bị cạo sửa |
Tôn Thất Tuệ
Năm 1957 hay 58, tôi đi bộ cùng đoàn học sinh dưới sự hướng dẫn của thầy Văn Đình Hy từ Quốc Học xuống Đập Đá, qua khỏi đập rẻ phải. “Cầu Ngói Thanh Toàn trực chỉ hành”. Còn nhớ một bạn đồng hành, sau nầy là bác sĩ Hà Thúc Như Hỷ (quá vãng 2024). Đeo ba lô nặng cho nên cứ hỏi bộ hành địa phương còn bao xa mới đến Cầu Ngói. Tôi được trả lời: gần rồi, chừng ba khâu rựa. Chèng đét! Đi mãi không tới. Ba khâu rựa là ba chục cây số hè!? Rựa thì khi mô cũng có ba hay hai cái khâu tròn để giữ cho lưỡi sắt khỏi sút, mắc chi lại dùng làm đơn vị đo đường. Nhưng rồi chập tối cũng đến nơi và ngủ trên cầu.
Việc đầu tiên hôm sau là tìm hiểu bí ẩn ấy. Dễ quá, theo lời một bà cụ, tay phải cầm cái rựa, đi một hồi mỏi tay đổi qua trái là một khâu rựa, mỗi lần đổi tay là một khâu rựa. Có ai thong dong mà đi hóng mát, khi mô cũng tay xách nách mang. Từ đây đi bộ ra Đập Đá mới có đò qua Đông Ba. Mỗi lần đổi gánh qua vai, đổi rỗ qua tay v.v… là một khâu rựa.
Một đơn vị rộng rãi, cao su, thật dễ thương, uyển chuyển chỉ gây ý niệm không cần cân đo, như trong Nam, chục xoài mười hai, chục mười bốn, chục mười lăm; đơn vị không gian cũng là đơn vị thời gian. Ta yêu em ngàn kiếp hay một kiếp cũng là yêu. Trái lại một chợp mắt một kiếp sầu vô vạn; hay một thoáng em qua dài hơn ngàn triệu kiếp luân hồi sinh tử. Ta sống được bao nhiêu khâu rựa? Rất dài và rất ngắn; vạn pháp duy tâm tạo.
Sinh hoạt lai rai, tập hò tập hát thì xế chiều có lệnh về. Không ai lo mấy khâu rựa. Đoàn học sinh được chở bằng đò dọc không mui, lách qua lách về (tiếp nối sông Như Ý?) thì đến sông An Cựu, chèo tiếp đến cầu Phủ Cam lên bộ về trường; tới ngay, một phần hai mươi (1/20) của khâu rựa chơ chi.
Tinh thần tự nhiên hài hòa giữa không gian vật thể và không gian nội tâm, giữa thời gian vật thể và thời gian quán niệm… tạo nên một Cầu Ngói Thanh Toàn, êm đềm như cảnh chùa nhỏ ngày xưa là Tra Am, không thách thức thiên nhiên như mũi tên gác chuông. Không kiểu cách cầu kỳ như cầu ngói Hội An. Dĩ nhiên khác với những chiếc cầu có mái trên thế giới với mục đích bảo vệ cầu trước thời tiết bất lợi. Cầu Ngói Thanh Toàn ăn nhập vào khung cảnh thiên nhiên, qua một hói nhỏ như hói Kẻ Vạn, Kim Long.
Từ lần thứ nhất theo đoàn học sinh, tôi không trở lại đây cho đến lần cuối 2001. Lần nầy tôi thấy quang cảnh còn như xưa, chưa xô bồ, chưa thành thị hóa. Nghe các cháu nói, ngày Tết nơi chỗ chợ nhóm gần cầu có bài chòi đúng cách xưa. 11 cái chòi như 11 cái miễu, thần sống áo xanh áo đỏ, lớn nhỏ, chăm chú nghe anh hiệu chít khăn đỏ hò một câu ca dao chuyển vào con bài đầu, ví dụ Hai bên lẳng lặng mà nghe con bài đi chợ: Khi xưa em nói rằng thương, để anh về bán nhà bán cửa, bán ông táo thổ công; nay chừ em nói rằng không, anh nghe như sấm sét giữa đồng ơi em. Ôn ầm. Trúng ba con trùng nhau là tới rồi, trống kèn ọ e, có người bưng mâm tiền chung và một lá cờ, trịnh trọng như nạp lễ cưới.
![]() |
| Cầu mái tranh Áo, Austria |
Đứng ở chân cầu, tôi say sưa với nét hài hòa, tưởng như đang nắm tay linh mục Teilhard de Chardin trên đường tổng hợp khoa học, tôn giáo và thi ca để đến sự nhất thống; cái to nhất nằm trong cái nhỏ nhất; cái nhỏ nhất sống yên lành trong cái to nhất. Hoặc gần hơn là cùng cựu tu sĩ PG Phạm Thiên Thư gõ chén mà ca: hiện hữu đây rồi, tôi không là tôi, người không là người; đâu chẳng là Phật, đâu chẳng là Trời?
@
Vì sao lại viết bâng quơ, không đầu đuôi xuôi ngược gì trơn? Viết thế vì tâm thần tôi chếnh choáng khi thấy một tấm hình Cầu Ngói Thanh Toàn như một kẻ son phấn không ra cách, vua Louis 14 mặc áo Liêu Trai. Ngói men mới âm dương; rồng rắn trên nóc và nhất là một cổng màu vàng, bạn phải chui qua mới lên cầu. Trông giống cái am lên đồng. Mọi thứ, mọi di tích thực sự đã bị cạo sửa, như bia trước trường Quốc Học. Mà bắt chước Hội An cũng không đến nơi. Cầu ngói Hội An cầu kỳ nhưng không bị bắn khỏi khung cảnh chung, trái lại hòa nhịp với bối cảnh và kiến trúc thời Faifo, thời “Phải Phố nầy em”.
Nghệ thuật tạo hình thể (lớn hay nhỏ) đi theo lối công dụng (functional) / lối trang trí (ornamental) / dung hòa hai thứ. Khó tìm ra một lối nào mà tả Cầu Ngói nhưng không quên Cầu Ngói chính là công dụng. Công dụng chính là ý nghĩa cao quý của Cầu Ngói, người xây cầu thêm mái ngói, cho ai lỡ độ đường ngủ qua đêm không bị sương lạnh.
Dùng Cầu Ngói mới mà diễn tả ý nguyện của người xưa và đường lối nghệ thuật dung hợp thì giống như vô Chợ Đông Ba mua con nộm thợ mã phấn son lòe loẹt mà thưa đây là hoa khôi của cố đô.
Cầu Ngói không còn là cầu qua lại giữa người và cảnh, giữa linh thiêng và hiện thực, giữa bộ bài tới và thái cực âm dương, giữa đường đất đo bằng khâu rựa và nỗi lòng đánh dấu bởi buồn vui. Đi cả triệu khâu rựa nữa cũng không đến được Cầu Ngói năm xưa. Chỉ còn một khâu rựa cuối cùng, đi từ tâm hồn đến vùng hoài niệm, có Cầu Ngói uyên nguyên chưa bị đưa vào lò sát sanh thẩm mỹ lọ, thẩm mỹ treo đầu heo bán thịt chó.---
=================================================

