như hai cha con: Tố Hữu (trái) và Lê Duẫn
huế xây đền thờ ông ác
Văn
Biển
(thư gởi chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân
Huế
về việc xây đài lưu niệm Tố Hữu)
Vừa
rồi được biết ông ký quyết định phê duyệt đầu tư dự án Khu lưu niệm nhà thơ Tố
Hữu, nhằm tri ân những đóng góp của ông cho sự nghiệp đấu tranh cách mạng, xây
dựng đất nước, góp phần giáo dục truyền thống… Đó là việc nên làm, nhưng vào một
thời điểm khác và điều cần phải nói là với ai khác, chứ với nhà thơ Tố Hữu thì
tưởng cần phải cân nhắc có đáng làm không.
Khi đưa ra quyết định này các vị lãnh đạo trong tỉnh không biết mình đang đứng
ở thời điểm nào và nhất là không biết mặt trái của nhân vật mình đang suy tôn.
Chắc thời các vị còn cắp sách tới trường học trung học phổ thông, cũng như bao
triệu học sinh khác thời đó ở miền Bắc, phần lớn chỉ biết có thơ Tố Hữu. Các luận
văn tốt nghiệp các cấp đều lấy đề tài chính từ thơ Tố Hữu: Thơ Tố Hữu một thời
gian dài độc chiếm văn đàn trong nước và trong các trường học.
Không
phải Thơ Tố Hữu hay, mà vì thơ của một vị quyền uy, một thời gian dài là chúa tể
trên văn đàn. Nếu các vị có đọc thêm các sách tham khảo về nhà thơ thì cũng lấy
từ các sách của các nhà lý luận phê bình Nguyễn Đăng Mạnh, Hà Minh Đức, Nguyễn
Văn Hạnh, Trần Đình Sử… Thời đó ai viết về Tố Hữu đều phải đưa thơ ông ta lên tận
mây, họ viết vì một quyền uy quá lớn của Tố Hữu, phần họ viết vì phải sống, phải
tồn tại, phần viết cho phải “đạo” làm tôi. Đó là nỗi đau, nỗi hổ thẹn của một nền
văn học một thời mạt vận.
May
mắn sau này con cháu các vị tới nay thậm chí không biết Tố Hữu là ai, đừng nói
tới học, đọc và làm luận văn về thơ ông ta. Hãy làm một cuộc điều tra nhỏ các vị
sẽ rõ. Rõ ràng và cũng đau đớn thay cho nhà thơ. Thơ của nhà thơ đã chết khi
nhà thơ còn đang sống, vừa mới mất quyền uy. (Thật ra chỉ là cái ghế ngồi đầy
quyền lực, một phần do hoàn cảnh, một phần do ông ta tự tạo ra). Do đó khi mất
ghế thì mọi thứ phù phiếm đều theo nó mất đi.
Trong
văn học nước nhà, văn học thế giới chưa có thơ của nhà thơ nào chết yểu nhanh
như vậy.
Đó cũng là kết quả của một thứ quyền uy khác. Quyền uy tối thượng, mạnh hơn. Quyền uy của thời gian. Một sự sàng lọc vô tư, công bằng, nghiệt ngã không chừa bất kể người đó là ai. Có thể nói đó là một tấn bi hài kịch, nhà thơ lãnh đủ, không có nỗi đau nào đau hơn, nỗi đau lúc cuối đời. Nếu có lúc nào, bình tâm nghĩ lại sẽ thấy. Hóa ra cuối cũng tất cả chỉ là phù vân, phù phiếm cả mà thôi.
Đó cũng là kết quả của một thứ quyền uy khác. Quyền uy tối thượng, mạnh hơn. Quyền uy của thời gian. Một sự sàng lọc vô tư, công bằng, nghiệt ngã không chừa bất kể người đó là ai. Có thể nói đó là một tấn bi hài kịch, nhà thơ lãnh đủ, không có nỗi đau nào đau hơn, nỗi đau lúc cuối đời. Nếu có lúc nào, bình tâm nghĩ lại sẽ thấy. Hóa ra cuối cũng tất cả chỉ là phù vân, phù phiếm cả mà thôi.
May
ra vẫn có một chút “an ủi”. Tố Hữu vẫn còn lưu lại hậu thế một số câu, một số
bài “đáng nhớ”, đó là những bài “Tụng ca” hoặc những bài thơ khóc các lãnh tụ
giết người. Chắc chắn ông ta không khóc mướn vì bản thân ông không cần làm chuyện
ấy như một số nhà thơ nổi tiếng đương thời buộc phải làm những việc trái với
lương tâm, đạo đức nghề nghiệp. Đó là những bài thơ khóc các tên đao phủ, các bạo
chúa thế giới: Mao Trạch Đông, Staline, Lénine… mười mấy bài thơ ông ta viết về
HCM trong những năm đầu cách mạng rồi cũng không còn mấy ai đọc, mấy ai nhớ.
***
Trong
quyết định làm khu lưu niệm, các vị có nói để tri ân những đóng góp của nhà thơ
cho cách mạng. Về thơ ông thì như trên tôi đã nói, đó là chưa kể khi còn phụ
trách tuyên giáo (bao gồm cả lãnh đạo văn hóa, văn nghệ) ông ta là một hung thần,
miệng hét ra lửa, bàn tay nhà thơ đã sát hại, lưu đày bao đồng chí, đồng nghiệp,
nhất là trong vụ Nhân văn giai phẩm, um xùm một thời.
Lạ
thật, theo cách mạng không sớm hơn ai, học vấn, văn tài không hơn ai, chẳng hiểu
làm sao từ một cậu thư sinh Huế hiền lành, sau lên chiến khu Việt Bắc, rồi trở
về Hà Nội biến nhanh thành một gã hung thần như có một phép màu. Điều này có lẽ
chỉ nhà thơ và những người trong cuộc mới biết. Tất cả anh em trong giới văn học
nghệ thuật dẫu tuổi tác, tài năng học vấn lớn hơn, cả những người theo cách mạng
sớm hơn, nhưng đều sợ ông ta một phép.
Nổi
tiếng ngông như Nguyễn Tuân không dám ho he chỉ than thở: nếu biết thế này đi học
nghề y. Nguyễn Đình Thi học vấn nghề nghiệp là thế, luôn cúi đầu dạ dạ vâng
vâng. Lê Đạt nói một câu để đời: Sợ không dám làm người. Nguyên Hồng gan đầy
mình thốt lên một câu xanh rờn: ông đếch chơi với chúng mày, rồi dẫn vợ con lếch
thếch kéo nhau lên Yên Thế không phải cốt tìm “một con đường” khác, mà vừa khai
hoang làm rẫy, kiếm sống qua ngày vừa tiếp tục cày trên trang giấy. Nhà thơ Hữu
Loan, cây bút tài hoa, tác giả của bài thơ nổi tiếng Màu tím hoa sim bẻ bút trở về quê đi làm thuê, làm mướn, kiếm sống
qua ngày. Quang Dũng nhà thơ nếu chỉ với bài thơ Tây tiến cũng đủ làm nên tên tuổi… hàng ngày người ta gặp Quang Dũng
trong công viên Thống Nhất, một mình ngồi ủ rũ, người như mất hết nhuệ khí.
Còn
biết bao người khác nữa dưới mắt nhà thơ chẳng là cái gì cả. Một số anh em khác
bị lưu đày đi cải tạo không có ngày về. Sự chăn dắt văn nghệ sĩ không khác một
vườn nuôi thú.
Sông Mã gào lên khúc độc hành; Tây Tiến, Quang Dũng
Lê
Duẫn có nhiều thế lực vì “công lao giải phóng miền Nam” đã lấn áp HCM thì Tố Hữu
đã bỏ “cụ”, bỏ “bác”, nhảy nhanh qua triều Lê. Có một bức ảnh chụp nhà thơ ngồi
nép dưới nách Lê Duẩn, hệt như đứa con ngồi núp tựa dưới bóng cha…
Nhờ
vậy nhà thơ được sắp xếp sẽ lên chức tổng bí thư đảng, nhưng số phận cũng vừa
may cho ông ta, vừa may cho cả nước. Vụ Giá lương tiền do nhà thơ khi đó là phó thủ tướng, phụ trách kinh tế chủ trương năm 1985, suýt đưa đất nước
vào tình trạng hỗn loạn, và ông ta buộc phải về hưu sớm. Nói may cho ông ta, và
cũng may cho cả nước, nếu nhà thơ làm tổng bí thư thì không biết chuyện gì sẽ xảy
ra khi nhà thơ lãnh đạo, nắm mọi quyền hành, hoặc nhà thơ cùng nhân dân lên mây
hoặc tất cả cùng sa xuống địa ngục của sự bần cùng hóa. Bao nhiêu tiếng thở
phào nhẹ nhõm. Có thể Tố Hữu không tự biết mình là ai. Ở đây có thể
trách Lê Duẩn chọn người theo cảm hứng.
Thơ
đã vậy, bản chất con người đã vậy, sự nghiệp đã vậy, xin hỏi lấy cái gì để giáo
dục truyền thống cách mạng cho dân, cho lớp con cháu sau này.
***
Bây
giờ xin nói về thời điểm để xây khu lưu niệm. Ai cũng biết đất nước đang nợ như
chúa Chổm. Có người nói vui chúa Chổm có thể gọi các vị lãnh đạo ta bằng cụ. Nợ
xấu, nợ cũ, nợ đòi không được, nợ chồng lên nợ. Nợ không trả nổi… Nhưng
đây đó người ta vẫn cứ ung dung dựng tượng, xây đài. Dường như các vị lãnh đạo
các tỉnh áy náy không yên khi không có tượng đài, khu lưu niệm cho tỉnh mình. Cảm
thấy có lỗi với tiền nhân và hậu thế. Hoặc người ta quá thừa tiền không biết
dùng tiền để làm gì nữa.
28
tỷ để xây Khu lưu niệm Tố Hữu. 28 tỷ không phải là nhiều đối với số tiền hàng
trăm, ngàn tỷ thất thoát trong các vụ tham ô. Nhưng đối với người dân, đối với đất
nước còn nghèo không phải là con số nhỏ. Đó là chưa nói tới mấy nghìn mét vuông
đất để bà con canh tác trồng rau, cây ăn quả, có cái ăn hàng ngày, nuôi con cái
đi học. Thừa Thiên – Huế không phải là miền đất giàu có, đất rộng người thưa. Nếu
tỉnh chưa khởi công xin hãy vì đời sống, miếng cơm manh áo của người dân quanh
năm lam lũ, chưa có lấy một ngày vui trọn vẹn suy tính thiệt hơn, có nên khởi
công hay tiếp tục làm công trình này không.
Thay
vì lo cho người chết (không một chút xứng đáng) hãy dành cho người sống bữa cơm
no, chiếc áo mặc, thiết thực hơn. Đất nước ta còn quá nghèo, người dân còn quá
cực khổ bữa trưa chưa no đã vội lo bữa tối, lại còn gánh bao nhiêu thứ thuế, đến
nỗi có bao nhiêu chuyện tự tử xảy ra.
Chắc
chắn dân chúng và con cháu họ sẽ biết ơn các vị lãnh đạo trong tỉnh nhà. Tượng
đài lớn nhất, vĩnh cửu là ở trong lòng dân, từ thế hệ này sang thế hệ khác, mưa
nắng, gió bụi thời gian không bào mòn, mà còn tô rõ thêm với lòng biết ơn con
cháu mai sau.
Tại
một vài miếu đền chùa, người ta có thờ Thần Thiện lẫn Thần Ác. Họ có lý do
riêng. Nhưng làm khu lưu niệm để mọi người đương thời và lớp con cháu mai sau
tưởng nhớ tới nhà thơ có “sự nghiệp” nổi tiếng hung thần như thế tưởng không
nên. Trong tỉnh, trong nước chẳng lẽ không có vị nào đáng suy tôn?
Nguyễn Tuân
Chuyện
Lê Đức Thọ là một bài học sống… ông ta còn có hỗn danh là Sáu Búa… Ông ta có
cách giết người không giống ai… Giết một người mà bao người khác phải sợ chờ tới
lượt mình, (những người bị nghi theo chủ nghĩa xét lại) mộ ông ta ở nghĩa trang
Mai Dịch, mỗi sáng ai đó đem vứt lên mộ một túi phân, sau gia đình phải lén dời
hài cốt ông ta đi nơi khác và sau này cũng không ai nghĩ tới chuyện làm
khu lưu niệm. Chắc không phải gia đình hay tỉnh Nam Định không muốn làm, mà thấy
không nên làm. Chỉ riêng chuyện lấy tên ông ta đặt cho một con đường cũng gây
om xòm, tai tiếng.
Chuyện lớn, chuyện nhỏ hàng trăm con mắt thế gian nhìn vào. Đó là chưa nói tới độ lùi của lịch sử. Một khi lịch sử đã có một độ lùi cần thiết, lúc đó sự đánh giá sẽ công bằng hơn giữa công và tội.Lúc đó ai chính, ai tà đều được lịch sử phán xét phân minh.
Tố Hữu và bao nhiêu nhân vật lớn khác cũng không tránh được sự phán xét công minh này. Lê Kiến Thành, con trai của Lê Duẩn gần đây, nhân trả lời một cuộc phỏng vấn đã phân bua với mọi người: “Lịch sử đã không công bằng với ba tôi”. Thưa ông, không có chuyện đó đâu. Lịch sử vốn rõ ràng và rất công minh. Với lại một khi lịch sử đã có độ lùi cần thiết, lúc đó sẽ có sự đánh giá rõ ràng, công bằng minh bạch giữa công và tội. Ở bên Tàu, từ lâu người ta đã đánh giá họ Mao công bao nhiêu, tội bao nhiêu, mà khi ông ta còn sống không một ai dám nói lên điều này. Lịch sử sẽ thay mặt nhân dân làm công việc hết sức cần thiết này. Không một ai tránh khỏi. Tố Hữu được đánh giá ngay vì “công trạng” ông ta quá rõ, không cần đợi thời gian kiểm định.
Chuyện lớn, chuyện nhỏ hàng trăm con mắt thế gian nhìn vào. Đó là chưa nói tới độ lùi của lịch sử. Một khi lịch sử đã có một độ lùi cần thiết, lúc đó sự đánh giá sẽ công bằng hơn giữa công và tội.Lúc đó ai chính, ai tà đều được lịch sử phán xét phân minh.
Tố Hữu và bao nhiêu nhân vật lớn khác cũng không tránh được sự phán xét công minh này. Lê Kiến Thành, con trai của Lê Duẩn gần đây, nhân trả lời một cuộc phỏng vấn đã phân bua với mọi người: “Lịch sử đã không công bằng với ba tôi”. Thưa ông, không có chuyện đó đâu. Lịch sử vốn rõ ràng và rất công minh. Với lại một khi lịch sử đã có độ lùi cần thiết, lúc đó sẽ có sự đánh giá rõ ràng, công bằng minh bạch giữa công và tội. Ở bên Tàu, từ lâu người ta đã đánh giá họ Mao công bao nhiêu, tội bao nhiêu, mà khi ông ta còn sống không một ai dám nói lên điều này. Lịch sử sẽ thay mặt nhân dân làm công việc hết sức cần thiết này. Không một ai tránh khỏi. Tố Hữu được đánh giá ngay vì “công trạng” ông ta quá rõ, không cần đợi thời gian kiểm định.
***
Lénine vẫn nằm ở công viên Budapest cho người xem
Lénine vẫn nằm ở công viên Budapest cho người xem
Lại
nghe nói các lãnh đạo ở hai tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị cũng chơi sang. Quảng
Bình xây khu tưởng niệm Fidel Castro. Còn công viên Fidel Castro ở Quảng Trị.
Phải công nhận các vị lãnh đạo hai tỉnh trên có lòng yêu và trọng “người hùng”
khắp thế giới. Nhưng khi chọn Fidel Castro các vị không biết đời sống mặt trái
hết sức xa hoa của ông ta trong khi Cuba còn nghèo đói. Ngoài ra ông ta còn ham
hố quyền lực quá lớn… Nếu vì tình nhân loại bao la thì trên thế giới còn biết
bao người tài đức và những cống hiến họ để lại cho dân và cho nhân loại xứng
đáng hơn(2). Chẳng hạn Mahatma Gandhi, nhà chính trị Ấn Độ hoặc nhà thơ lớn
Tagore để lại một di sản lớn thơ cho đất nước mình và cho nhân loại.
Nhân
đây cũng xin nói thêm các vị lãnh đạo các tỉnh đừng biến Việt Nam thành mảnh đất
của các tượng đài và khu lưu niệm. Dầu các tượng đài là của những vị anh hùng
thật. Becton Brecht nhà thơ Đức có nói một câu rất hay, rất nhân bản: “Thương
thay một dân tộc lắm anh hùng”.
***
Bây
giờ xin nói về những “bài thơ để đời” của Tố Hữu. Có sáng kiến đề nghị đặt ở lối
vào chính khu lưu niệm tấm bia lớn khắc (bằng chữ lớn) bài thơ đầy ấn tượng:
Giết,
giết nữa, bàn tay không phút nghỉ
Cho
ruộng đồng lúa tốt thuế mau xong
Cho
Đảng bền lâu cùng rập bước chung lòng
Thờ
Mao chủ tịch, thờ Xitalin bất diệt.
Cả
bài thơ nhuộm toàn máu, máu của ai? Vào thời điểm tác giả làm bài thơ này là
trong thời kỳ cải cách ruộng đất không có những kẻ thù ngoại xâm, vậy là máu của
đồng bào. Và máu đó nhà thơ thờ ai?
Câu
cuối của bài thơ đã nói rõ, tưởng không cần phải nhắc lại. Nhà thơ đã hoàn toàn
mất tính người. Người ta chợt nhớ bài thơ tác giả viết khi còn là chàng thư
sinh hiền lành xứ Huế:
Đã
chết rồi con chim của tôi
Con
chim nho nhỏ mới ra đời
Hôm
qua nó hãy còn bay nhảy
Chỉ
một ngày giam đã chết rồi.
Hai
bài thơ để cạnh nhau, hỏi ai có thể tin cùng một tác giả? Không thể đổ lỗi cho
thời gian. Càng về già, theo quy luật, trải qua nhiều biến cố đau thương của đất
nước, cùng bao nỗi trầm luân của kiếp người, con người, nhất là thi nhân, càng
hiểu nhân tình thế thái hơn, càng nhiều yêu thương, đau xót và nhân đạo hơn.
Hai bài thơ trên nói lên đầy đủ tư cách, nhân cách của nhà thơ, của người ngay
từ thời trẻ đi làm cách mạng với mục đích giải phóng lớp người nghèo khổ nhưng
càng về sau ông ta đã làm điều ngược lại. Chức vụ càng cao quyền uy càng lớn,
tình người ngày càng mất đi…
Xin
trở lại những bài thơ, câu thơ “để đời”. Và rải rác trên các lối đi trong khu
lưu niệm những tấm bia khác cùng những câu thơ khác của ông:
Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương mình thương một thương ông thương mười.
Hoặc:
Yêu
biết mấy, nghe con tập nói
Tiếng
đầu lòng con gọi Xitalin.
Và:
Ơn
này nhớ để hai vai
Một
vai ơn Bác, một vai ơn Người (Xitalin).
Hoặc:
Con
còn bé dại con ơi
Mai
sau con nhé trọn đời nhớ Ông…
Và
còn, còn rất nhiều câu vớ vẩn nữa, viết mà không biết mình viết gì “Cứ như người
máy viết” (Triều Xuân). Và khuất đâu đó, ở một góc có một tấm bia khắc mấy
câu thơ của một nhà thơ khác (Xuân Sách).
Ta
đi tới đỉnh cao muôn trượng
Mắt
trông về tám hướng phía trời xa
Chân
dép lốp bay vào vũ trụ
Khi
trở về ta lại là ta
Từ ấy
tim tôi ngừng tiếng hát
Trông
về Việt Bắc tít mù mây
Nhà
càng lộng gió thơ càng nhạt
Máu ở
chiến trường hoa ở đây.
(Trích Chân dung nhà thơ của Xuân Sách)
Tưởng
nên nhắc lại vài ý trong bức thư của Nguyễn Khắc Viện gửi Tố Hữu có những đoạn
như sau:
Anh
bảo anh làm bí thư (TƯ Đảng) nhưng không bí thơ. Chúng tôi thấy anh càng quyền
cao chức trọng, đọc thơ anh càng thấy nhạt nhẽo.
Anh
mà trở lại Trung ương, trở lại chức quyền là chôn vùi sự nghiệp thơ trong
lòng nhân dân. Rút lui đi anh Tố Hữu cứu lấy nhà thơ Tố Hữu.
Xuân
này anh hãy chen vào đám đông đi chợ hoa, đi hội làng Gióng hay Đồng Kỵ, chứ
không phải tiền hô hậu ủng nữa.
Anh
mà trở lại Trung ương, Bộ Chính trị thì bài báo đối ngoại đầu năm tôi phải viết sẽ
là bài “la mort d’ un poete” (cái chết của một nhà thơ)…
Kính
thư
Nguyễn
Khắc Viện, 8 Nguyễn Chế Nghĩa, Hà Nội, 30/11/1986.
Nhiều
người đọc bức thư tâm tình này tha hồ đoán Tố Hữu sẽ làm gì khi nhận được
bức thư. Có người vui mừng, nhà thơ sẽ nghe ra, xã hội bớt đi một hung thần… Lại
có người cười nhạt. Tội nghiệp bác sĩ Viện đem đàn gảy tai trâu. Và quả
đúng như thế, nhà thơ chắc chỉ lướt qua rồi tự nhủ. Hắn chẳng hiểu chi mô hết.
Nhưng
có một chuyện không liên quan gì tới bức thư, đã cứu nhà thơ và cứu đất nước, vụ
Giá lương tiền đã buộc Tố Hữu về nghỉ sớm, nhưng không phải ra chợ hoa xuân với
anh em mà lui về ngôi biệt thự đường Phan Đình Phùng, một mình một bóng, cả
ngày không có tiếng chuông reo hay tiếng gõ cửa của bao người tới cầu cạnh như
hồi nào đương quyền đương chức.
Vài
lời cuối: Nếu may mắn bức thư này tới nơi nhận,
xin các vị hãy bỏ chút thì giờ, quan tâm tới những điều viết trong bức thư khá
dài, với tất cả sự cố gắng của một người tuổi đã ở ngưỡng 90, cố sức viết với cả nỗi đau và tâm huyết
của mình.
Kính chúc các vị sức khỏe!
Kính
thư
Văn
Biển
29.01.2019
29.01.2019
Bức thư ghi thêm phụ chú về xã hội
hiện tại:
(1)
Xin kể hai mẩu chuyện nhặt được trên các báo hàng ngày.
Chuyện
thứ nhất: Gần đây trên báo chính thống và các trang mạng xã hội um xùm về
chuyện 152 người Việt mình đi du lịch Đài Loan trốn ở lại. Nhiều người nghi họ
sẽ trốn sang nước thứ ba, thứ tư nào đó để có cuộc sống sung sướng hơn… Có thể ở
đó họ đã có sẵn cơ sở nhà cửa chuẩn bị từ trước. Một số nghi họ sẽ ở lại Đài
Loan, xin nhập cư lâu dài, và mua biệt thự như một số đồng bào sang định cư ở
các nước Châu Âu, Bắc Âu.
Nhưng
rồi chính quyền sở tại lần lượt tìm ra manh mối những người bỏ trốn. Họ bị trả
lại Việt Nam! Hóa ra những dự đoán trên đều là chuyện trên mây, trong mộng. Tất
cả trốn ở lại với mục đích đi lao động chui, còn mấy cô gái người ta bắt
được ở các nhà thổ! Đúng là chuyện lạ xưa nay hiếm. Đi kiếm sống, bằng sức lao
động, bằng vốn tự có của chị em mà cũng phải chui lủi. Họ bị dư luận và các cơ
quan hữu trách lên án với: Làm nhục quốc thể!
Chẳng
hiểu khi bị dẫn về nước họ phải chịu hình phạt gì, có phải đối mặt với tòa án
không. Chỉ xin được hỏi một câu: Ai gây nên nông nỗi này, nếu ở quê nhà làm ăn
sinh sống bằng sức lao động của mình, không bị áp bức bóc lột, không phải sưu
cao thuế nặng họ đâu phải dại dột qua xứ người lao động chui? Cực khổ trăm bề.
Những người đó đáng thương hay đáng bị lên án?
Trong
lúc đó, mấy năm nay có trên 5 triệu người Việt Nam rời bỏ quê hương qua các nước
tư bản, họ có sẵn biệt thự, dinh thự, con cháu mua trước ém sẵn, chắc chắn sẽ sống
như các ông hoàng bà chúa. Sẽ có người tò mò hỏi, vậy họ lấy tiền ở đâu ra mà lắm
thế, xin thưa: bằng nhiều cách. Một số các quan tham, các tướng lĩnh, chủ
các ngân hàng… và nhiều thủ lĩnh các cơ sở kinh doanh của nhà nước, lâu
nay được mệnh danh là những quả đấm thép, một số bị bắt đưa vô lò nướng của tổng chủTrọng, một số may ra trốn thoát và nay bắt đầu thời kỳ vàng son. Còn một số
không ít nằm trong các sân sau, sân trước của phe lợi ích nọ, nhóm lợi ích kia.
Phải hiểu điều này, loại người này càng sướng bao nhiêu, chiếc lưng của người
dân càng còng xuống bấy nhiêu, vì lao động quanh năm vất vả, cộng với những
gánh nặng của các loại thuế má đè lên.
Những
điều vừa nói trên đều có liên quan tới vụ 152 người trốn đi lao động chui ở Đài
Loan.
Có
một điều oái oăm, những người bị xã hội lên án làm nhục quốc thể, còn những người
cũng trốn đi (hoặc đi hợp pháp đàng hoàng) thì sẽ được coi như Vinh danh quốc
thể???
Nghĩ
mà buồn!… và đau lòng!
Chuyện
thứ hai: Cách đây mấy tháng báo chí có đưa tin chuyện hai người mẹ tự tử với hai
cách chết đáng thương nhưng hoàn toàn khác nhau. Một bà mẹ cho mấy đứa con uống
thuốc độc, chờ bọn nhỏ chết rồi, người mẹ uống thuốc độc chết theo, vì mấy mẹ
con không còn gì để sống, (bố bọn nhỏ nghiện ngập đủ thứ, đã bỏ nhà ra đi). Cái
chết thứ hai thì có khác, một mình người mẹ uống thuốc độc rồi một mình ra đi,
để bọn trẻ nheo nhóc ở lại, với hy vọng tiền phúng điếu của bà con nghèo lối
xóm, chúng tạm sống được mấy ngày, sau đó sẽ có tiền trợ cấp xã hội.
Chỉ
là chuyện hàng ngày trên… báo chí giữa vô vàn những tin giật gân khác trong nước
và ngoài nước, rồi mọi người sẽ quên đi chuyện đau thương của hai người mẹ tự tử.---
A Phòng và tượng đài
Phạm
Lưu Vũ
Tần
Thủy Hoàng chết trong lúc đang xây dựng cung A Phòng. Tần Nhị Thế lên ngôi,
vẫn tiếp tục cho xây dựng cung A Phòng, mặc dù việc đó góp phần làm nản lòng
dân và kiệt quệ nước Tần...
Lý
luận của Tần Nhị Thế hết sức đơn giản và... khốn nạn như sau: "Nếu bãi bỏ
việc đó (xây dựng cung A Phòng), thì khác nào chứng tỏ cái sai của tiên đế (trỏ
Tần Thủy hoàng)..."
Tố
Hữu sau khi làm một kẻ đao phủ về văn hóa, hoàn thành việc bức hại hàng loạt
nhân tài của đất nước, bóng đen lù lù khủng khiếp một thời của ông, khiến nhiều
đời sau còn phải rùng mình, và lịch sử chắc chắn sẽ nguyền rủa, thì ông lại
chuyển sang làm một khủng đại gian thần, tiêu diệt những quy luật phát triển của
nền kinh tế, khiến cho đất nước lao đao, đẩy bao nhiêu số phận vào kiếp sống khốn
cùng...
Ông
chết, gia đình ông buộc phải trả lại nhà công vụ ở Phan Đình Phùng (nơi có
"cây táo ông Lành"). Nhà nước hóa giá rẻ như cho không gia đình ông một
tòa biệt thự khác ở phố Hồ Xuân Hương. Gia đình ông cho hãng dầu Mobi thuê với
giá 8.000 USD/tháng. Bà vợ ông chuyển về ở với con ở Thành Công.
Và
từ chỗ ở này, bà già tham lam vô sỉ ấy cố đòi cho được một cái nhà khác, theo
tiêu chuẩn tương đương thứ trưởng của bà (phó ban tuyên ráo trung ương), mà gào
lên rằng ông không có chỗ để lập một cái bàn thờ cho tử tế...
Căn
biệt thự ở HXH, cái gia đình đáng khinh bỉ ấy đã bán cho Phạm Nhật Vũ, em trai
Vượng Vin, đút túi hàng ngàn cây vàng.
Và
bây giờ người ta lại xây tượng đài, "khu lưu niệm"... về Tố Hữu. Bản
chất của "lý sự" thì cũng tương tự như Tần Nhị Thế ngày trước mà
thôi. "Nếu không làm việc đó (xây dựng khu lưu niệm...), thì khác nào chứng
tỏ Tố Hữu... là một kẻ tội đồ?
Trên
đây chỉ là một trong vô vàn... ví dụ mà thôi. (FB Pham Lưu Vũ)
No comments:
Post a Comment