add this

Wednesday, August 22, 2018

Kinh Di Đà và Zoroastrisme


tranh Tây  Tạng, Phật Di Đà
Kinh Di Đà và Zoroastrisme
tôn tht tu

Dưới đây là mấy dòng tham luận do một thân hữu yêu cầu viết về tài liệu ngắn kèm trong email:

Theo học giả TĐH ….. 
Các nhà Phật học dựa lên những tài liệu lịch sử và khảo cổ, sự thờ phụng Phật A Di Đà bắt nguồn từ vùng tây bắc Ấn Độ, do ảnh hưởng của đạo Zoroastrisme xứ Ba Tư, thờ Ahura Mazda biểu tượng bằng ánh sáng (từ đó tên Amita-bha, Vô lượng quang, và Amita-yus, Vô lượng thọ), và xuất hiện vào khoảng thế kỷ 1-2 sau CN.
Kinh đầu tiên nói tới Phật A Di Đà là Pratyutpanna-samādhi sutra (Kinh Ban châu Tam muội), dùng bởi các vị sư dạy thiền nổi tiếng ở vùng Kashmir. Phương pháp này gọi là buddhanu-smrti, tức là “niệm Phật”: hành giả phải hình dung tới đức Phật A Di Đà, ngày đêm không ngưng nghỉ, trong 1 tuần cho tới 3 tháng, rồi sẽ thấy ngài xuất hiện, giữa ban ngày hoặc trong giấc mơ, và sẽ được ngài thuyết giảng và cứu độ cho mình.
Kinh được dịch và truyền sang Trung quốc vào khoảng tk. 2 bởi Lokakṣema, là một nhà sư xứ Gandhara, gốc Nguyệt Chi. Vào tk. thứ 4, Sư Huệ Viễn, tổ thứ nhì của phái Thiên Thai, đã áp dụng phương pháp này cùng với các đệ tử tại Lư Sơn, và được coi sau này là vị sơ tổ của Tịnh Độ tông.
Kumarajiva. (Mahayana Buddhism, Paul Williams, 2009, tr. 212).
Do đó, có thể nói rằng sự thờ phụng Phật A Di Đà chỉ bắt đầu 5 thế kỷ sau đức Phật Thích Ca diệt độ, và không có liên quan gì tới đạo Phật.---

Theo một bài điểm sách, người Tàu khi dịch từ Sanskrit hay Pali đã phải dùng những danh tự sẵn có và hiện mang ít nhiều ý nghĩa, rồi biến thành những thuật ngữ (có nội dung muốn nói). Như Lai quản diễn kinh điển độ thoát chúng sinh, khi chỉ sự người, khi chỉ sự mình. Phương pháp nầy ghi trong Pháp Hoa gần như ý kiến của Khổng Tử phải nói những ví dụ cho người nghe có thể bắt đầu quan niệm được.

Phật giáo thành hình vào một lúc thung lũng Ấn Hà đã phát triển, các nền văn minh gặp nhau; nơi nầy lại nằm trên đường tơ lụa. Ngôn  ngữ học ngày nay chứng minh rõ rằng Sanskrit, Hy Lạp và La Tinh là ba đứa con cùng cha mẹ; nghĩa là các nền văn minh đã gặp nhau. Peter Della Santina trong cuốn The Tree of Enlightenment tôi có dịp giới thiệu cho biết PG dùng một số điều trong Ấn Giáo và ngược lại.

Ba Tư (Perse) được xem là một trong những nền văn minh cổ nhất loài nguời hiện nay biết tới. Nền tư tưởng ”hóa thạch” này đã ươm mầm đường lối sufism nhân bản, hiền hòa bất bạo động của Muslim; nhiều bài thơ của Rumi không khác chi các bài kệ xưa của Tàu, thiền tông thứ thiệt, không ba vớ như ngày nay.

Dông dài như trên chỉ nói rằng tư tưởng của Ba Tư nhiều chỗ tương đồng với các tôn giáo xuất phát từ thung lũng Ấn Hà (Indus Valley). Nhưng nói ý niệm vô lượng thọ vay mượn của Ba Tư thì người viết chỉ đi tới thế kỷ thứ hai sau TC. Phẩm 16 kinh Pháp Hoa có tên Như Lai Thọ Lượng mời bạn thấy thế nào là vô lượng thọ: lấy ba ngàn đại thiên thế giới tán nhỏ thành bụi, rồi đem mỗi hạt bụi để vào một thế giới, cho hết số bụi ấy; số thế giới dính bụi nầy tán nhỏ thành bụi nữa thì số bụi cũng ít hơn số lượng kiếp của ta.
Vô lượng quang chỉ về trí huệ vô lượng từ cực tiểu cho đến cực đại, từ sâu thẩm trong vô thức, sự cấu tạo duyên nghiệp.

Tác giả dù là TĐH hay Paul Williams dùng chữ “niệm Phật” cho lối thiền Kashmir là gượn ép nhưng cứ chấp nhận như vậy. Không thể phủ nhận lối hành đạo nầy. Nhưng vô cùng sai lạc, khi nêu sử liệu nầy, tác giả - vì không biết chăng? – đã không nói rõ thiền chính gốc là đạt tánh không và tâm vô phân biệt. Ở tam thiền, hành giả vì lòng mong muốn thành Phật sẽ thấy Phật, là một vọng tâm, phải bỏ qua; hoặc có thể thấy ma và cũng bỏ qua mà đừng cho pháp Phật là pháp ma. Tổ Lâm Tế (hay Tào Động) đã có danh ngôn làm nhiều người hiểu lầm: phùng Phật sát Phật, phùng ma sát ma, là để theo lối thiền đúng cách. Không thể vì sự lừa dối nầy để nói kinh Di Đà nằm trong đó.

Tiếp đến, tác giả còn nói Tịnh Độ Tông (TĐT) áp dụng phương pháp nầy. Thật ra, lúc đầu TĐT chỉ yêu cầu bổn đạo nhất tâm cầu mong vãng sanh cực lạc, sau đó có biến thể tùy địa phương là nghĩ đến hình tượng Phật Di Đà nhưng không phổ quát. Phật Giáo VN là tịnh độ, rõ nhất là tụng Kinh Di Đà nhưng không có lối Kashmir của Paul Williams.

Bài nhắc đến Lokaksema, thế kỷ 4, sinh và lớn lên ở Ghandara (Kandara, Afganistan) và dịch Ban Châu Tam Muội Kinh. Bên cạnh sự xuất hiện nghệ thuật điêu khắc, Ghandara là trung tâm phát triển chính yếu của PG đại thừa. Đô thị nầy chiếm địa vị quan trọng trong đế quốc Ấn Hy; nhưng nên hiểu đế quốc nầy là một phần ly khai từ đế quốc Bactrian-Hy của người Ba Tư; do đó không thể phủ nhận ảnh hưởng của xứ nầy. Tuy nhiên một học giả và nhà tu theo đường lối của Long Thụ khó bề dùng những thứ thuần túy của Ba Tư. Lokaksema dịch nhiều kinh; vài nhà nghiên cứu cho rằng cuốn Ban Châu Tam Muội ghép vào danh sách tác phẩm của ông chỉ là bản hiệu đính từ một bản không rõ nguồn gốc, không do ông dịch.

Tôi chưa bao giờ thấy cuốn nầy. TĐT chỉ bắt nguồn từ khi Kumajariva (Cưu Ma La Thập) dịch Phật Thuyết A Di Đà Kinh (Kinh Di Đà) vào thế kỷ thứ 5 thời Dao Tần.

Môn phái về sau gọi là Thiên Thai đã dùng hai bản dịch chính của Cưu Ma La Thập. Kinh Di Dà đưa đến TĐT và kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Pháp Hoa) đã làm cho trường phái nầy có tên Pháp Hoa Tông. Thiết nghĩ Huệ Viễn không dùng bản Ban Châu Tam Muội.

Bài viết ngắn quá sức sơ sài để quyết đoán một cuốn kinh đã gây ảnh hưởng bao trùm ở Á Châu. Thiết nghĩ việc nầy nằm trong khuynh hướng chung và rất vô vọng phủ nhận tất cả kinh không phải là kinh Pali, bằng cách nói các tạng điển nầy là của Long Thọ. Sự phân biệt cho là quyết định giữa đại và tiểu thừa đã không đứng vững. Long Thọ đã dùng Vi Diệu Pháp mà khai triển thành các luận về trung đạo, duyên khởi, tánh không. Đến độ có người còn nói ông là tác giả Kinh Na Tiên 100% thuộc Nam Tông. Pháp sư Trí Di (Thiên Thai) đã xếp chung kinh Pali và kinh Sankrit vào một hệ thống và phân chia thành ngũ thời.

Theo sự phân chia nầy, Kinh Di Đà thuộc giai đoạn phương đẳng. Lối định danh của Nhật Bổn trông hợp lý hơn. Họ gọi giai đoạn nầy là tiền đại thừa để chuyển qua giai đoạn Pháp Hoa Niết Bàn (Hoke Nehan). Vào lúc nầy xuất hiện các kinh có tính cách cứu độ từ bên ngoài đối với chúng sinh như Địa Tạng Bồ Tát, Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật, Di Đà Phật… ‘Hoke Nehan’ nói chúng sinh có khả năng thành Phật và cứu độ chứ không chỉ được cứu độ; (cứu độ đơn giản như thí pháp, làm thiện trí thức v.v…). Dùng một ví dụ để hiểu. Lúc đầu, cô gái được cho xem hình các người đẹp và biết thế nào là vẽ đẹp, sau đó cô được dạy chính cô cũng có vẽ đẹp.

Lối phân tích của Nichiren (Nhật) khác với quan niệm chung về đại thừa, tính theo thời gian sau giai đoạn A Hàm. Ngành nầy cho rằng đại thừa hiểu theo nghĩa lý thì áp dụng từ Pháp Hoa. Theo tạng nầy, mỗi chúng sinh là một vị hộ pháp và đủ sức đem giáo lý đến khắp nơi không cần phải có danh hiệu đại sư, sư ông, sư bà…. Đại thừa cũ vì đã một thời rất dài, giới tu sĩ chỉ cho chính họ mới có khả năng hiểu và thành Phật, họ giành độc quyền và đưa ra các điều vô nghĩa như kinh Pháp Hoa trổ nghiệp gây đau khổ, gây khó khăn trì hành.

Lối nhìn nầy không sai nhưng lồng trong khung cảnh đặc biệt của Nhật, nơi các tông phái đứng biệt lập, nhìn nhau có phần nào như một tôn giáo khác, tuy toàn quốc có “Hội Đồng Thánh Giáo”, không phải là cái dù chung mà chỉ tượng trưng bề ngoài (ở Nhật ‘thánh’ có nghĩa là Phật).

TĐT ở Nhật rất mạnh. Nichiren chỉ trích TĐT hoàn toàn dựa vào tha lực, tuy hai nhánh nầy do một người đem lý thuyết từ trường phái Thiên Thai của Tàu (TĐT do tổ thứ hai Huệ Viễn, Pháp hoa tông do tổ thứ 4 Trí Di). Dù có cách nhìn riêng rẻ như trên, TĐT vẫn được xem thuộc đại thừa với kinh chính Phật Thuyết A Di Đà Kinh.

Trong ngành Pháp Hoa Nichiren, một số người ngắn hiểu và theo tinh thần cục bộ ở Nhật đã xem Phật Di Đà không đáng trọng nhưng không phủ nhận kinh Di Đà như chủ trương độc tôn Pali từng làm.

Nói vậy thôi, chứ nhóm nầy không biết rằng kinh gối đầu của pháp môn đã ghi nhận vị trí của Phật Di Đà. Kinh Pháp Hoa nhắc đến Phật nầy hai lần. Thứ nhất, “bất cứ ai trong suốt cuộc đời chỉ đọc tụng một câu kinh Pháp Hoa sẽ được Phật Di Đà đưa tay đón nhận vào thế giới Cực Lạc”. Thứ hai, mười sáu vị vương tử anh em ruột thịt chia nhau làm giáo chủ các thế giới, có nơi hai vị. Thích Ca ở Diêm Phù Đề, Phật Di Đà ở thế giới Cực Lạc.

Sự khải hiện (revelation) nầy giải thích vì sao Phật nói A Di Đà bây giờ đang thuyết pháp. Câu mở đầu chính yếu: Tùng thị Tây Phương quá thập vạn ức Phật độ, hữu thế giới danh viết Cực Lạc kỳ độ hữu Phật hiệu A Di Đà kim hiện tại thuyết pháp). Thích Ca đã giảng yếu lý pháp thân với thọ lượng vô biên của chư Phật trong đó có Di Đà thì hà tất phải vay mượn của Ba Tư. Vì sao không đặt ngược vấn đề: Phải chăng Ba Tư đã mượn “vô lượng thọ” của PG. Zoroastrisme xuất hiện trước Thích Ca 500 năm; nhưng vay mượn có thể từ tam thế chư Phật. (Thật ra những ý niệm giống nhau về tôn giáo, triết lý và cả khoa học xuất hiện những nơi riêng rẻ).

Giới thiệu Kinh Na Tiên (Milinda vấn đáp), David Rys cho biết Asoka đã đưa Pháp (dhamma) qua Ba Tư, Hy Lạp đến tận Ai Cập; những nơi nầy đều có bia đá khắc chữ Hy Lạp và tiếng địa phương. Rys còn nói thêm, vua Melander (tức Milinda) bắt đầu cai trị đế quốc Ấn Hy khi vùng nầy đã nằm trong ảnh hưởng của Phật Giáo.

Xin trích lại kết luận của tài liệu: Do đó, có thể nói rằng sự thờ phụng Phật A Di Đà chỉ bắt đầu 5 thế kỷ sau đức Phật Thích Ca diệt độ, và không có liên quan gì tới đạo Phật.

Thích Ca (trùng hợp với Socrate, Khổng Tử, Jesus) dùng lối khẩu truyền tuy lúc ấy đã có ngôn ngữ, thứ ngôn ngữ làm gốc cho các ngôn ngữ chính yếu ngày nay (Indo-European languages) mà Peter Della Santina đã ca ngợi là phương pháp dân chủ vì không phải ai ai cũng biết đọc biết viết. Khi Ngài qua đời, đệ tử mới kết tập. Kỳ kết tập thứ nhất chỉ chú trọng tới luật và đời sống tăng già. Các kỳ kế tiếp thì rộng rãi hơn. Cần biết thêm rằng đệ tử của Ngài cũng đi thuyết giảng những điều đã học từ bổn sư.

Sự chậm trễ nầy ít nhất đã xẩy ra giống hệt với trường hợp Khổng Tử: Mạnh Tử, thế hệ thứ ba mới làm cho học thuyết của thầy được chú trọng. Nhưng không thể nói những điều Mạnh Tử ghi thành sách không liên hệ với thầy Khổng Khâu. Socrates cũng vậy, hàng đệ tử viết lại lời thầy, đặc biệt là Platon và Xenophon. Mặt khác mãi cho đến thời Gandhara mới có hình tượng Phật. Người viết câu kết luận trên đã không phân biệt sự kiện lịch sử và giáo lý.

Mới đây một nhà nghiên cứu lịch sử hành đạo Thiên Chúa đã minh định ông không có ý kiến về thần học, chỉ hoàn toàn nói về lịch sử. Ví dụ học thuyết của Arius về bản chất của Jesus được ông nêu ra khi nói khu vực nào chấp nhận, khu vực nào phản đối, ông chỉ nói đến số phận của Arius. Sự phân định rõ rệt nầy có thể tìm gặp gián tiếp trong nhận định của Rys khi ông lưu ý không nên dùng Milinda Vấn Đáp như sử liệu về thời đại và đời sống của vua nầy, tuy đó là cuốn sách hay mà Miến Điện liệt vào thánh điển.

Có thể vào thế kỷ thứ hai, Kinh Di Đà được trì niệm trong một môi trường đã quen thuộc với Zoroatrisme. Các hệ phái của các tôn giáo khác nhau cũng phát triển tùy vùng, tùy sở thích, tùy thời đại. Vả lại, PG không phải là một tôn giáo làm luật cho xã hội (a society bound religion) cho nên được uyển chuyển về hình thức qua các thời đại và qua các khu vực.


Ashura Mazda là một đấng tạo hóa sinh ra vạn vật, kể cả con người và mang hình hài con người (anthropomorphic). Quan niệm hình người và tạo hóa của Zoroaster hoàn toàn khác với các tôn giáo trong vùng Indus Valley. Và khác với PG. Về ngôn ngữ, Ashura tạm hiểu là sự hiện hữu (being), Mazda là tâm linh. Giáo chủ Zooaster khi nhìn theo hiện hình thì cho vị nầy thuộc phái nam, khi nhìn theo tâm linh thì vị nầy thuộc phái nữ. Ashura Mazda sống trong vùng ánh sáng, thuộc thiện tính, trong lúc kẻ đối nghịch Angra Maiyu sống trong bóng tối và ngu dốt. Hai bên hiện diện biệt lập. Ashura Mazda tạo ra vũ trụ hình quả trứng, muôn vật và con người. Trong lúc ấy Angra Maiyu tạo ma quỷ và các thứ độc ác như rắn, ong, kiến, ruồi. Người đọc sẽ bị rối trí. Nếu chỉ có Ashura Mazda thì tôn giáo nầy thuộc về nhất thần như các tôn giáo Abrahamic (Do Thái, Thiên Chúa, Muslim). Nhưng Angra Maiyu cũng là một đấng sáng tạo. Cho nên nền thần học nầy cống hiến một vũ trụ quan hàng đôi (a dualistic cosmology).

Thế nào pháp sư Lokaksema cũng biết sự khác biệt về thần học giữa PG và Zoroastrisme. Thực tế, người hành đạo không rắc rối về siêu hình và thần học, khuynh hướng tôn giáo của quần chúng bị ảnh hưởng bởi bối cảnh sinh sống. Zoroastrisme có quan niệm về đời sau (eschatology) gây sợ hãi, như người chết sẽ được phán xét khi qua cầu; sẽ gặp hoặc một thiếu nữ xinh tươi đưa lên thiên đàn hay một bà già ó đâm đẩy xuống địa ngục. Trong bối cảnh ấy, Kinh Di Đà rất thực tế: trì niệm danh hiệu Di Đà, nhất tâm bất loạn, lâm mệnh chung thời sẽ được đón tiếp vào thế giới Cực Lạc.

Đọc thấy thế giới của Di Đà (như bảy lớp màn tơ, không có tội ác, người người chỉ chú tâm đến thiện niệm), thiết nghĩ có ba điều nên dùng tới:

Một, tổng quát kinh các tôn giáo mang tính cách ẩn dụ (allegorie). Linh mục học giả được Vatican thích nhưng không chấp nhận Teilhard de Chardin yêu cầu nhìn lối nầy mà hiểu thì rất ổn thỏa. Ví như việc Jesus sống lại chỉ có nghĩa là tái sinh, và sai lầm là cho rằng chỉ có Jesus mới sống lại, thật sự mọi người có khả thể nầy.  de Chardin nhấn mạnh sự khác biệt giữa ẩn dụ và sự kiện đích thực của vật lý, của khoa học.

Hai, những điều Phật nói có thể ở cảnh giới mà chúng sinh không thấy. Con rùa xuống nước kể cho con cá những chuyện trên đất khô, cá tin và không tin.

Ba, những điều ngoài tầm tưởng tượng của ẩn dụ trong kinh Di Đà, con người có thể thực hiện nếu không phung phí tiền bạc vô duyên. Chim hót lừng vang trong khi VN không tìm ra con chim sẻ.

Tham luận nầy chỉ có giá trị như một cách đặt vấn đề cần đào sâu hơn.---



Phụ chú:  1- Lokaksema gốc Nguyệt Chi. Nguyệt Chi là phiên âm tên Tàu dùng để chỉ vùng đất rộng gồm Ba Tư, Afganistan, Pakistan …mà địa lý Tàu gọi là một bang liêng (confederation)  Yuezhi (月支)  2- Tài liệu duy nhất về Zoroastrisme dùng tham khảo là từ Wikidepia.

Xin đọc thêm trên blog nầy:





Friday, August 10, 2018

truyện ngắn Mai Thào










người thầy học cũ *** Mai Tho

Y gặp lại người thầy học cũ một ngày mưa lớn. Con đê chạy dọc hữu ngạn sông Đáy chỗ đó là giữa quãng Ba Thá, Vân Đình. Đường lầy. Kẻ đi ngược, người về xuôi. Cuộc kháng chiến gian khổ thu lại trong giây phút gặp gỡ bất thình lình một nỗi tủi mừng rưng rưng và cái hình ảnh buốt lạnh của con đường dài thẳm, trùng điệp hầm hố dưới mưa bụi trắng xóa. Xa xa dấu vết những làng xóm tiêu hủy còn lại.

Hai thầy trò nắm chặt tay nhau, mưa vẫn đổ lớn – cùng chạy đến trú dưới một gốc cây. Nhiều năm tháng qua đi từ ngày bỏ trường lăn mình vào cuộc đời, bây giờ Y đã lớn, đứng cạnh thầy cao hơn thầy hẳn một cái đầu. Thầy thì tuổi già đã làm cho thân hình nhỏ lại. Nhưng giữa hai người vẫn không có sự thay đổi. Người thầy vẫn vững chãi và tự tin hơn. Thái độ gương mẫu và che chở bên trong cửa lớp ngày nào Y vẫn nhận được.

“Thầy ở đâu xuống?”
“Tôi ở Ba Thá xuống”.
“Thầy vẫn dạy học”.

Người thầy học cười hiền lành:
“Phải, tôi vẫn dạy học nhưng trường làng vừa bị bom đốt cháy chiều hôm qua. Hôm nay tôi phải về Ty báo cáo. Ty ở dưới Vân Đình. Tôi mất hết, chỉ chạy được những cái này.

Những cái này: một cái bị cói, mấy bộ quần áo nâu và một cái gậy trúc.
Y nhìn cái cơ nghiệp nhỏ nhoi vô nghĩa, những đồ tùy thân cuối cùng còn sót lại của một cuộc đời đạo đức và liên tưởng tới hai hình ảnh: vị chân tu của một thời đại nào đi truyền bá trong khổ hạnh những tư tưởng đẹp cho nhân loại và hình ảnh một con đường mưa bay, buổi chiều xuống trên liên khu rộng lớn, người thầy học cũ lại một mình bước đi trên con đường đó mang trên mớ tóc bạc cái nghề đạm bạc cao quý, mang nặng nó trong đêm tối và mưa bão.

Mưa vẫn đổ lớn. Hai thầy trò đứng sát vào nhau hơn. Thầy nhìn trò, gật đầu:
“Các anh đổi thay nhiều lắm. Trưởng thành cả rồi. Nhưng mà ở đâu và bao giờ các anh vẫn nhận ra tôi, tôi vẫn nhận ra các anh. Anh thì vẫn còn nguyên vẹn cái nhìn lơ đãng ra ngoài cửa lớp những buổi trưa mùa hạ”.

Y trả lời:
“Vâng, con vẫn thế. Con vẫn nhớ con như thế”.

Giọng thầy trầm trầm trong tiếng mưa đổ rào rào:
“Chúng ta vẫn thế”.

Đôi mắt sâu của thầy nhìn xuôi theo con đường dài, qua màn mưa về tận cuối đường, xa hơn cái xa của cuối đường:
“Chiến tranh đổi thay hình thể những ngả đường trên đó chúng ta đi. Tất cả trở nên khó khăn cực nhọc và chua xót hơn cũ. Những ụ đất. Những hầm hố. Những chiếc cầu đổ. Hình như mưa bão cũng nhiều hơn”.

Và thầy thở dài:
“Chúng ta là những con người cũ đang tập đi trên những con đường mới”.

Rồi thầy quay lại hỏi:
“Còn anh, bây giờ anh làm gì?”
“Thưa thầy con đi buôn”.
“Đi buôn?”
“Con bỏ học từ sau Cách mạng tháng Tám. Thuyền hàng của con chắc bây giờ đang ngược dòng đi lên ở giữa khoảng Rót Rét. Con sẽ đón thuyền ở vùng Bương Cấn và nếu đêm nay ngớt mưa sẽ đi thẳng tới Phú Thọ”.

Người thầy “Thế à” một tiếng nhỏ rồi không nói gì nữa. Tính thầy vẫn ít nói. Mưa ào ào trên đầu. Trước mắt họ dòng sông Đáy đục đỏ chảy đi hung dữ. Bãi xa mịt mùng bên kia. Người học trò đứng lùi lại phía sau và nhìn thấy sát tầm mắt, những sợi tóc bạc gió thổi lay tạt trên khuôn mặt mà trông nghiêng vẫn đựng đầy cái vẻ trầm lặng cũ, những ngày xưa nhìn xuống Y trên một nền bảng đen. Những kỷ niệm những hình ảnh của một lớp học vừa trở về lướt thướt và buốt lạnh trên khoảng đường này. Những chùm hoa mùa hạ đỏ chói chang trên góc cửa sổ, sự hé mở của những giấc mộng ban đầu nở từ những chùm hoa rực rỡ ấy, nhịp bồng bềnh đẩy đưa của tâm hồn chạy đến những chân trời những thế giới hoang vu. Cánh bướm mỏng của niềm rung động mới. Những tấm kính sáng trong. Tiếng giảng bài trầm trầm đi giữa hàng ghế. Tà áo thâm và cái đỉnh mũ trắng. Những bực gạch mưa làm mòn cạnh đi lên từng cửa lớp. Lối kiến trúc cổ kính của một mái trường xây cất trên nếp thành đổ nát cũ lượn vòng giữa những hàng cây và những ao đầm. Thành phố ở dưới với tiếng hú dài của một tiếng còi tàu kéo theo những vệt khói còn treo lâu trên nền trời. Ý niệm thứ nhất về không gian trong chuyến đi tưởng tượng. Vụ hè sắp tới thấp thoáng hình ảnh con đường mất hút dưới nắng.

° ° °

Y nhớ thầy đã về sau một buổi tựu trường có nhiều thuyên chuyển. Cũng một buổi sáng mưa lớn. Có tiếng giày từ ngoài hành lang đi tới. Thầy vào, đứng lại một giây nhìn mọi người, nói: “Chào các anh”, đoạn đi thẳng lên bục cao. Giờ học thứ nhất được dành cho sự làm quen nhau. Người thầy bày tỏ nỗi vui riêng sau mười mấy năm ở rừng được đổi về một trường thành phố.

Thầy nói: “Trường cũ ở sát biên giới Hoa-Việt, học trò nửa Kinh nửa thiểu số. Trên ấy đêm rừng dài và buổi sáng nào cũng dầy đặc sương trong lớp học vừa mở cửa. Rừng thì trùng điệp ở chung quanh. Sân trường đôi khi còn in những dấu chân thú dữ. Và rét thì rét ghê rét gớm. Các học trò chân tay cũng cóng buốt và mặt mũi xám tái lại. Phải đóng kín cửa cho hơi nóng truyền đi một lúc sau mới làm việc được”.

Hình ảnh của một lớp học biên giới được gợi lên bằng giọng nói đặc biệt trầm trầm. Cái lối kể chuyện của thầy cũng khác. Và ngay lập tức, trong số bốn mươi lăm học trò chăm chú lắng nghe, từ một chỗ ngồi tận đáy lớp nhìn lên, Y cảm thấy mến yêu ngay người thầy học mới. Một nỗi mến yêu đặc biệt chưa từng có. Tưởng như một khám phá, một đổi thay lớn.

Trong một cuộc đời học trò, từng năm học đi lên, mỗi năm lại gặp một người thầy, nhưng trong tất cả những người thầy đó, thường vẫn chỉ có một người mà về sau lúc đã giã từ cửa lớp, ở mãi chỗ sâu xa cách biệt trong cuộc đời, mỗi lần nhớ lại là người học trò lại nhớ trước nhớ ngay đến người thầy ấy. Tại sao? Có thể vì một nét mặt, một giọng nói, được khắc sâu hơn vào dĩ vãng. Có thể vì một sự bắt buộc nào đó, trừu tượng và siêu hình, khiến cho tương quan tình cảm vượt khỏi mức bình thường, chứa đựng một ý nghĩa rộng lớn hơn.

Bài luận đầu tiên của Y được nhiều điểm nhất lớp. Một sự lạ. Ba hôm sau khi thầy trả bài, gọi đến tên, ngợi khen và mỉm cười bảo Y hãy đọc cho cả lớp nghe một đoạn văn hay, Y đứng dậy, tờ giấy trên tay run run và giây phút đó đã là cả một dấu son rực rỡ trong cái lịch sử học trò của Y từ trước đến nay vốn rất tầm thường tăm tối.

Y lười và lơ đãng. Trên tất cả các môn học, điểm số bao giờ cũng ở dưới cùng. Một sự đội sổ toàn diện. Suốt đời Y nhớ mãi cái giờ học lịch sử ấy của một tên học trò đội sổ ngồi tối tăm ở cuối lớp, lần đầu đứng lên ngượng nghịu, hồi hộp đọc cho cả một lớp im sững thán phục cái thành công thứ nhất của đời mình. Ngồi xuống còn cảm động.

Cả lớp không tìm hiểu được nguyên nhân sự đổi thay đột ngột này. Chính Y cũng không hiểu. Y đã viết bài luận ấy cho một người xem, nó là cái biểu tỏ cụ thể của một tình cảm chân thật và tốt đẹp gửi đến cho một người thầy đã tả được một cái trường học biên giới bằng “những dấu chân thú dữ” và “sương trắng dầy đặc cửa lớp buổi sớm”.

° ° °

Mưa vẫn đổ lớn.

Buổi chiều như đã muốn đến từ bãi sông bên kia. Trời thấp và xám. Con thuyền đầy hàng ngược dòng ở giữa khoảng Rót Rét bồng bềnh trong ướt lạnh còn là điểm vui ấm bé nhỏ so với tâm sự của người thầy mất trường, không biết sẽ về một nơi nào trong mưa bay.

Hai người cùng cúi đầu suy nghĩ. Thầy nói:
“Anh vừa nói hiện anh đi buôn đấy nhỉ?”
“Dạ”.
“Các anh làm thật nhiều nghề. Mỗi người một đường. Cuối tháng trước tôi có gặp một anh không rõ đã học tôi năm nào, làm khẩn hoang ở một đồn điền Nho Quan. Vùng ấy lam chướng, nước độc, rất có hại cho sức khỏe. Trông anh ta xanh yếu đáng ngại. Cứ như anh đi đây đi đó trên một con thuyền, có lẽ lại hay hơn”.
“Kể thì mấy năm nay, từ ngày ra trường con chưa từng có dịp được đi nhiều, thấy nhiều như bây giờ. Nhưng nghề buôn không phải là một chí hướng thích hợp. Nhiều lúc con vẫn cảm thấy đang làm một việc vô ích”.

Người thầy đáp:
“Tôi biết. Nhưng chúng ta bây giờ thường vẫn phải làm ngay cái việc nhìn thấy trong tầm tay với mà không có quyền từ chối, lựa chọn. Thế hệ các anh biết bao nhiêu người hiện đang đứng lạc vị trí, băn khoăn tìm đường. Ở tuổi các anh thật đau đớn. Chúng tôi thì không nói làm gì. Nhiều lúc cực nhọc vất vả, tôi vẫn thầm cảm ơn trời còn cho mình được cầm cái thước kẻ giảng bài. Tôi làm gì khác được nếu thôi dạy học?”

Thầy cười khẽ:
“Thói quen của nghề nghiệp đấy: Thấy các anh là hỏi về dự định vào đời. Không thích đi buôn, anh muốn làm gì?”
“Có một lần trong giờ luận, thầy nói đùa con có thể trở thành nhà văn, con vẫn ao ước thực hiện được câu nói đùa ấy”.
“Thế ư! Tôi không nhớ nữa, nhưng nếu có nói thì nói thực đâu phải đùa. Phải rồi, Việt văn là môn học xưa kia anh ham thích nhất”.

Giọng thầy trở nên ân cần:
“Cố gắng đi. Biết đâu chẳng một ngày tôi được đọc văn của một người học trò cũ là anh. Niềm an ủi lớn nhất của một người thầy vẫn là được thấy người học trò cũ của mình đi vào tương lai trên lối đi đã được phác định từ trong cửa lớp”.

Mưa bỗng ngớt đi, tiếng đổ ào ạt dừng lại. Mé sông bên kia, bờ bãi mịt mùng ban nãy nổi lên dần dần. Nhưng vòm trời thì vẫn thấp nặng và nghi ngút hơi nước. Trận mưa lớn vừa ngớt chỉ để sửa soạn cho một trận mưa lớn khác sắp đổ xuống.

Hai người ra khỏi gốc cây. Người thầy nhìn lên trời:
“Đã có thể đi được rồi. Tôi phải đi xuống Ty bây giờ cho kịp”.

Thầy quay lại, cánh tay gầy yếu đặt lên vai người học trò cũ:
“Lâu lắm mới gặp nhau tôi cám ơn các anh còn nhớ đến tôi. Các anh bây giờ đã khôn lớn cả, đã tự trưởng thành trong những kinh nghiệm, tôi cũng không có điều gì phải khuyên bảo nữa. Thôi anh ở lại”.

Giây phút giã từ này thật là cảm động.

“Con ân hận không được gặp thầy lâu. Con theo thuyền độ nửa tháng bán hàng xong rồi sẽ trở lại vùng này. Xin thầy địa chỉ để con được lại thăm trường mới”.

Người thầy gạt đi:
“Chính tôi hiện giờ cũng không biết rồi sẽ được thuyên chuyển đi đâu. Liên khu trong, một trường mới mở trong núi hay là nghỉ dạy vĩnh viễn không chừng. Chắc khó gặp lại, anh còn nhớ đến tôi là đủ và đừng băn khoăn về vấn đề tìm thăm tôi”.

Người thầy bước đi, cái bị cói nằm trên bờ vai gầy, gậy trúc chống xuống đường lầy. Y chạy theo thầy:

“Con đi buôn cũng không đến nỗi túng thiếu lắm. Thật tình không dám nghĩ đến chuyện trả ơn, nhưng con có giúp thầy được điều gì không?”

Người thầy lắc đầu mỉm cười:
“Tôi một thân một mình cũng không cần gì. Cám ơn anh. Thôi anh trở lại”.

Y đứng sững giữa con đê nhìn theo bóng dáng cổ kính của người thầy. Cái bị cói, cái gậy trúc, những sợi tóc bạc cứ nhỏ dần mãi. Rồi những cái điểm bé nhỏ ấy nhòa đi sau màn mưa.

Y gặp lại người thầy học cũ của Y lần ấy là lần cuối cùng. Bán xong chuyến hàng, Y lên bộ về thẳng Vân Đình. Hỏi thăm Ty Học chính ở đó, Y được biết người ta đã nói với thầy là các trường bị phá hủy gần hết, phải đợi một thời gian để lập trường mới và người thầy đã bỏ đi không để lại địa chỉ.
° ° °
Đến nay đã mười tám năm.

Viết văn, tôi thực hiện được cái ước vọng duy nhất của thuở nhỏ. Trong số những nguyên nhân thầm kín thúc đẩy tôi, tôi ghi nhận lời thầy khuyên nhủ cố gắng ngày nào trên quãng đường lầy.

Sự đổi thay quyết định một đời người thường vì những nguyên nhân nhỏ. Ở đây có thể vì lời khuyên của một người tôi kính yêu.

Từ đó tôi không gặp lại thầy, cũng không trở lại một cửa lớp nào nữa. Nhưng kỷ niệm còn giữ được của buổi học ấy, nỗi cảm động đứng giữa hàng ghế đọc bài luận ấy cho cả lớp nghe – nhớ lại – vẫn đưa tôi trở về được với cái thế giới học trò. Nó nằm trong chu vi một lớp học, nhưng rộng và riêng biệt đúng như một thế giới. Chùm hoa phượng, những phiến kính sáng trong, cái đỉnh mũ trắng, những ngày hè chói nắng. Câu văn đầu tay vụng dại, bỡ ngỡ. Trên tất cả, khuôn mặt trầm lặng của thầy ngó xuống như một nỗi bình yên.

Bây giờ đôi khi ngừng tay trên một trang bản thảo, lúng túng trước một danh từ, một ý tưởng diễn đạt khó khăn, tôi lại thấy những hàng chữ dập dập xóa xóa trước mắt bỗng phảng phất giống với trang giấy nháp của bài luận cũ. Hình ảnh người thầy lúc đó lại hiện lên. Tôi muốn được gặp lại, để nói, ít nhất cũng một lần, với thầy:
“Những trang giấy này có được một phần lớn nhờ thầy”.

Nhưng mà những dòng chữ tôi viết bây giờ chắc không bao giờ được biết tới những dòng mực đỏ phê điểm ấy nữa. Buổi gặp mặt cuối cùng. Con đường xa hút dưới mưa trắng. Số tuổi chất nặng lên cuộc đời đã xế chiều. Giọng nói trầm trầm ấy đã chìm lặng, tôi linh cảm như vậy. Cái gậy trúc ấy chắc đã rời khỏi cánh tay gầy yếu, rơi xuống một nơi nào đó, ở ngoài kia.

[Trích từ tập truyện Người Thầy Học Cũ, Nguyệt San Văn Uyển, số 14, tháng 6-1969]

Xuất xứ đây (FB Nguyễn Phúc Bá)




Wednesday, August 8, 2018

che chở em qua trận chiến dài


Quanh Chu Lai, Quảng Ngãi, QL-1, 1970
quê hương và em
Phan Tn Un gi Tuyết Mai

Anh g
i tên em mt sm mai
S
u nghe rưng rc bến Chu Lai
Nh
thương my ca thành đất Huế
Che ch
em qua trn chiến dài...
Mùa thu tr
ước em nhìn mây trng
L
ng đãng trôi theo mng cui tri
Bi
ến c năm Thân tràn máu la
Đưa em v sng gia chơi vơi...
Em l
n lên trong cuc chiến ny
Không ai nuôi d
ưỡng tui thơ ngây
M
t mình ngơ ngác nhìn bom đỗ
Đốt ri quê hương cháy c gy...

Anh bi
ết quê mình ngày la đỏ
Nh
ưng đành nước mt xót thương theo
Ai
đâu sng chết vùi trong la
Mù m
t vi trông lnh bóng chiu
M
hin anh đó và em na
Bi
n bit phương tri trn chy đâu 
G
ch đỗ tan tành chôn xác chết
R
ưng rưng anh khóc mt vì sao
Sau mùa xáp chi
ến v quê cũ 
Sung s
ướng nhìn em mun nghn ngào
Kiêu h
nh em làm cô gái nh
M
m cười đi gia bin trăng sao
Bóng t
i dng thôi bước tr v
Anh ru ti
ếng hát, hát em nghe
Nh
ng li kinh nguyn không hn di
Thê thi
ết bun hơn gió no n
Anh say
đip khúc con thuyn l
Đã tám năm dài không bến sông
Đất đỏ bi m mê mt quá
Gi
còn nghi ngi sóng mênh mông.

Em vào th
p sáng đêm huyn o
Anh ng
ước nhìn theo hướng hi đăng 
Trong kho
ng hn anh hoang vng y
Đường dài em có nh anh chăng
Ti
ếng nói em trong màu ngc bích
Tâm h
n em phơi phi pha lê
Anh
đi qua đó thiên thn dy
Nh
c ngút ngàn thơm tui dy thì
Gi
c mng giao hòa hương l ta
Th
n giao ngây ngt choáng men say
Lang thang b
n phía tri mang góp
Anh d
ng lâu đài ca la đôi
M
t sm mai nào anh bng thc
Nhìn quê h
ương tr đóa hoa thơm
Anh kêu rúng
động vang lòng đất
Súng
đạn ngng thôi giết Vit Nam
Em lên công chúa ngôi chung th
y
L
p loáng hào quang m du hin
T
ng ba đong đầy cơm nước Vit
Vành nôi ru bé ng
bình yên.

Anh v
n ngi đây nhn din mình
V
n còn nghe sóng v lênh đênh 
Chung quanh còn l
nh tng cơn gió
Không có em g
n chc chết anh...
Anh g
i tên em mt sm mai
S
u lên rưng rc bến Chu Lai
Nh
thương my ca thành đất Huế
Che ch
em qua trn chiến dài
Cho anh phiêu b
t thêm ln na
Mang bóng hình em
đến x người
Súng n
tng đêm thiên h ng
Anh làm thi s
ĩ vi em thôi
Anh g
i tên em mt sm mai
Quê h
ương em có s đêm dài 
Quê h
ương em có ôm hn ti
Anh
nơi ny gi Tuyết Mai...
(Quảng Ngãi Mùa Mưa 1969)


Ghi thêm:
Theo tự sự, Phan Tấn Uẩn đã đưa Tuyết Mai đến “trình diện” vời mẹ. Cô gái mới trổ mã 18 là cháu gái của một chiến hữu vừa chết trận, cô bé mà tác giả không để ý khi còn là sĩ quan truyền tin đến thăm nhà bạn. Giữa khi Huế còn hoảng hốt với trận Mậu Thân, Phan quân đi Chu Lai nhận nhiệm vụ mới tại một trạm truyền tin, lòng vẫn tin thành quách tiếp tục “che chở em qua cuộc chiến dài”. Mùa mưa 1969 bài thơ nầy ra đời, không bao giờ gởi. Tác giả không nói thêm vì sao cau đi đường cau, trầu đi đường trầu. 2014 trừ 1969, lời giải đúng là 45, con số là thời gian mà Mai ở trong thơ và trí tưởng, cho đến khi chàng thấy nàng xuất hiện là một bà chủ hiệu buôn ở Huế.