Ý Nghĩa Thị Hiện của Phật Đản
Lữ Hồ, 1968
lời giới thiệu
Lúc ấy vào giữa chiều 29 tháng 04, tôi ngừng xe Honda trước cửa nhà thường được nói là của Nguyễn Cao Thăng vì thấy Lữ Hồ đang đứng bên vĩa hè mặc bộ bà ba trắng. Lữ Hồ - bảy năm sau khi viết bài nầy - vui buồn không để lộ nhưng có lạ là không ngậm ống điếu. Cả hai chúng tôi nhìn theo chiếc xe jeep trắng mui trần chạy hối hả trên đường Phan Thanh Giản về hướng xa lộ Biên Hòa; Trần Văn Đôn ngồi trên ghế trước. Sau vài câu chẳng nằm đâu, tôi ra về để tiếp nhận cái rời rả của đô thành như con cú đã thấy mùi tử khí của con bệnh trong nhà để đón đi cho ma ăn (ngạn ngữ: cú kêu ma ăn). Hơn ba năm sau, tôi từ vùng kinh tế mới về thăm Saigon, tôi ghé lại nhà LH ở Gia Định. LH ở một mình, vợ con đã đi Pháp, anh lại vừa qua khỏi bệnh nan y bằng cách chú tâm niệm Phật.
Hơn mười năm trước nữa, chính tại căn nhà nầy LH biếu vợ chồng tôi cái bao lì xì Tết với khoản tiền khá lớn, anh nói tôi khỏi cảm ơn vì là nhuận bút một bài tôi viết về đứa con của Bokassa. Tôi giờ nầy cũng quên mất tờ báo của LH. Dạo ấy LH ngồi ké trong tòa báo Đời của Chu Tử. Lúc ấy LH có viết về Tây Du Ký; tôi không đọc; nhưng LH nói anh ca ngợi Chư Bát Giới, tượng trưng cho nhục thể, cho bản năng, cần thiết cho một cuộc sống. Trong lúc ấy người ta chỉ chú ý đến Tôn Ngộ Không, như một loại trí thức mà quên rằng trí thức ấy đã mang một mối nguy trong mình cho nên cần có kim cô điều khiển khi thái quá. Tuy vậy đây chỉ là một truyện Tàu, tự nó không mang tính cách giáo lý cũng như Tam Quốc chưa phải là lịch sử như nhiều người tin tưởng. Ở điểm nầy LH có phần nào mâu thuẩn khi viết trong bài nầy: Ngài Huyền Trang chỉ là một vi cao tăng có chí lớn, trèo non, lội suối qua Ấn Độ thỉnh kinh mà các văn sĩ Trung Hoa cũng ghép vào mấy chú Tề Thiên, Bát Giới, Sa Tăng với 72 chúa yêu.
Về thị hiện, lối dễ hiểu nhất là chỉ có con rắn đực mới thấy con rắn cái đẹp. Lối khó hơn là kinh Pháp Hoa: Ta thành Phật từ muôn vạn kiếp trước không thể nào đếm được tuy rằng tất cả trong thế gian trời, người, a tu la đều nói Phật Thích Ca rời cung thành họ Thích đến thành Dà Gia ngồi nơi đạo tràng, cách nay thật không xa chứng vô thượng chánh giác.
Thị hiện là biểu lộ một phần nhỏ của một thực thể không thể thấy, ví như nhiệt lượng cần những chất dẫn như không khí, nước v.v… điện cũng thế, nó hiện diện khi ta nấu, sấy tóc. Một ví dụ không chính xác nhưng gần gũi: hình ảnh một xướng ngôn viên trên TV, người ấy không chỉ ngần ấy thôi; trước và sau khi ra khỏi màn hình có cả một thế giới không nhìn thấy được.
Thị hiện có tính chất kỹ thuật, cần nhưng chưa đủ (nói theo lối toán học). Thị hiện vào Diêm Phù Đề, Phật không từ bỏ tục đế tuy mục đích cuối cùng là chân đế. Mặt trời đâu có lên xuống đông tây, mà làm gì có hướng đông tây nhưng Ngài phải nói phương đông, tây thì chúng sinh mới hiểu. Chân đế và tục đế không xa lìa nhau. Trong kinh Niết Bàn, Ngài nói rằng Phật cũng như trâu bò sinh trong bào thai, nhưng không thể nói rằng Phật chỉ là trâu bò.
Ngài nói: Ta là con vua Tịnh Phạn nhưng ta cũng là Như Lai (vào thời Pháp Hoa, Ngài giảng với tư cách Như Lai).
Có sự trùng hợp với Chúa Jesus Christ (liên hệ hai tôn giáo nầy sẽ trình bày sau): Ta là con của người và là con của trời. Thật vậy, con của người là con của bà Marie, con của Trời tức là thuộc một chân lý vĩnh cửu như pháp thân.
Bế tắt của Tây Phương là không nhìn theo lối thị hiện và chỉ nhất quyết Jesus chỉ có một tư thế là con của Trời mà thôi. Họ đã đi truyền đạo bằng cách nói Phật chỉ là con ông vua còn Jesus là con Thượng Đế mới đáng theo. Tây Phương đã đi rất xa với Đạo Chúa nguyên thủy (christianisme primitif) như Nghiêm Xuân Hồng có nói. Biến thái nầy đã đưa đến quan điểm thần học khắc nghiệt và thiếu nhân bản.
Tam thế chư Phật đều thị hiện, như trong Pháp Hoa: Như Lai quảng diễn kinh điển độ thoát chúng sinh, khi chỉ việc mình, khi chỉ việc người, khi chỉ thân mình, khi chỉ thân người. Qua thị hiện, có người nói rằng Phật giáo siêu mà không cao, siêu là xuyên thấu tất cả nhưng không cao xa, xa vời với con người. Âu cũng là một cách nói. ttt

Ý Nghĩa Thị Hiện của Phật Đản
Lữ Hồ, 1968
Nên hiểu một cách đơn giản: “Phật là giác ngộ” thì ngày Phật đản chính là thời điểm của ánh sáng giác ngộ ra đời. Sự hiển hiện của con người xuất thế tại vườn Lâm-tỳ-ni vào một ngày trăng tròn cách đây 2592 năm (tính theo thời điểm 1968) là hình ảnh của chân lý viên dung. Ngày Phật đản cho tới nay đã được các nhà bác học, văn nghệ, truyền giáo thuật lại với nhiều vẽ linh động, nhiều dữ kiện huyền bí. Có sách nói Ngài đã từ trong cánh tay vương mẫu bước ra, bước bảy bước trên bảy hoa sen nở tươi dưới gót, miệng nói “thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn”. Có người theo khuynh hướng khoa học lại cứ đoán chắc Đức Phật ra đời không khác mọi người trần tục. Những gì là quả đất rung chuyển, hoa đàm mưa xuống, hương thơm sực nức đều là những điều tô điểm của người sau. Chung quy, một đàng coi Đức Phật như một bậc tiên thánh thần thông, một đàng nhìn Ngài dưới lăng kính của giác quan thế tục.
Nhưng điều quan hệ không phải ở đó. Điều chính yếu là Phật với chân lý, Phật với giác ngộ là một. Sự đản sanh của Phật là sự xuất hiện của Giác ngộ.
Có người bẻ lại rằng: Nếu thái tử Tất Đạt Đa đã giác ngộ từ phút sơ sinh thì:
– Tại sao Ngài phải du ngoạn bốn cửa thành rồi mới chứng được hệ luận thứ nhất: “Đời là bể khổ” qua thực tế “sinh, lão, bệnh, tử”?
– Tại sao, sau khi cưới vợ, sinh con, rồi đợi một đêm trăng tròn tháng hai, Ngài mới lìa xa cung vàng điện ngọc, đổi thay trang phục vương giả để lấy tấm áo chăn chiên, đi tìm chân lý?
– Tại sao, Ngài phải đi qua con đường khổ hạnh, phải suy tư sáu năm ở Núi Tuyết, rồi một sớm ngày trăng tròn tháng chạp mới chứng ngộ được chân lý giải thoát?
Xem thế, con đường tầm đạo của Đức Phật, tưởng cũng không khác với con đường khảo nghiệm, phát minh của các triết gia, khoa học.
Suy ra, những vấn nạn trên không vượt ra ngoài ý niệm căn bản: Đức Phật chỉ là một con người như mọi con người. Và nói theo luận lý thì những khám phá của Đức Phật, dù thuộc phạm vi siêu hình hay biểu tượng, cũng chỉ là kết quả của một chuỗi suy luận lâu dài chứ không phải là một trực kiến siêu việt như người ta hằng ca tụng. Đức Phật là một siêu nhân chứ không phải là đấng siêu nhiên. Thật ra, nếu đứng trên quan điểm thường-nghiệm như vậy, ta sẽ không bao giờ hiểu được ý nghĩa nhân bản của Đạo Phật, của Phật đản, của các Đức Phật.
Điều trước tiên, ai cũng thấy rõ, Chân lý có thể đến trong trí tuệ nhân loại bằng hai đường: thấy và tìm. Thấy được chân lý là con đường trực kiến. Tìm chân lý là con đường suy nghiệm. Những chân lý trong những lãnh vực khoa học, tư tưởng đều phát sinh từ suy nghiệm. Điều ấy đã hiển nhiên. Những khám phá của khoa học, triết học ngày một tiến tới. Lý thuyết sau thay thế lý thuyết trước. Nguyên lý nọ đạp đổ nguyên lý kia. Quá trình phát triển của khoa học, triết học, là một chuỗi chân lý kế tục thay thế nhau, chen lấn nhau khiến cho nhân loại cứ đi mãi về cái đối tượng “chưa tìm thấy” ở đàng trước. Chưa tìm thấy thì chưa có thể tin. Chưa biến thành đức tin thì còn phải quanh quẩn ở phê phán. Nhờ tìm thấy mãi, các nhà khoa học, triết học đã có một ảo giác là đi vào quang phổ chân lý lung linh màu sắc mà càng ngày càng cảm thấy bơ vơ! Các triết gia cho yếu tính của triết học là hoài nghi. Không hoài nghi cái “hiện có” thì không còn ai đi tìm cái “chưa có” nữa. Như vậy, những điều khám phá được mệnh danh là chân lý trong khoa học, triết học, đã không có giá trị tuyệt đối. Đã tương đối thì phải đối đãi, phải so sánh và đương nhiên không thoát khỏi thăng trầm. Đức tin cốt yếu của nhà khoa học, triết học là phải công nhận những khám phá của mình không có giá trị vĩnh cửu dù rất phổ quát và tất yếu. Phổ quát vì áp dụng rất đúng với sự vật. Tất yếu, vì đó là những bậc thang của lý trí không thể thiếu để hoạt động. Tin mình không tin như thế là tự thú một mặc cảm, xác nhận một trình độ. Mặc cảm về khả năng tương đối của suy nghiệm, thú nhận sự bất lực của những công trình nhân tạo.
Ngược lại, “thấy” Chân lý là trực giác ngoại lý siêu việt của đấng xuất thế. Thấy chân lý là trực kiến được quy luật sâu xa chi phối mọi hiện tượng hữu hình, mọi định mệnh chi phối thân phận con người. Đã là trực kiến thì không thể biện giải được. Bởi thế, con người đạo học trong khi suy nghiệm chân lý giải thoát là để thấy rõ cái thấy vi diệu của chư Phật chứ không phải đi tìm. Theo Phật mà đi tìm Phật thì có khác chi ngồi với chủ nhà lại đi tìm chủ nhà. Mọi sự biện giải đều là phương tiện để thấu hiểu chứ không phải để bài bác, biện giải. Muốn biện giải thì phải nhờ tới suy nghiệm, mà phương tiện này không thể đạt được cái tuyệt đối, thì dù có mượn cũng không dùng được và nếu gượng ép thì lại làm cho chân lý bị phân hóa đi. Trước nay, đã có nhiều người cố gắng biện giải đạo Phật qua lăng kính triết học, khoa học. Ta phải nhận rằng, nhờ họ mà ánh sáng chân lý trở thành lung linh nhưng họ cũng làm cho ta choá mắt và không vượt nổi hình thức, giáo điều. Biết đạo chưa phải là hiểu đạo. Hiểu đạo chưa phải là hành đạo. Hành đạo cũng chưa phải là liễu đạo.
Chân lý giải thoát của Phật đã tuyệt đối, không thể biện giải được. Đã không biện giải được thì làm sao mà truyền bá cho quần sanh?
Trong mục đích này, chư Phật đã dùng một phương tiện để cảm thông: Đó là thị hiện.
* * *
Thị hiện là gì?
* * *
Đức Phật đã không vào đời với con đường ấy. Đức Phật không phủ nhận sự hiện hữu nhân thể. Trước tiên, Ngài là một nhân vật có được phụ mẫu sinh dưỡng theo quy luật sinh tử của con người phổ biến. Hoàng hậu Magia cũng hoài thai như muôn ngàn thiếu phụ khác. Đúng ngày sinh nở, Thái tử Tất Đạt Đa cũng chào đời qua lòng mẹ như mọi trẻ khác. Có điều, Ngài là một bậc vương giả, sinh trong gia đình quý tộc, phong kiến, giữa thời đại đa thần thì tất nhiên các quan thái sử chẳng ngần ngại gì mà không thêm bớt một vài huyền thoại cho vị hoàng đế tương lai! Đến khi Phật giáo truyền qua Trung Hoa, thế giới của truyện ma quái, thì tiểu sử của Ngài lại được nhuộm thêm một phần hoang đường huyền bí nữa. Rất đổi, Ngài Huyền Trang chỉ là một vi cao tăng có trí lớn, trèo non, lội suối qua Ấn Độ thỉnh kinh mà các văn sĩ Trung Hoa cũng ghép vào mấy chú Tề thiên, Bát giới, Sa tăng với 72 chúa yêu, muốn cho Ngài muốn gặp Đức Quán Thế Âm lúc nào thì gặp, huống nữa là đức Bổn sư? Cũng may là các nhà văn ấy chưa dám tiểu thuyết hóa đời Ngài như một ông văn sĩ nước ta bây giờ. Dù vậy, các khuynh hướng thần lý trong tư tưởng học thuật Trung Hoa cũng đã lũng đoạn Chân lý không phải ít!
Chính đây mới là vấn nạn lớn nhất của những người chứa đựng óc thực nghiệm. Họ cho rằng: “Phật phải tu luyện, phải suy tư rồi mới thấy được Chân lý”? Ngài là một triết gia như mọi triết gia. Và, vì Ngài xuất chúng quá nên Bertrand Russel đã suy tôn là đại tư tưởng, đại giáo dục, v.v...
Để hiểu được ý nghĩa thâm diệu của giai đoạn này, ta cần lưu ý tính cách liên tục suốt cả hành trạng của đời Ngài, một chuỗi thị hiện thuần nhất rất phù hợp với quy thức Tứ đế sau này. Từ giai đoạn đản sanh là một biểu thị nhân bản đến việc du ngoạn chứng kiến cảnh sinh, lão, bệnh, tử là ý thức tự giác, đến giai đoạn này là giai đoạn tìm chân lý, vẫn có một tiến trình điều hòa vi diệu. Thực vậy, trực kiến chân lý là diệu năng của chư Phật. Thế còn chúng sanh thì có trực kiến ấy không? Vậy thì, nhận biết chúng sanh không thể có trực kiến để thấy được tuyệt đối, sáu năm suy tưởng của Ngài ở Tuyết sơn là bài học cho thấy: con đường suy nghiệm dù chỉ có giá trị tương đối, không giúp chúng sanh thấy được chân lý và chỉ vẫn có thể nhờ đó mà tìm tới chân lý do Đức Phật đã trực kiến mà thôi. Công việc này có khác chi nhà triết học sau khi tìm ra tư tưởng đã phải dùng tư tưởng để giúp cho mọi người hiểu được tư tưởng của mình. Cao hơn nữa, Đức Phật lại cho rằng Chân lý không ở ngoài con người. “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”. Cái ý thức tự giác đốt lên trong tâm hồn của từng cá nhân. Và ý nghĩ của chuỗi ngày suy tư dưới gốc Bồ Đề chỉ bao hàm một ý dụ là bất cứ một chúng sanh nào, nếu chịu y cứ vào giáo pháp thì đều có thể chứng ngộ được chân lý giải thoát do Ngài đã trực kiến được.
* * *
Kỷ niệm Phật đản, căn cứ vào những dữ kiện đã trình bày ở trên, ta có thể rút ra những hệ luận sau đây, nói về sự thị hiện của Phật giáo:
1. Đức Phật chấp nhận nhân bản tính
2. Đức Phật lấy nhân bản để hướng lên Siêu việt
Ở trên, căn cứ các dữ kiện, ai cũng thấy Đức Phật đi vào lòng người để cứu rỗi con người. Dù vậy, những chất người trong đời Ngài chỉ có tính cách biểu thị mà thôi. Chứng cớ, sau bốn mươi chín năm thuyết pháp, Ngài đã tuyên bố là “chưa từng nói một lời gì” hoặc “giáo lý là ngón tay trỏ, Chân lý là mặt trăng”. Không nên bám vào ngón tay (phương tiện biểu hiện) mà quên Chân lý. Ngài đã dùng cái “cụ thể” (hình hài, ngôn ngữ, hành trạng) để biểu hiện cái “trừu tượng” là Chân lý. Ngài đã đản sanh và hành đạo qua nhân thể là đem cái khả tri gửi vào biểu tượng khả giác cho mọi chúng sinh từ sơ cơ tới thượng tri đều có thể hiểu được, bắt chước mà làm theo được? Dù vậy, với hệ luận “thành, trụ, hoại, không”, Ngài luôn luôn nhắn nhủ cho nhân loại thấy mọi biểu tượng đều giả trá, tạm bợ. Đó chỉ là “bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê”. Thuyết tương đối của Einstein hiện đại đã làm cho ánh sáng Chân lý của Đức Phật thêm hiện thực. Các cuộc du hành không gian hiện tại nào có thoát ra khỏi “ba ngàn đại thiên thế giới” do Đức Phật phát kiến? Những khám phá của khoa học, triết học hiện tại chỉ là những dẫn chứng cụ thể cho giáo lý vi diệu của Đức Phật. Cũng vì đượm nhiều nhân bản tính, đạo Phật đã không mâu thuẩn với khoa học, triết học. Nhờ ở viễn kiến của Ngài mà Phật giáo đã không vấp phải một trận thánh chiến nào, dù trong lãnh vực tư tưởng. Nhà khoa học chủ trương đả phá thần quyền. Đạo Phật không đề cao thần quyền thì làm sao trở thành đối tượng đả phá của họ được. Triết học chủ trì hoài nghi nhưng làm sao nghi ngờ được Chân lý Phật giáo khi mà họ chưa đạt được cả ba đối tượng Chân, Thiện, Mỹ? Nhà chính trị cũng không phủ nhận giá trị đạo Phật vì trong công cuộc hiện đại hóa của đạo Phật có chủ nghĩa nào tiến bộ hơn phép lục hòa, tứ nhiếp của đạo Phật chưa?
* * *
Nhận định: Đời là bể khổ.
Giải pháp: Tự giác để giác tha.
Ánh sáng Chân lý đã chiếu rọi, ta chỉ cần phát triển cho rực rỡ lên. Đó cũng là tâm niệm lớn nhất cho con người Việt Nam đang đau khổ vì chiến tranh và bạo lực./
(bài nầy đã đăng ngày Sunday March 8, 2015)
=======================================================
================================================
No comments:
Post a Comment