add this

Monday, April 26, 2021

thương tiếc không nguôi


 

Mt năm người có mười hai tháng
Ta trn năm dài Mt Tháng Tư !

Thanh Nam

--------------------------------------------------------------------------




giữa cơn gió bụi


30.04 ghi ân anh hùng vị quốc vong thân
thương tiếc không nguôi
tôn tht tu

Khoảng 1967, tôi có đi theo một người bạn cốt ý ăn thịt bò nướng tại nhà một giáo sư Mỹ trên đường Duy Tân, Saigon. Cùng đến có Patrick Honey, chuyên viên về VN trong phái bộ Anh tại hội nghị Geneve 1954 và là cố vấn của ngoại trưởng Anthony Eden. Chừng mươi thực khách vây quanh ông trò chuyện một hồi không lâu lắm.  Honey nói ông ta không ngạc nhiên khi nghe tin chiến tranh bùng nổ tuy dưới dạng du kích chiến, đánh dấu bởi trận Ấp Bắc Bà Bèo (29.09.1959). Theo ông hơi hướng chiến tranh đã ngửi thấy khi hiệp định Geneve xem như đi đến kết cuộc chia đôi VN tuy chưa ký kết. Ông đã đánh hơi trong khi tiếp xúc với nhân viên các cấp của phái bộ CS.

Vẫn theo nhà ngữ học nầy, Phạm Văn Đồng tưởng chừng cường quốc giao hết cả nước Viêt Nam cho HCM vì nước Pháp còn tệ hơn một thương binh mất cả tứ chi. HCM đã căm hận đàn anh quốc tế không tiếp tục viện trợ quân sự. Trung Cọng muốn nhân cơ hội nầy chứng tỏ vai anh, ngang với Nga nên đã cố ép HCM chấp nhận cái khôn ngoan thường tình là có còn hơn không. CS chuẩn bị ngay từ đầu bằng cách hô hào tập kết ra bắc thành phần mới được tuyên truyền nhưng để lại thành phần cốt cán.

Thật vậy, về đến Hà Nội, HCM gọi là tả khuynh các nhóm hay cá nhân nào chủ trương lấy hòa bình xây dựng kinh tế nâng cao mức sống dân chúng, cạnh tranh với miền Nam. Kinh nghiệm cho thấy rằng đi theo kiểu phát triển của Triều Tiên chỉ đưa đến thất bại vì phía nam vĩ tuyến 38, Mỹ đổ tiền rất nhiều mà tài nguyên thiên nhiên cũng hơn. Miền Nam VN lại được thiên nhiên ưu đãi giàu có hơn nếu đem so bắc nam Triều Tiên.

Cải cách ruộng đất qua đấu tố, ngoài mục đích làm cho giống như đàn anh CS, nhằm đưa tất cả cơ cấu sản xuất tập trung cho nhà nước để chuẩn bị chiến tranh. Đoàn ngũ hóa nhân dân cũng đi vào mục đích ấy. Nền văn nghệ cũng quyết liệt hơn. Không còn nét dân tộc và lãng mạn như thời kháng chiến. Những tác phẩm có tính cách trực khởi từ tình tự dân tộc như của Hữu Loan, của Việt Lang... đều bị cấm triệt và các tác giả bị tù đày. Về lý thuyết và thực tế cái gọi là dân tộc không còn sức kêu gọi trong giai đoạn mới. Hơn nữa tính dân tộc là xương sống của những thứ cần đả phá để thay thế bằng lòng yêu đảng và lãnh tụ. Văn nghệ là văn nghệ sản xuất, là tin tưởng vào lãnh tụ.

Mọi hình thái sinh hoạt, mọi chủ trương chỉ nhắm vào đánh chiếm miền nam dù với hình thức trường kỳ.

Bằng chứng rõ ràng nhất của âm mưu được tìm thấy trong lời thuyết minh của Nguyễn Mạnh Tường trước hội nghị các luật gia về hòa binh 1956 tại Bruxelle (ghi lại trong một hồi ký). Ông đã kêu gọi các đồng nghiệp chấp nhận vũ trang và bạo động là hòa bình. Đừng ngây ngô mà nói hòa bình và võ trang khởi nghĩa là hai thực thể tách lìa và đối kháng; hai thứ đó không như ngày và đêm.

Ông đã than khóc cho một nước VN bị chia cắt bằng con dao là sông Bến Hải. Nói với luật gia, ông dùng ví dụ trong nghề, là các phiên tòa ly dị, con sông nầy là nước mắt của đàn con. NMT đòi thế giới công nhận sự nổi loạn của luật sư Nguyễn Hữu Thọ trong Nam. "Chúng ta không nên hiểu chiến tranh là cái gì nguy hại, không có lằn ranh giữa chiến tranh và hòa bình". Ông lên án sự hời hợt trong sự suy nghĩ của người bình dân, và ông chủ trương nhìn chiến tranh và hòa bình trong lối suy nghĩ biện chứng, vượt qua lối giải thích nặng phần ngữ âm và cú pháp.

Chỉ cách phía trên chừng mươi trang, NMT đã phân biệt chính trị và luật pháp. Một bên chính trị là mơ hồ như ma như quái; một bên là luật pháp rõ ràng có lằn mức giới định. Nhưng đến đây ông lại kêu gọi các luật gia đồng nghiệp dùng biện chứng cùng tính cách năng động để hiểu chiến tranh chính là hòa bình, vượt lên trên ngôn từ.

NMT quên nói rằng hiệp định Geneve 1954 được ký kết giữa hai phái bộ quân sự CS và Pháp. Nó tạo nên một hình thái phần nào giống tình trạng ở vĩ tuyến 38; quân Nhật bị giải giới bởi Nga phía bắc, Mỹ phía nam; thực tế tạo nên hai nước Triều Tiên. CS đồng ý rút quân về cố thủ phần chia lãnh thổ, phía bắc vĩ tuyến 17. NMT mang sứ mệnh do CSVN giao phó, cùng với Nguyễn Huy Mân chủ tịch tòa án quân sự để chuẩn bị dư luận quốc tế về âm mưu xâm chiếm miền Nam bằng vũ lực.

Ngoài thực tế chính trị với tiền lệ rút quân ở Triều Tiên, Miền Nam vẫn có sự liên tục chính thống từ khi Bảo Đại tuyên bố độc lập sau thế chiến hai. Miền Nam là một quốc gia; chính phủ vẫn trông vọng một nước Việt duy nhất qua hai phản ứng 1. không chấp nhận dự Hội Nghị Á Phi với sự hiện diện của BV, 2. không chấp nhận đề nghị cả hai miền vào Liên Hiệp Quốc (đúng sai không bàn ở đây).

30.4 Saigon, ảnh Catherine Leroy
Kêu gọi luật gia thế giới ủng hộ một cuộc nổi loạn bạo động trong một quốc gia liên tục - ít nhất với lẽ thường - không có tí gì luật pháp. Đáng lý Hội Luật Gia Dân Chủ nầy phải để ý đến tình trạng luật pháp tại BV. Hà Nội đã đàn áp đẫm máu các cuộc nổ dậy, ví như vụ Quỳnh Lưu.

Lời lẽ văn hoa và chuyên nghiệp trước hội nghị che dấu sư hiện diện của CS trong việc hình thành hiệp định Genève. Ông chỉ nói một cách trống rỗng về tình trạng chia cắt. Nhưng ai cũng biết ông đến với một mục đích rõ ràng là bênh vực khởi nghĩa võ trang tại miền Nam. Ông đã cố tình (hay vì không biết) bỏ lững mối liên hệ giữa Nguyễn Hữu Thọ và chính quyền BV. Nhưng thiển nghĩ ông dư sức hiểu ông được phái đi không phải là thừa giấy vẽ voi.

Sau đó trong suốt cuộc hành trình, qua sinh hoạt với từng phái đoàn riêng, ông đã phê phán thậm tệ nền pháp luật BV trên lý thuyết và thực hành. Ông rất khắc khe với cải cách ruộng đất, không tiếc lời xấu xa cho chế độ CS. Nhưng học giả nầy quên hay cố quên rằng chính thể mà ông cho là tồi bại là phi nhân lại là guồng máy chỉ huy công cuộc mà ông ca ngợi. Đó là khởi nghĩa võ trang ở miền Nam. Nói khác ông mong chế độ ông chê trách phủ trùm đến Mũi Cà Mâu. Nếu mấy chữ kế cận trên đây không nằm trong ý tưởng của ông thì vị tiến sĩ đôi của chúng ta rất ngây ngô, hành sử như một luật sư chuyên nghiệp; làm việc cho một đơn đặt hàng nguy hiểm, như trường hợp biện hộ cho một kẻ sát nhân bị bắt quả tang và thú nhận cùng các bằng chứng rõ rệt.

Đây chỉ dùng một đoạn ngắn minh chứng sự chuẩn bị và ý hướng xâm chiếm miền Nam. Ông đã cổ súy sự tự phát võ trang. Điều nầy không mới lạ mà là một đề tài chính trong tuyên truyền của Hà Nội. Tính cách gọi là "nhân dân" ấy dễ ngụy trang du kích chiến. Mà du kích chiến tự nó không thể giải quyết rốt ráo, phải nhường chỗ cho chiến tranh qui ước và diện địa. BV đã đi ngược lối tuyên truyền ấy khi cho những đơn vị lớn vượt Bến Hải xâm vào Quảng Trị 1972; và sau đó chúng ta chứng kiến những trận đánh lớn và xua quân ào ạt chiếm miền Nam ngày 30.04.75.

Chiến trận kết liễu, phô bày trước mắt người miền Nam một miền bắc nghèo nàn và bưng bít; phô bày trước mắt người Bắc một miền Nam không phải là một nhà tù vĩ đại, dân chúng không ăn cơm với cái gáo dừa. Trước chính sách bần cùng hóa, người miền Nam còn ở trong nước, phải nghĩ đến cuộc sống khó khăn, ở ngoài nước chỉ nghĩ đến thân nhân. Họ không có thì giờ để nghĩ đến những người trong cùng chiến tuyến đã chết, vừa chết.

Sự thương tiếc ấy cũng bị lu mờ vì lòng căm hận đối với ván cờ thí xe lấy chốt, căm hận đối với những kẻ có binh quyền để lại cái băng nhựa kêu gọi chiến đấu đến giọt máu cuối cùng mà người thật đã cùng vợ con xô chiếc trực thăng xuống biển sau khi đã đáp an toàn trên tàu chiến ngoài khơi. Dân chúng không tìm ra trung tướng Thiệu, cái trung tướng mà người bằng da thịt tên Nguyễn Văn Thiệu bảo đảm hiện hữu, còn cái tổng thống Thiệu sẽ mất đi. Thì ra tổng thống cũng không, mà trung tướng cũng không.


Tôi không quen ca ngợi kể cả ca ngợi Phật Chúa. Tôi lại không quen ca ngợi những chiến sĩ mọi cấp đã hy sinh, vì chính tôi là một quân nhân biệt phái, đi từ quân trường về nhiệm sở cũ và làm việc tại Saigon cho đến ngày hạ màn. Tôi đã không thấy sự cơ cực của người lính chiến, tôi đã không trực diện với cái chết kề hông. Tôi cảm thấy không đủ tư cách đứng lên đọc một lời cảm niệm, khệ nệ đặt một vòng hoa trên mồ chiến sĩ. Tôi không có quyền hô hào một ai xông vào lửa đạn. Nhưng tôi thấy được phép ta thán sự vong ân bội nghĩa, "bạc như dân".

Vừa đi tù về, một hôm chờ xe buýt, phải căng tai mà nghe để tách xa, khỏi di lụy; nhưng nhờ vậy tôi nghe hai bà nói với nhau vừa học ở phường, chỉ những người như Lê Hồng Phong mới yêu nước, chứ như Tôn Thất Tiệp (Thiệp) tự sát khi Hàm Nghi bị bắt chỉ là bọn phong kiến mưu cầu lợi lộc.  Chuyện nầy làm tôi liên tưởng sự phê phán của vài bà tướng bà tá đối với bà Lê Văn Hưng: ông Hưng tự sát là phí đời, không cần thiết, không khôn ngoan tí nào.

Phải rồi, những bà ấy hằng ngày tại Saigon điều khiển mười sáu ông tướng bốn màu nên xem các ông tướng như Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng không hơn gì con bài tứ sắc. Hàng ngày các bà điều khiển cả tiểu đội, nào lái xe cho bà đi chợ, lái xe cho con đi học, các bà có thể ăn lương của họ vì họ mưu cầu chữ thọ, điều khiển họ như tôi tớ. Vì vậy các bà không thể quan niệm cái hào hùng của anh lính trận, không thấy huynh đệ chi binh. Trong vài ngày cuối ở Cần Thơ, tướng Nguyễn Khoa Nam đi thăm bệnh viện dã chiến; một thương bệnh binh cố sức chồm ôm ông, vừa khóc vừa nói: trung tướng đừng bỏ em.

Các bà trung tướng... đeo sao của chồng tốt nhất nên ngậm miệng ăn tiền, vì rất có thể các đức ông chồng đang hung hăng trên diễn đàn cộng đồng, đứng đầu các tổ chức cựu quân nhân, bộ trưởng trong các chính phủ lưu vong. Ở đời có những người mình gặp mà không nói thì mất người, có người mình nói thì mất lời. Chị Hưng ơi, nói với họ làm chi, chị ơi.

Các bà thì sao cũng được còn các ông thì coi không được. Vài ông đã trở cờ. Nhưng điều buồn cười nhất là tất cả các vị ấy, dân sự, quân sự, văn nghệ sĩ đi đúng một khuôn thức: phải chửi lại cộng đồng, và chửi lại quân đội, hai tập thể đã cưu mang họ trong suốt cuộc đời họ. Không chửi như thế có được không? Đó là điều kiện của Hà Nội chăng?

Tôi không nghĩ như vậy, mà đây do tâm thức của kẻ qui hàng rất chi là Đông Chu Liệt Quốc. Ngày xưa Ngô Khởi tự ý giết vợ để cho vua tin. CS đa nghi, các vị ấy phải theo bài học của nhà quân sự Xuân Thu nầy. Rõ ràng, cứu cánh biện minh cho phương tiện; mà đây lại là phương tiện không cần thiết.

Nếu những người nầy thật sự là CS từ đầu (đảng viên hay nằm vùng) nay trở về chủ cũ; đó là những điều đáng buồn, họ không đáng trách. Nhưng đáng miệt thị là những kẻ từ trong trứng nước, lớn lên, giàu có trong ân huệ của miền Nam, hưởng không khí tự do (dù tương đối) quay trở lại làm hại cho miền Nam. Họ thuộc nhiều thành phần trong xã hội, và cũng là nhóm nhiều mồm mép nhất. Họ đáng bị nguyền rủa, trong lúc chúng ta không khinh thị những cán binh CS thực tâm tin tưởng như họ được tuyên truyền. Lớp nầy giống như kẻ bán khai chặt cây táo mà hái trái trong lúc người văn minh dùng thang mà hái rồi tưới nước cho cây.

Trường hợp tệ hại nhất, theo tôi, một ông tướng đã nói rằng nếu quân miền Nam giải phóng miền Bắc thì sự sát hại còn ghê gớm bội phần những điều đã xẩy ra sau 1975 bởi CSVN. Con cá sẩy bao giờ cũng lớn; vì con cá ấy chưa có trong tay, tự mình cảm thấy nó to hay tự ý khếch đại. Có câu hỏi trong Cổ Học Tinh Hoa, vẽ ma dễ hay vẽ người dễ; vẽ ma thì dễ quá, cái mũi không cần cân xứng, vẽ năm mười cái sừng cũng chả sao, nanh dài đến rốn càng tốt.

Biện lý cuộc đã xin tòa phán quyết tử hình cho một kẻ ăn cắp quả trứng gà. Quả trứng gà sẽ thành con gà, con gà sẽ thành bầy gà, sinh ra nhiều tiền, đem tiền đi đầu tư sinh lợi có thể xây cả trăm thành phố. Tòa giảm còn chung thân. Không một ai biết quả trứng có trống hay không.

Hy vọng lối suy diễn ấy chỉ mới có trong sự thôi thúc đặc biệt trong hoàn cảnh hiện nay, để xin điểm, để làm quà của hàng tướng như Ngô Khởi dâng thủ cấp của vợ. Nhưng nếu lối suy luận ấy nằm lòng từ khi các vị ấy còn nắm quyền ở VN, thì khỏi giải thích vì sao con cháu Lạc Hồng chạy re không đem theo được cái mền rách.

Bên trên, tôi có nêu lời Nguyễn Mạnh Tường chỉ trích cái nhìn bình dân, chưa đạt đến mức biện chứng. Nhưng tôi là người bình dân, tôi có cái nhìn rất bình dân.

"Thưa ông, đây là chồng tôi, mới được về hôm nay, xin ông vui lòng cho chồng tôi ở lại vài ngày". Tôi đi theo nhà tôi như đứa tớ dưới làng lên tỉnh giúp việc, qua nhà ông công an khu vực. Ông bất động như một thiền sư chìm sâu trong tam muội. Tôi nghĩ thầm nếu ông không gật đầu, thế nào tôi cũng phải ra chợ Nguyễn Tri Phương ngủ, chứ ở trong nhà thì trăm điều khốn khổ xẩy ra. Nhà tôi nhanh trí nói: Xin ông cho ở chừng ba ngày để sắp xếp đưa mẹ con tôi hồi hương, giao nhà cho chính quyền. Ông ta bậc dậy như ai lấy kim chích đít: "Được, lo sắp xếp mà đi đi nhe".

Căn nhà xập xệ nầy cũng giống như con trâu của một nông dân ngoài Bắc. Con trâu phải dâng hiến cho hợp tác xã, mong họ lấy cho mà đừng đấu tố chủ nhân, đừng xếp vào hàng địa chủ. Cũng giống như nhân viên xã vào nhà đếm gà thấy thiếu một con, không tin là chồn bắt mà đưa gia chủ ra kiểm thảo giết lén con gà sản xuất, trái với tinh thần đạo đức cách mạng.
Nhờ ơn trời đất, nhờ ơn ông bà tổ phụ, tôi có tròm trèm dăm ba chữ tuy không đi đến đâu về duy vật biện chứng, lý thuyết Marx. Tôi không dùng những thứ ấy để nhìn những việc xẩy ra chung quanh. Tôi chỉ là ông nông dân có con trâu làm việc trên đồng cạn dưới đồng sâu nay phải từ bỏ nó mà chưa chắc đã an thân.

Cầu mong các thân hữu chia xẻ cái nhìn bình dân của tôi. Tôi không muốn căn nhà bị chiếm đoạt (bị ép mà dâng hiến), tôi không muốn vợ tôi bị xỉ mặt mắng là thứ vợ ngụy, tôi không muốn con mất các quyền học hành ...và tôi biết trên cuộc đời nầy, có những con người - dù không thành công - hy sinh tính mạng trong mục đích làm cho những việc ấy không xẩy ra. Tôi tri ân những người ấy.

Một ai đứng trên bờ nhìn ra đại dương mà thấy trong lòng biển nước có xác của vợ mình, của con mình cùng với cái máy đuôi tôm khi chiếc ghe không chịu nỗi sóng dập; người ấy cũng biết rằng trên mãnh đất đau khổ của quê nhà, có những kẻ - tuy chưa thành công - đã hy sinh cuộc đời trong mục đích làm cho việc ấy không xẩy ra. Hãy biết ơn những người vô danh ấy.
Một ai thấy miếng đất hương hỏa của mình dành xây nơi thờ cúng tổ tiên nay nằm dưới khu nhà tắm cầu tiêu của một dinh thự mới, khi tự an ủi với lý thuyết vô thường, vô sở trụ ... vẫn biết có những kẻ đã hy sinh trong mục đích ngăn chân điều nầy xây ra; họ thất trận, lắm người quên đi.

Tôi đã mời các thân hữu dạo quanh một vùng rất rộng lớn với ý niệm chiến lược cùng vài nét sơ phát của bối cảnh 1954 rồi đi đến cái nhìn rất nhỏ hẹp bình dân, không kinh điển, không học vị. Cũng giống như hình cái phểu lớn trên bé dưới, đầu voi đuôi chuột. Ước mong cái nhỏ nhoi ấy là nhịp thở e ấp, thầm kín, chân thật và có thật. Mỗi cái nhìn riêng tuy nhỏ bé mà sâu sắc cho từng cá nhân. Cọng chung những thể nghiệm ý thức ấy, chúng ta sẽ có một luồng hơi ấm mới, khơi nóng bầu không khí có phần lạnh nhạt vì thời gian và những yếu tố xâm thực từ bên ngoài. Những khẩu hiệu to lớn ồn ào làm điếc tai không ai nghe; những lời sâu sắc từ tốn thì cô đơn, ít ai nghe.

Giữa hai sự thể ấy là những con người sống thực như mỗi chúng ta trực diện những mất mát, những khổ đau cho chính mình, cho gia đình, cho những người chung quanh. Chúng ta không bị xung động bởi bất cứ ngọn gió nào. Chúng ta có những câu hỏi rất người rất đơn giản và giải đáp ngay.
30.4 chấm dứt một sự cố gắng vô song của rất nhiều chiến sĩ trong mục đích tối hậu chận đứng ngày thảm não ấy. Rất tiếc, thiên cơ đã không giúp họ ngăn chận cảnh nước mất nhà tan và giúp chúng ta khỏi gánh chịu những tai ách trong từng hoàn cảnh cá nhân riêng rẻ.

Những hy sinh âm thầm ấy biết kể làm sao cho hết. Nhưng có kể, cũng xin đừng quên những di lụy trực tiếp của sự kiện những người nằm xuống. Đó là những "sư đoàn" cô nhi quả phụ, những thiếu phụ lo cho chồng thương tật, những bà mẹ cưu mang những đứa con trở thành bất túc, những đứa con không cha như nhà không nóc.

Bức tượng Thương Tiếc đã bị đánh ngã ở nghĩa trang quân đội Biên Hòa. Đầu ngàn năm mới, Taliban đã phá hủy hai tượng Phật vĩ đại từ thời A Lịch Sơn Đại Đế (Alexandre le Grand). Hành vi ấy chỉ thỏa mãn sự kiêu căng của lãnh tụ Hồi giáo nầy và thiệt hại kỹ nghệ du lịch tại chỗ; nó không suy siển tinh thần tôn giáo của thế giới và của người theo Phật.

Cũng thế, Taliban VN đã phá hủy tượng Thương Tiếc bên xa lộ Biên Hòa; nhưng họ không thể trục hạ sự thương tiếc trong mỗi chúng ta. Bức tượng tâm thức ấy, ít nhất, mỗi năm được đem ra sơn phết một lần vào ngày mất nước. Bức tượng ấy không có quá khứ, không có hiện tại, không có tương lai; bức tượng ấy không riêng gì của người mặc áo trận mà của mọi người. Trong tượng ấy, có người đã chết, có người đang sống và còn sống mãi.-




Thursday, April 22, 2021

tướng lạ, truyện Phạm Lưu Vũ

rước dâu làng quê Quảng Trị 1969


tướng lạ

Phm Lưu Vũ * 2015

Thời Hồng Đức, phủ Thanh Hoa có quan thừa tuyên sứ họ Lê tuổi ngoại tứ tuần, thê thiếp hàng đàn mà tuyệt không người nào chịu sinh cho ngài một mụn con nối dõi. Một hôm buồn tình, ngài bèn tổ chức một cuộc đi săn trong núi, dắt theo đàn thê thiếp có đến mấy chục cô son phấn má đào.

Đoàn người ngựa tiền hô hậu ủng, cung tên, giáo mác bời bời vừa đi vừa ngoạn cảnh, mấy ngày mới lên tới một vùng núi cao, những ngọn núi chập trùng, cây cối rậm rạp phủ một màu xanh biếc. Một hôm, đoàn người ngựa đang đi bỗng nhiên dừng lại, lúc bấy giờ ngài còn đang mải hoan lạc với mấy người thiếp trong kiệu loan, chợt thấy cái nhịp nhịp dập dình đang cộng hưởng với lạc thú bỗng dừng tắp lại bèn vạch màn ra hỏi vì sao. Chúng bẩm trước mặt có một cái hồ lớn như thể vừa thình lình hiện ra chắn mất lối đi. Thấy lạ, ngài bèn chỉnh lại y phục rồi thong thả bước xuống. Quả nhiên là một hồ nước lớn trải rộng vào tít phía những ngọn núi xa xa. Mặt hồ xanh ngắt in rõ bóng mây, những làn hơi nước bảng lảng vật vờ làm cho phong cảnh như đượm màu bồng lai, tiên cảnh. Cao hứng quá, ngài bèn ra lệnh cho quan quân tản vào rừng tha hồ săn bắn, còn ngài lập trại ngay tại đó để cùng các thê thiếp thù tạc vui vầy và thưởng ngoạn cảnh hồ…

Sau chuyến đi ấy, một người thiếp của ngài bỗng nhiên thụ thai. Ngài mừng lắm, cho là vì gặp được cảnh lạ thần tiên nên mới có sự kì diệu tình cờ này. Tai sao ngài lại quả quyết rằng mình đã gặp cảnh lạ thần tiên? Bởi vì sau mấy ngày lập trại bên hồ, trên đường trở về, ngài có sai gọi người địa phương tới hỏi thì tuyệt không ai biết trong vùng lại có cái hồ ấy. Vậy là thần tiên đã có ý giúp cho mình có con nối dõi, ngài bèn quyết định xa lánh hết thảy mọi cô khác, suốt ngày chỉ quấn quýt người thiếp ấy mà thôi. Đủ chín tháng mười ngày, người thiếp quả nhiên sinh hạ một đứa bé trai kháu khỉnh. Ngài mừng lắm, đặt ngay tên con là Lê Cực Kỳ, có ý muốn nói đến chuyến đi săn cực kỳ quái lạ và thú vị của mình.

Nha Trang trước 1975
Lê Cực Kỳ lớn lên trong nhung lụa và sự quan tâm đặc biệt của cha. Đúng ba tháng biết lẫy, bảy tháng biết bò, chín tháng lò dò biết đi, bấy giờ mới xuất hiện một điều… cực kỳ nữa. Số là vào một đêm nọ, đang ngủ say, ngài bỗng giật mình thức giấc, cảm thấy có một luồng ánh sáng xanh lè không biết từ đâu phát ra loang loáng ngoài khe cửa. Nhẹ bước ra khỏi phòng, ngài phát hiện luồng ánh sáng đó xuất phát từ bên trong phòng ngủ của cậu quý tử. Thận trọng mở cửa bước vào, đứa trẻ vẫn ngủ ngon lành trong lòng người vú già. Và thứ ánh sáng đó đúng là từ chỗ nó phát ra. Vừa ngạc nhiên vừa hồi hộp, ngài bước tới bên cạnh, lấy tay lật tấm lụa đắp trên mình thằng bé. Ngài phát hiện thấy phía dưới bụng nó, hình như có dấu một viên ngọc đang phát ra ánh sáng. Tiếp tục vạch bụng thằng bé để xem cho kỹ, bấy giờ ngài mới kinh ngạc thật sự. Cái bìu dái xinh xắn nhỏ xíu của nó, bình thường nhăn nhăn và đỏ hỏn là thế, mà bây giờ bỗng trong veo, nhìn rõ hai hòn dái cũng trong biếc, nom hệt như hai viên ngọc đang chiếu ra những tia sáng lấp lánh, xanh lè…

Quá đỗi ngạc nhiên không thể giải thích, ngài cứ đứng trân trân ngắm mãi cảnh tượng đó. Một, rồi hai canh giờ trôi qua. Tới gần sáng thì ánh sáng xanh đó từ từ yếu dần rồi tắt hẳn. Tới sáng ra thì trở lại bình thường, vẫn là cái bộ phận nhỏ nhắn xinh xinh và đỏ hỏn mọi khi. Ngài bắt đầu theo dõi, những đêm sau cũng có ánh sáng nhưng độ dài cứ giảm dần, vài hôm sau thì hết hẳn. Sau đó khoảng một tháng, hiện tượng đó lại lặp lại y như tháng trước. Không còn nghi ngờ gì nữa, cái chỗ ấy của công tử rõ ràng có tướng lạ kỳ, nó theo tuần trăng mà biến đổi, nhưng đó là quý tướng hay tiện tướng thì ngài không biết, xưa nay ngài chưa hề nghe các sách tướng nói đến bao giờ. Ngài linh cảm đây là việc hệ trọng, liên quan đến dòng giống sau này nên ngài hết sức giữ kín, chỉ vài người tâm phúc biết đến mà thôi.

Trong đám sư gia thân tín của quan thừa tuyên có gã họ Du, vốn xuất thân áo vải lưu manh, nhưng được cái tài cao học rộng vẫn được ngài tin dùng. Biết tâm tư của ngài về chuyện cái tướng lạ ấy của công tử, bèn dốc chí đọc sách, tìm tòi tra cứu, song mãi vẫn không tìm ra điều gì. Một hôm thong thả cưỡi ngựa ra ngoài thành, ghé vào một quán nước chè gọi một bát, vừa uống vừa ngẫm nghĩ. Chợt có một vị sư nón tơi áo lá cũng ghé vào quán. Chủ quán rót ngay một bát nước đưa cho vị sư, tựa như hai người đã quen biết từ trước. Cầm bát nước trong tay song chưa vội uống, vị sư bỗng buột mồm ngâm mấy câu thơ:

“Nhân duyên dựng một góc trời

Non cao, nước biếc là nơi hữu tình

Rõ ràng long mạch rành rành

Đế vương từ chỗ ngọc hành mà ra”.

Đọc xong, vị sư đưa bát nước lên miệng uống một hơi cạn sạch rồi đặt bát xuống, khẽ chào ông chủ quán một tiếng rồi đứng dậy đi thẳng. Sư gia họ Du nghe mấy câu ấy bỗng cảm thấy ngay có gì quái lạ, chưa kịp hỏi thì vị sư đã đi mất rồi, bèn hỏi ông chủ quán:

“Chẳng hay ông có biết vị sư này là ai, ở đâu không?”

Ông chủ quán nước trả lời:

“Dạ bẩm, tôi chỉ biết ông ta tục danh họ Phạm, còn pháp danh là gì thì chẳng ai biết. Ông ta vốn người vùng ngoài, nghe nói gần sáu mươi tuổi mới xuất gia, tình cờ xuất hiện ở vùng này cách đây chưa lâu, hiện tu ở một cái am nhỏ trong núi, thỉnh thoảng có ghé qua đây uống nước, nói đôi ba câu chuyện, vì thế mà tôi biết.”

Sịa, Thừa Thiên
Sư gia họ Du nghe nói thế thì càng lấy làm lạ, bụng cứ ngẫm nghĩ mãi về mấy câu thơ kia. Bỗng như chợt ngộ ra điều gì, bèn đứng phắt dậy, chào ông chủ quán rồi lên ngựa trở vào trong thành. Về đến nơi, ông ta lập tức vào ra mắt quan thừa tuyên ghé tai nói nhỏ:

“Bẩm quan lớn, nô tài đã tìm đọc đủ các loại sách tướng cổ kim, song tuyệt không sách nào nói đến cái tướng lạ ấy. Hôm nay tình cờ gặp một người tu hành, hành tung có vẻ bí ẩn, ông ta tự dưng vô cớ đọc mấy câu như có ý ám chỉ… Biết đâu đây là người ta cần tìm để hỏi cho ra về chuyện cái tướng lạ của công tử…”

Quan thừa tuyên nghe người sư gia của mình đọc lại mấy câu đó cũng cảm thấy nghi ngờ. Thế là chủ tớ bàn nhau sắm sửa lễ vật, bí mật cải trang, lên ngựa ra ngoài thành hướng vào trong núi, tìm đến chỗ vị sư nọ. Rẽ cây vạch cỏ, khúc khuỷu gần nửa ngày trời, hai người mới thấy một am cỏ hiện ra dưới chân một ngọn núi, bên cạnh có một dòng suối nhỏ. Không có tiếng gõ mõ tụng kinh, cũng chẳng có tượng Phật. Trong am cỏ, vị sư già đang ngồi tĩnh tọa, mặt quay vào vách dường như không biết có khách đến sau lưng… Cuối cùng, bằng sự kiên trì của hai con người trần tục kia, cuộc nói chuyện rốt cuộc cũng diễn ra. Quan thừa tuyên kể lại câu chuyện của mình từ lúc đi săn gặp hồ nước, sinh con trai, đến lúc phát hiện tướng lạ của công tử… Nhà tu hành nghe xong nói:

“Vậy thì có lẽ đúng là cái hồ ấy. Vào thời lâu lắm rồi, nó vốn ở tít trong núi sâu, cách biệt hẳn với những bản làng cao nhất nên người thường không ai có thể tới được. Đó là nơi các thiên nữ ở cung trời Dạ Ma thường hay xuống tắm. Các thiên nữ cách ngày tắm một lần, nhưng một ngày đêm trên cung trời Dạ Ma bằng hơn hai trăm năm hạ giới, nên ở hạ giới thì phải hơn bốn trăm năm mới thấy một lần. Cách đây vào khoảng sáu trăm năm, có người họ Cao là thuật sĩ phương Bắc, thấy vùng này núi non hùng vĩ, cho rằng tất sẽ có nhiều long mạch quý bèn tìm đến. Lặn lội khắp vùng hàng năm trời, họ Cao không thấy có long mạch nào đáng kể thì lấy làm lạ. Cuối cùng bắt gặp cái hồ ấy, nom thấy có tiên khí bốc lên rất mạnh thì nghĩ rằng, nếu tạo được nhân duyên, để tục dương kết hợp được với tiên khí ắt sẽ xảy ra nhiều chuyện lạ. Phải cái là hồ nằm giữa một vùng núi non hiểm trở, người thường còn không ai biết đến sự có mặt của nó, nói chi đến chuyện bén mảng đến đó để mà gặp gỡ với tiên khí…

Họ Cao vốn là người rất giỏi thuật phong thủy, có phép hô sấm gọi sét, lại có thuật dời cơ rút đất. Nghĩ tới cả một vùng núi non hùng vĩ hiếm có dưới trời Nam này, mà không có lấy một long mạch đế vương thì cũng uổng phí, nay thử dùng kiến thức phong thủy mà tạo lập cơ trời một phen, biết đâu những đời sau, có kẻ sẽ nhân đó mà chuyển được mạng giời… Bèn làm thuật rút đất, dời cả một vùng dân cư tới gần bên chiếc hồ đó mà không một ai cảm thấy có điều gì khác lạ. Cứ thế đến mấy trăm năm, khi ấy họ Cao từ lâu đã trở thành người thiên cổ, các thiên nữ cung trời Dạ Ma không hề biết hiện đã có nhiều bản làng người phàm trần sống xung quanh hồ nên cứ tự nhiên xuống tắm. Và điều tiên liệu của thuật sĩ họ Cao ngày trước đã xảy ra. Có rất nhiều trai làng vùng ấy đã tình cờ được hưởng những cuộc hoan lạc ái ân tuyệt đỉnh với các nàng thiên nữ.

Sự việc ấy làm kinh động các tầng trời, suốt từ trời Dạ Ma xuống đến trời Tứ thiên vương gồm ba tầng trời. Và đã kinh thiên thì tất nhiên động địa. Các thiên vương tức giận đã gây ra một cuộc động đất, phế bỏ tuyệt tích cái hồ đó. Việc xảy ra đã hơn hai trăm năm nay, vì thế dân ở đó không còn ai biết đến cái hồ ấy nữa. Không hiểu vì nhân duyên gì, mà cho tới tận ngày nay, khi quan thừa tuyên đến, cái hồ ngày trước lại hiện ra?

“Nhưng ngay sau đó, tôi có sai người đến đúng chỗ ấy tìm thì tuyệt không thấy một cái hồ nào cả. – quan thừa tuyên vội nói với vị sư – Đúng là một cái hồ tiên. Chẳng hay câu chuyện tiếp theo thế nào, xin sư phụ kể tiếp cho biết?”

Vũng Tàu xa xưa
Vị sư ngừng lại một lát rồi thong thả kể:

“Các thiên vương chỉ xóa bỏ cái hồ, chứ không trừng phạt những trai tráng kia. Về phần những anh chàng may mắn gặp được cái duyên kỳ ngộ ấy, kể từ đó, trên người anh nào cũng xuất hiện tướng lạ, đúng hệt như của công tử nhà ta, nghĩa là cứ mỗi tháng một lần, hai quả cà nằm trong cái túi da ấy lại biến thành ngọc, phát ra ánh sáng màu xanh, vài ngày thì hết… Chuyện đồn ra đến tận kinh thành. Bấy giờ nước ta vẫn còn nằm dưới quyền cai trị của người phương bắc, quan thái thú lúc ấy là Sĩ Vương thấy việc lạ kỳ thì tỏ ra thích thú lắm, bèn đặt tên vùng đất ấy là Ngọc Cặc.

Tại sao lại có cái tên nửa chữ nửa nôm, lại nửa thanh nửa tục như vậy? Nguyên lúc ấy, quan thái thú ngài mới bắt đầu đem chữ của người Hán sang giáo hóa người phương Nam ta, công cuộc truyền bá mới được non nửa, vậy nên vẫn phải dùng một nửa là tiếng tục của dân địa phương thì mọi người mới hiểu. Quan thái thú ngài còn bảo trước: “Đợi khi nào giáo hóa xong, đời sau tất có kẻ sẽ tìm chữ khác để thay thế cho cái chữ đứng sau kia. Nhưng việc này mà không đặt tên ngay, sợ không ghi nhớ được cái sự kiện không tiền khoáng hậu ấy…”

Câu chuyện của vị sư đến đây làm hai người khách đã sáng tỏ phần nào. Song việc quan trọng nhất là cái tướng lạ ấy, rốt cuộc là quý tướng hay tiện tướng? rằng nó có liên quan gì đến hậu vận? Chừng như biết được những lo lắng sốt ruột ấy trong đầu khách, vị sư thong thả nói tiếp:

“Đó là chỗ sinh ra tinh khí của đàn ông, gọi là huyệt “dương lai âm thụ”, do hình dáng đặc biệt của nó mà mọi khí dương của trời đất được hấp thụ vào đó, tụ lại ở đó để chờ dịp sản sinh ra tinh khí. Hình dạng của mặt đất gọi là “địa cơ”, thì huyệt “dương lai âm thụ” chỉ “kết” trên những long mạch quý, đó là long mạch đế vương. Hình dạng con người gọi là “nhân cơ”, tuy cũng chẳng khác gì địa cơ, song huyệt dương lai âm thụ trên con người chỉ dùng trong việc nam nữ giao hợp, làm cái duyên cho nghiệp dẫn để sinh con đẻ cái thông thường mà khó tác động đến việc chuyển nghiệp đột biến…”

Nói đến đây, vị sư dừng lại một lát như thể cân nhắc điều gì rồi tiếp tục:

“Trường hợp của công tử nhà ta có cái tướng ấy thì cũng giống những trai tráng vùng ấy hơn hai trăm năm về trước. Điều này cực hiếm, sách cổ gọi là “nhân cơ sinh đế huyệt”. Đó là một quý tướng, một “huyệt đạo” đế vương nằm trên cơ thể con người. Tướng ấy không những sinh quý tử, mà còn có thể từ đó sinh ra bậc đế vương…”

Quan thừa tuyên nghe đến đây thì trong lòng bừng bừng cảm động, sung sướng quá không kìm được, buột mồm hỏi ngay:

“Thưa sư phụ, vậy chẳng lẽ… bao nhiêu trai tráng hai trăm năm về trước kia sinh ra… đế vương cả hay sao?”

“Họ tuy tự dưng vớ được tướng quý – vị sư bình tĩnh giải thích – song không phải là tướng bẩm sinh cho nên chỉ sinh ra những hạng trưởng giả mà thôi. Duy trong số đó, nếu có chàng trai nào ngẫu nhiên có sự trùng hợp với tử vi thì cái ngọc hoàn ấy mới đích thị là một huyệt đạo đế vương…”

Kontum
Quan thừa tuyên và người sư gia của mình hết sức hài lòng về chuyến đi. Sau khi tặng lễ vật, hai người chào nhà sư để quay về. Trước khi đi, nhà sư còn căn dặn một điều cuối cùng, rằng cái tướng ấy tuy là đại quý, song vẫn có chỗ độc. Đó là người mang cái tướng ấy và cả những con cháu sau này thường rất ham dâm loạn, nên phải hết sức giữ mình thì “lộc” mới kéo dài được…

Trên đường trở về thành, chủ tớ bàn nhau dấu kín việc này, bởi nếu triều đình biết việc con cháu nhà mình sau này sẽ thành đế vương thì họa ắt tới nơi. Gã sư gia họ Du còn cẩn thận hơn, ấy là không để câu chuyện này qua vị sư kia mà bị lọt ra ngoài. Thế là về đến dinh, quan thừa tuyên lập tức sai dựng một ngôi chùa khang trang ngay trong phủ đệ của mình, đặt tên là chùa Thiên Ứng, mời nhà sư họ Phạm kia về làm trụ trì, vừa lấy tiếng công đức xây chùa độ sư, vừa như giam lỏng nhà sư, không để câu chuyện lọt ra ngoài.

Nói về công tử Lê Cực Kỳ, càng lớn càng tỏ ra là con nhà thế phiệt học hành sáng dạ, đọc đâu thông đấy. Năm hai mươi tuổi lên kinh đô thi. Quan thừa tuyên lúc này tuy đã già, song vẫn định bụng cho chàng kiếm chút khoa cử rồi lấy vợ sinh con quý tử hoặc đế vương cũng chưa lấy gì làm vội. Trên đường trẩy kinh, công tử cùng mấy người theo hầu vào nghỉ đêm ở một ngôi đình của làng nọ. Hôm đó lại đúng vào thời kỳ mà cái ngọc hoàn của chàng nó phát quang. Vào lúc mọi người, kể cả chàng đã ngủ say, thứ ánh sáng xanh kia bỗng phát ra le lói. Thành hoàng làng ấy nom thấy thế thì giật nảy mình, song vốn là một bậc có tâm cơ, ngài nghĩ ngay rằng đất nước hiện đang thái bình, may có được một vị minh quân trị vì. Nay nếu người này sinh con đế vương thì chẳng bao lâu, trăm họ sẽ lại lâm vào cảnh tranh ngôi đoạt vị, loạn lạc dấy lên thì không phải phúc cho dân lành. Âu là ta phế béng cái tướng quý này đi là xong.

Nghĩ thế rồi vị thành hoàng bèn thò tay vào móc hai hòn dái ngọc đang rực sáng của chàng ra mà bỏ vào… nồi đun chừng nửa canh giờ. Khi lấy ra khỏi nồi thì cái ánh sáng xanh kia giờ đã tắt lịm. Ngài lại bỏ hai hòn dái vào vị trí cũ rồi dùng tay thoa thoa, miệng hà thần khí, giây lát cái chỗ đó trở lại đen ngòm như bình thường mà chàng cũng không hề cảm thấy gì.

Khoa thi ấy chàng trượt ngay từ vòng sơ khảo. Chẳng hiểu sao kinh sử rơi đâu mất sạch. Quan thừa tuyên chưa kịp buồn vì chuyện đó thì bỗng phát hiện cái tướng đại quý kia của chàng cũng tự dưng biến mất, chờ mấy tháng tuyệt chẳng thấy tăm hơi gì, công tử hiện nguyên hình là một chàng trai ngốc nghếch, tầm thường như bao chàng trai cùng lứa tuổi. Chẳng lẽ nhà sư kia nói sai? Quan thừa tuyên bèn tức tốc sang chùa gặp nhà sư kể lại chuyện ấy. Nhà sư nghe thấy cũng hơi ngẩn ra một lát rồi bảo:

“Chẳng lẽ lại có chuyện đó… Quan lớn có thể gọi công tử sang đây cho tôi hỏi kỹ lại có được không?”

Lê Cực Kỳ lập tức được gọi tới trước mặt nhà sư và quan thừa tuyên. Nhà sư hỏi:

“Chẳng hay trên đường đi, công tử ngủ qua đêm ở những đâu?”

Lê Cực Kỳ cứ theo hành trình mà kể lại cho nhà sư nghe. Đến chỗ ngủ qua đêm ở một ngôi đình làng nọ, nhà sư bỗng ngắt lời:

“Công tử có nhớ tên cái làng có ngôi đình ấy không?”

“Bạch sư phụ, làng ấy có tên là Cung Hỉ…”

“Thôi phải rồi – vị sư ngắt lời chàng rồi quay sang phía quan thừa tuyên – Bẩm quan lớn, làng ấy bần tăng cũng đã từng qua. Nó vốn có tên là Cung Thỉ, chỉ vì ngày trước, trong làng có người đỗ đạt, thấy chữ “Thỉ” xấu, mới thay bằng chữ “Hỉ”. Thành hoàng làng ấy vốn xuất thân làm nghề hoạn lợn. Đó là một làng chuyên nghề thiến hoạn súc vật. Ngày trước, bần tăng đã dặn quan lớn về chuyện dâm loạn, song quên dặn rằng cái tướng ngọc hoàn này rất kỵ gần những người làm nghề thiến hoạn. Nếu không bị nó triệt mất tướng quý thì cũng dễ gặp tai họa, nửa chừng đứt gánh… Âu cũng là mệnh trời…”

Thế là tan giấc mộng đế vương. Quan thừa tuyên buồn bã, thở dài ngao ngán. Song ngài bỗng dừng phắt lại chú ý vì nhà sư đã tiếp tục cất tiếng:

“Nhưng quan lớn cũng chớ có buồn vội. Kẻ chuyên nghề thiến hoạn kia tuy triệt được cái tướng hiển lộ ra trong một đời, song không thể triệt được gốc “căn” của nó. Đời này, công tử tuy không sinh được quý tử nữa, song trải những đời sau, khi nào hội đủ duyên, cái tướng quý ấy sẽ lại hiển lộ. Dòng dõi quan lớn sau này tất có đời sẽ làm đến đế vương. Chỉ cần quan lớn ghi rõ trong gia phả, dặn con cháu đời sau rằng bất luận thế nào, thì cũng phải tránh xa những người từng làm nghề thiến hoạn, tuyệt đối không kết bạn, giao du hay cùng cộng tác…”

nước mắm tỉn, Phan Thiết
Câu chuyện về cái tướng đại quý của Lê Cực Kỳ xin kết thúc tại đây. Quả có một lời chúc lụy rằng con cháu sau này phải tránh xa những người từng làm nghề thiến hoạn trong gia phả nhà họ Lê. Đó là một lời chúc lụy kỳ lạ và bí ẩn nhất trong những bản gia phả mà người viết đã từng xem qua. Chừng sáu mươi năm sau, khi tất cả những nhân vật trên đây đều đã trở thành người thiên cổ, bấy giờ vào đời Uy Mục Đế thì phải. Một hôm có viên quan thái bốc dâng sớ bạch rằng:

“Thần trộm nghĩ bảo vệ cái uy của mình thì không tiếc hình phạt, tiêu diệt kẻ khinh lờn. Lo cho cái ngôi của mình thì phải đề phòng có kẻ tranh cạnh… Nay xứ Thanh Hoa vượng khí chói lọi, tất có long mạch đế vương ở đó. Xưa vua Trần đã từng nghe lời thầy địa lý bên Tàu mà đào sông nhằm phế bỏ long mạch của tiên tổ ta (trỏ Lê Lợi), việc không thành là do mắc mưu gian của bọn người phương bắc. Tiên tổ ta mới nhân đó mà nổi lên. Việc trước tuy như thế, song ngẫm lại, vẫn có chỗ phải theo, huống chi nay ta có Tả Ao là một người tài giỏi việc phong thủy, lại là một bậc trung thần. Dám xin bệ hạ xuống chiếu sai Tả Ao đi phá long mạch xứ ấy, để phòng có kẻ tiếm vị sau này thì cơ nghiệp của tiên đế để lại sẽ mãi mãi vững bền. Thần tin rằng với kiến thức và lòng trung của mình, Tả Ao tất sẽ vì bệ hạ mà không lặp lại cái sai lầm của vua Trần ngày trước…”

Uy Mục Đế xem sớ bỗng rùng mình rợn gáy, lập tức xuống chiếu, cấp cho Tả Ao mười vạn quan tiền, phong làm khâm sai trạch địa, sai ngày đêm đi gấp vào xứ Thanh, tìm bằng được long mạch để phá cho tiệt những mầm mống đế vương nếu có.

Tả Ao tiên sinh là một bậc thần cơ diệu toán. Kiến thức phong thủy của ngài ở nước Nam thì cổ kim chưa ai có thể so sánh. Có lẽ cũng chẳng kém thuật sĩ họ Cao người phương bắc ngày trước. Nhận chiếu chỉ, ngài chỉ mang theo một chú tiểu đồng cắp tráp theo hầu rồi theo đường trạm đi gấp vào Thanh Hoa.

Lại suốt nửa năm trời trèo đèo, lội suối khắp các vùng núi non Thanh Hoa, cũng giống như thuật sĩ họ Cao ngày trước, thầy trò Tả Ao cũng không phát hiện được một long mạch nào đáng kể. Trong khi cái vượng khí đế vương kia thì cứ xông lên bời bời như trêu ngươi. Chẳng lẽ kiến thức phong thủy của mình còn có chỗ khiếm khuyết? Tả Ao tiên sinh băn khoăn trăn trở. Không có lẽ như thế. Bởi phong thủy dẫu có trầm (lặn), có phù (nổi), song nó là “ngôn ngữ” của cái khí ngũ hành vốn là nguồn năng lượng bất tận tạo nên mọi sự sinh, diệt trên thế gian này. Tuy không thể “bắt” được nó, song nó luôn thể hiện thông qua sự uốn lượn của địa hình, có khi nổi lên thành gò đống, có khi thụt xuống thành vực sâu… Người biết thuật phong thủy thì chỉ cần nhìn cây cỏ cũng biết bên dưới đang ẩn chứa điều gì… Một hôm đang trên đường tìm kiếm, thầy trò bắt gặp một ngôi chùa, ngẩng nhìn thấy ba chữ: “Thiên Ứng Tự”. Bỗng nghe bên trong có tiếng người ngâm nga mấy câu sau:

“Chặn dòng đóng cọc yểm bùa

Đem ba việc ấy ra đùa thế gian

Cơ trời khi hợp khi tan

Biết đâu ẩn dưới một màn nhung y”

Tảo Ao tiên sinh nghe lấy làm quái lạ, mấy câu đó nghe như muốn ám chỉ đến việc trấn yểm long mạch mà mình đang theo đuổi. Nếu vậy thì trong chùa ắt có kỳ nhân. Lúc ấy trời cũng gần tối, bèn gõ cửa chùa xin vào ngủ qua đêm.

Vị sư trụ trì ngôi chùa ấy là người cũng đã có tuổi, chính là người vừa ngâm mấy câu đó. Nom tướng mạo Tả Ao tiên sinh thì biết ngay không phải người tầm thường, bèn mời vào phương trượng pha trà tiếp đãi, hầu chuyện rất mực cung kính. Tả Ao tiên sinh lòng đang nóng như lửa đốt, bèn hỏi ngay:

“Chẳng hay mấy câu mà hòa thượng vừa ngâm là có ý gì chăng?”

Vị sư dường như cũng biết tâm trạng của khách nên trả lời ngay:

“Đó là mấy câu kệ của sư phụ tôi truyền lại ngày trước. Trước khi viên tịch, sư phụ tôi có dặn rằng có khi nào thấy ngài dừng chân trước cổng chùa thì đọc cho ngài nghe…”

Tả Ao tiên sinh nghe thấy thế thì càng giật nảy mình. Không ngờ nơi đây có bậc chân tu đắc đạo, đã biết trước cả việc mình sẽ dừng chân trước cổng chùa này. Bèn hấp tấp hỏi dồn:

“Sư phụ của ngài là ai, tại sao Ngài biết tôi sẽ tới đây? Ngài có dặn gì nữa không…”

Vị hòa thượng trụ trì – chính là đệ tử truyền thừa của nhà sư họ Phạm ngày trước thong thả kể lại toàn bộ câu chuyện của quan thừa tuyên sứ và công tử Lê Cực Kỳ ngày trước cho Tả Ao tiên sinh nghe rồi nói:

“Sự phụ tôi, Ngài có bảo rằng trong tam tài, thiên cơ, địa cơ và nhân cơ, thì phong thủy xứ này thịnh về nhân cơ. Luận về thiên, địa, thì sở học của quan Khâm sai có thể nói đã đạt tới bậc tuyệt kỹ rồi. Song về nhân cơ thì ngài còn có chỗ chưa chú ý lắm.”

“Hèn nào mà tôi lặn lội suốt từ đó đến nay, không tìm ra một long mạch nào đáng kể, trong khi đó cái vượng khí thỉnh thoảng cứ xông lên ngùn ngụt. Té ra đế huyệt nó “kết” trên thân người. Vậy chẳng hay Ngài có truyền bảo cách để trấn yểm cái nhân cơ ấy hay không?” – Tả Ao tiên sinh hỏi.

Vị hòa thượng lắc đầu:

“Thiên cơ và địa cơ là do nghiệp chung của cả một cộng đồng kết lại nên có thể dùng lòng người mà cảm hóa, hoặc dùng bùa ngải, dùng sức người lấp dòng, đóng cọc… để trấn. Song nhân cơ vì nó kết theo nghiệp riêng của từng người nên không có cách gì trừ cho tiệt nọc, chẳng qua chỉ làm cho nó lặn đi vài ba đời, rồi nó sẽ lại hiển lộ ở một đời nào đó…”

“Một vài đời cũng được – Tả Ao tiên sinh mừng rỡ ngắt lời – chẳng dấu gì hòa thượng, tôi nhận chiếu chỉ của đương kim hoàng thượng, nếu không nhất thời trừ được cái vượng khí này thì có lẽ mất đầu… Vậy phải làm thế nào xin hòa thượng ra ân chỉ bảo cho biết.”

Đập Đá
Vị hòa thượng tủm tỉm nói:“Thì… cứ theo cách của thành hoàng làng Cung Hỉ ngày trước ấy mà làm. Nhưng tôi chắc rằng ngài cũng không phải lo đến điều đó đâu.”


Câu nói của vị hòa thượng hình như còn ẩn giấu một điều gì. Song Tả Ao tiên sinh lúc ấy thì như người đã vén được đám mây mờ. Bụng nghĩ dẫu có phải hoạn hết dái của trai tráng xứ này, để trừ cho được cái mầm mống đế vương, thì một ông vua như Uy Mục Đế cũng sẵn sàng dám làm. Âu là ta cứ về tâu lại rồi tùy ý nhà vua định đoạt.

Quả nhiên Tả Ao tiên sinh cũng chẳng phải lo đến điều đó nữa. Bởi khi ngài vừa về tới kinh thành, chưa kịp viết xong bản tấu phúc trình về chuyến đi thì Uy Mục Đế Lê Tuấn đã bị Giản Tu Công Danh (Lê Tương Dực sau này) nổi lên lật đổ và ép phải tự sát. Việc trấn áp vượng khí xứ Thanh Hoa thế là được xếp lại.

Xứ Thanh Hoa không bị trấn áp vượng khí nữa. Và nơi đó tuy không có long mạch, song do cái sự kỳ duyên tục dương tiên khí từ thuở xa xưa ấy mà đã tạo ra cả một vùng nhân cơ kỳ bí. Đó vẫn là nơi đã từng sinh ra nhiều bậc đế vương, trưởng giả… Truyền mãi cho đến tận ngày nay, vẫn nổi tiếng là nơi phát tích của nhiều hạng đế vương. Và đặc biệt, các loại trưởng giả thì đời nào cũng nhiều không kể xiết.

Về phần Tả Ao tiên sinh, ông buồn vì tưởng mình đã học hết cái chỗ tinh diệu của thuật phong thủy, vậy mà té ra chỉ biết có thiên cơ, địa cơ, còn cái nhân cơ kia thì không hề biết đến. Sau chuyện đó, ông hầu như không màng gì đến phong thủy nữa. Và đó hình như cũng là nguyên do, khiến ông không truyền lại sở học của mình cho bất kỳ ai, khiến cho thiên hạ từ đó đến nay vẫn không hết ngạc nhiên, cứ đoán già đoán non, lại còn đưa ra hết giả thuyết này đến giả thuyết nọ. (FB Phạm Lưu Vũ )

====================================================

Xe đò Saigon Mỹ Tho
===================================

Tuesday, April 13, 2021

lúc còn ở Huế

mé Cầu Lòn ngập nước 2020

chuyện hắn với tui hồi còn ở Huế

Trương Th Liên

Trời mưa buồn lục tủ gặp tấm hình ni, nhìn tấm hình đã phai mờ không còn rõ nét, nhưng mà chuyện hắn với tui, tui vẫn còn nhớ mồn một như in. Nhớ hồi đó tui 24 tuổi con trai đầu lòng được 10 tháng, nhớ những ngày sắp tạ từ Huế, tạ từ những con đường Huế yêu thương, để lên đường vô nam, nhìn tấm hình chợt rưng rưng nước mắt, nhớ đứa bạn thân nhất, mà khi mô hắn cũng nói với tui, tau ghét mi, tui nói chi ra hắn cũng cương gân cương cổ cái cho hơn tui, tui cải không lại hắn tui làm thinh, thì hắn lại la lên, tau nói mi có nghe không rứa, tự nhiên tui sợ hết hồn gật gật đầu, hắn lại la lên, răng mi nghe mà không nói chi hết rứa, tui chỉ biết đứng rớt nước mắt lặng thinh, hắn lại la lên mi đừng lấy nước mắt trến tau, tau không sợ mô, tui lại tức tưởi khóc to hơn nhiều hơn, hắn thấy coi bộ không êm, hắn lặng lẽ bỏ đi.

Tui không dám nói ra, chỉ nói lầm thầm trong bụng, ừ đi thì đi luôn đi không thèm chơi nữa mô, con gái chi mà dữ thấy sợ,

Rứa rồi ngày mai hắn cũng lót tót qua nhà tìm tui, hắn lân la làm huề nói ni nói tê, tui nói với hắn, mi nói mi ghét tau mờ, tìm tau chi, hắn tỏ vẻ dịu dàng lúng túng, ừ... thì tau nói ghét mi, là là tàu ghét cái tính yểu điệu yếu ớt nhu mì đa sầu đa cảm ưa hát ưa hò ưa văn ưa thơ ưa chụp hình chụp bóng của mi đó chơ, tau nói mi bỏ mấy cái nớ đi, chơ tau là tau ghét mấy thứ nớ lắm, mi phải mạnh mẽ như tau ri nì, hắn nói một hơi, tui không biết đường mô mà trả lời, ấp a ấp úng, rồi tui nói đại ừ thì tại tau là con gái Huế mờ, hắn bắt đầu nỗi nóng la lên, rứa mi nói tau không phải con gái Huế chắc, rứa mi nói tau là con trai chắc, tau không thích mấy thứ như mi mà tau cũng sống nhăn răng nì, rứa mấy đứa không thích mấy thứ giống mi rứa chắc hắn chết hết à.

Hắn với tui cứ rứa xảy ra mỗi ngày như cơm bữa, mấy đứa ở xóm tui hay nói chơi, hai đứa ni răng cứ như sừng với đuôi mà răng cứ chơi với nhau hoài lạ thiệt

Có điều hắn tuy nóng tính như con trai nhưng mà hắn rất xốc xáo tốt bụng, hay hay giúp đỡ bạn bè giúp đỡ mọi người, nhà hắn rất giàu nhưng hắn sống rất bình dân, hắn sống hòa đồng không phân biệt giàu nghèo, hắn rất thương những người tật nguyền nghèo khó, đặc biệt là hắn thiệt thương tui, nên hai đứa cứ giận rồi lại chơi, chơi rồi giận, rứa mà chơi với nhau rất lâu, hắn có chi ăn ngon hắn cũng để phần cho tui, hắn có cái chi đẹp tui thích hắn cũng cho tui không hề tiếc, hắn với tui ở gần nhà nhau cùng học chung cấp một, lên cấp hai chưa được bao lâu, tui nghĩ học, còn hắn học tiếp

Mỗi ngày mỗi lớn hắn cũng dịu dàng hơn, có hôm hắn nói với tui, tau cám ơn mi nghe, tui nói mà mi cám ơn cái chi, hắn nói, hồi trước Ba Mạ tau, khi mô cũng nói con chơi với con Liên mà con không học hắn, tau mà nghe Ba Mạ tau nói rứa là tàu nỗi nóng lên tau còn ghét mi hơn, tau la lên, con Liên có chi để mà học chơ, hắn được tài mu khóc đa sầu đa cảm là giỏi, đôi khi tau cũng ghét mi thiệt, mà răng vắng mi là tau buồn, mà chừ tau thấy Ba Mạ tau nói đúng đó, nhờ tau chơi với mi chừ tau mới thấy tau đầm tính lại ít nổi nóng hơn hồi trước, chừ tau lớn rồi tau mới nghĩ lại tau thương mi, tau chơi với mi mà tau toàn ăn hiếp mi mà mi không hề giận hờn tau, tau cám ơn mi là cám ơn rứa đó.

Rồi từ đó hắn không còn nỗi nóng với tui, hắn hết bắt tui mi phải rứa mi phải tê nữa, hắn trầm lắng hơn.

Rồi mùa xuân 1976 tui chia tay hắn để theo Ba Mạ về làng làm nông, hắn tiếp tục con đường học vấn, vì về làng xa nên hắn với tui không còn gặp nhau thường nữa, mà mỗi khi gặp nhau, hắn thấy tui là mặt mày hắn rạng rỡ, hắn hỏi tui tứ lung tung, câu cuối cùng khi mô hắn cũng hỏi mi về quê có cực không, có đủ ăn không, chừ đi ăn với tau hí, chừ mi thích ăn chi nì.

Có khi tui lâu không lên thăm hắn, thì hắn cũng về làng thăm tui,

Tấm hình ni nhớ hôm tui vô nam, tui ghé thăm hắn trước khi vô nam, hai đứa buồn buồn tủi tủi ngậm ngùi nói lời chia tay, trước khi từ giả hắn, tui nhờ hắn chở ra tiệm chụp hình để chụp vài tấm hình làm lưu niệm, còn nhớ khi hắn chở tui đi hắn còn nói với tui, cái tật ưa chụp hình của mi tới chừ cũng chưa bỏ được nữa hí, tui nói nếu mi bắt tau chọn một trong hai, được ăn ngon với được chụp hình thì tau chọn chụp hình, hihi tau là rứa mà mê chụp hình bẩm sinh mà, vì tau ưa chụp hình hơn ăn ngon.

Tới tiệm chụp hình hắn không vô, tui kêu hắn mi vô chụp với tau tấm để mai mốt tau vô nam lỡ tau nghèo khó, tau không có tiền về thăm mi tau dòm hình mi cho đỡ nhớ, hắn dứt khoát không vô, hắn nói tau biết mi ưa chụp hình, tau thương mi tau chở mi đi, chơ ba cái thứ ni tau ghét lắm, tui cũng nói chơi với hắn, cái tật không thích chụp hình của mi tới chừ cũng có bỏ được mô nà, hắn cười buồn rồi nói, ừ rứa huề một đều hí.

Rứa là tui ra đi không hẹn ngày trở lại, thời gian đầu đất khách quê người nhà nghèo con đông lo làm phụ chồng nuôi con, tới năm 2005 tui mới về thăm Huế, người đầu tiên tui tìm là hắn, về lại xóm xưa chỉ còn lại hai ba nhà cũ còn ở lại, còn toàn người lạ mới tới ở, hỏi thăm cũng không ai biết nhà hắn dời về mô, rứa hắn với tui là lạc mất nhau từ đó, đôi khi ngồi nhớ hắn tui cứ rưng rưng nước mắt, rồi nghĩ tới, giờ ni không biết hắn đang ở mô, hắn đang cực khổ hay đang sung sướng, tui vẫn thầm cầu nguyện cho hắn bình an hạnh phúc giàu sang, và lòng luôn thầm mong được gặp hắn.

Nhìn tấm hình ni rồi nghĩ, vừa thương vừa giận hắn, phải chi hồi nớ hắn đừng ương bướng hắn chịu chụp với tui tấm hình chừ tui nhìn được mặt hắn tui cũng đỡ buồn hơn.

Đôi khi nhớ hắn thiệt buồn, rồi phải tự an ủi để giải khuây, có lẽ tui với hắn cái duyên chừng nấy thôi, nói là nói rứa chơ trong lòng cứ mong gặp hắn, để ôn bao kỷ niệm một thời hắn với tui.

Đang đau mắt mà nhớ hắn quá nên phải viết, viết vội viết vàng để trãi lòng chơ ôm cảm xúc trong lòng tối ni không ngủ được.

Hình ảnh O Huế tui chụp với con trai đầu lòng chưa tròn một tuổi,tại Huế. hè năm 1980 ngày giã từ Huế ra đi trượt bước quá dài25 năm sau mới trở quay trở lại

Bài viết, ghi chú, hình đăng trên FB Huế Cố Đô Dec 15 2020

==============================================================

ghi nhn ngn

Tôi thích những người không phải văn sĩ mà viết văn. Dễ nhất và khó nhất là viết về tình yêu, tình thương. Dễ nhất vì sao? loẹt quẹt ba chữ lệ rơi, lá rụng, tóc thề...là đủ rồi. Khó nhất vì sao? Khổng Tử nói: vẽ con chó, con mèo khó hơn vẽ thánh vẽ thần; thánh thần có ai chộ mô, mắt to bằng cái chén, ba đầu sáu tay mười hai con mắt. Con trâu, con bò, con mèo ai cũng chộ, cũng biết, vẽ bậy thì lộ ngay. Con mèo, con trâu là tình yêu, là tình thương ai cũng biết. Thi sĩ văn sĩ nói dốc, chữ nghĩa bịp bợm, khóc thuê, thì i tờ rít hay bác học đều nhận ra đang vẽ thánh vẽ ma. Ở đây chị Trương Thị Liên vẽ con trâu, con bò, con mèo, chén cơm, bụi chuối, ai cũng biết và khóc theo phận người. Cô cũng nói ra đi trượt bước, mấy chục triệu người trượt bước như chị, họ biết đường trơn máu đổ đau thương thế nào.

Một tiếng "nam mô", một tiếng "amen" cho người còn sống, cho người đã chết, cho quá khứ, hiện tại và tương lai. Nam mô, Amen! Tháng 4 2021

Tôn Thất Tuệ 



 

 

Sunday, April 4, 2021

Cô Gái Trường Sơn

 





Cô Gái Trường Sơn

Không biết tên tác gi * 2011

Một cô thanh niên xung phong bị phát hiện đang lén lút làm cái việc “tự sướng” bên con suối nhỏ sâu trong rừng.

Suốt ba đêm liền, từ sau bữa ăn tối cho đến gần sáng, cô bị đồng chí của mình, toàn nữ, kiểm điểm gay gắt và không ngớt lời xỉ vả. “Ghê tởm, thật ghê tởm!” “Một biểu hiện suy đồi đạo đức!” "Một hành động bêu xấu hình ảnh người chiến sĩ cách mạng, đi ngược với lý tưởng và lối sống cách mạng tốt đẹp!” “Xử bắn con đĩ tư sản thối nát ấy đi!” v.v....

Sang ngày thứ tư, không chờ đồng đội xử bắn, “con đĩ tư sản thối nát” ấy đã treo cổ tự tử trên cành cây bị bom chặt đứt một nửa.

Chủ trì và cũng lớn tiếng xỉ vả nhất trong ba đêm đấu tố ấy là cô Duyên. Đơn giản vì cô là đội trưởng đội thanh niên xung phong ấy. Duyên là người làng tôi, thậm chí suýt thành chị dâu, nếu anh trai con ông bác tôi không hy sinh ở Quảng Trị năm 68. Tự cô kể tôi nghe chuyện này khi hết chiến tranh trở về nhà.

“Tội nghiệp nó! Người ta bảo thì bọn chị phải làm thế, chứ thương lắm!” cô nói, rơm rớm nước mắt. “Khối đứa như nó. Chị biết”.

“Cả chị?” tôi hỏi.

Ngập ngừng một lúc, chị nói, giọng thách thức:

“Thì sao? Chị không là người chắc? Cả bầy con gái thui thủi một mình trong rừng không một mống đàn ông suốt mấy năm trời! Đơn vị chị thì không, nhưng nghe nói ở Đrao, Tây Nguyên, có mấy chục đứa phát cuồng, lúc ôm nhau cười mãi không thôi, lúc xé hết quần áo kéo chạy tồng ngồng giữa rừng như những con điên.

Cao nguyên Trung Việt ngày nay
Mắt chị lại rưng rưng.

Về làng được bốn năm, do lỡ thì, và cũng do chẳng còn đàn ông nào nữa mà lấy, chị Duyên xuống tóc đi tu, ở ngay Chùa Mít bên sông Bùng. Vợ chồng bác tôi thương lắm, nhưng chẳng can ngăn. Trong thâm tâm hai cụ vẫn coi chị là con dâu. Có người nói chị bị ai đó trên tỉnh lừa tình. Chuyện này thì tôi không rõ, mà cũng chẳng quan trọng. Tôi chỉ thấy ngỡ ngàng, thậm chí đau nhói trong ngực khi hình dung chị dâu hụt của tôi, – một người xinh đẹp, yêu đời, từng nhiều năm làm đội trưởng đội văn nghệ xã, – lại tự nguyện giam mình trong ngôi chùa hiu quạnh, đổ nát, với bộ quần áo màu nâu nhà Phật. Mấy ngày sau, tôi đến tìm chị, định hỏi cho ra chuyện, nhưng tôi đã không vào chùa khi đứng từ xa nhìn thấy chị đang thẫn thờ đưa chổi quét đi quét lại cái sân vốn đã sạch.

Lặng lẽ ra về, tôi cố giải thích mà không giải thích nỗi cái gì đã biến một cô gái tươi vui, hồn nhiên, tràn trề hạnh phúc và xứng đáng được hưởng hạnh phúc thành một người yếm thế, bất hạnh như vậy.

Chiến tranh? Phải chăng đây là cái giá của chiến tranh?

Bẵng đi nhiều năm, tôi lại vào chùa Mít.

Nó vẫn thế. Hai cây nhãn trước chùa vẫn thế, và vẫn thế, chúng không chịu cho quả.

Đang vắng người, tôi vào thẳng phòng riêng sư trụ trì, sư thầy Đàm Duyên. Sư thầy chứ không phải sư cô như ngày nào.

“Chào chị Duyên,” tôi lên tiếng, không hiểu sao còn cố tình nói to.

“Mô phật. Xin xưng hô với kẻ tu hành này theo đúng cách của nhà Phật. Chào chú.”

Đứng chắp tay trước mặt tôi, đầu hơi cúi, là một bà già nhỏ bé, khô đét và không còn tí dấu vết nào của cô Duyên ngày xưa cũng như sư cô Đàm Duyên sau đó tôi gặp. Nét mặt bà không chỉ vô cảm mà bất động như được nặn bằng sáp. Cái đầu trọc bóng loáng cũng có lớp sáp nhờn nhợt ấy.

Bất giác, tôi chợt nghĩ: “Nếu không trọc, không biết tóc chị sẽ bạc đến đâu?”

“Chị khỏe chứ?”

“Mô phật.”

“Người ta nói nay mai chùa Mít bị đập bỏ để xây đường lớn lên Đô Lương và sang Lào?”

“Mô phật,” và chị khẽ cúi đầu.

“Thế chị và mọi người đi đâu?”

Sư thầy Đàm Duyên không đáp. Chất sáp trên mặt và cái đầu trọc của bà càng trở nên rõ nét hơn. Hình như bà đang khóc, dù đôi mắt sâu vô hồn vẫn ráo hoảnh.

Lát sau tôi bỏ về, vô cớ hậm hực với ngôi chùa tội nghiệp sắp bị phá bỏ, với hai cây nhãn xum xuê mà không chịu cho quả. Với cả chính tôi vì mãi vẫn lấn cấn tìm lời giải thích cho số phận chị dâu mình và những người như chị.

Chiến tranh! Ừ, chiến tranh! Tiên sư thằng chiến tranh!

Tôi thấy có cái gì nghèn nghẹn trong cuống họng, muốn văng tục chửi ai đó, đập phá cái gì đó mà không được. Chửi cái thằng gây ra chiến tranh chẳng hạn. Tiên sư thằng gây ra chiến tranh!

Đừng nói với tôi về chiến tranh bảo vệ tổ quốc và chính nghĩa. Tôi đã đủ khôn lớn để hiểu rằng cuộc chiến ấy, nếu quả là bảo vệ tổ quốc và chính nghĩa như người ta nói, cũng chẳng là gì nếu nó là thủ phạm của hàng triệu cái chết dân Việt, hàng chục triệu cuộc chia ly đau đớn, thủ phạm của một sự đảo lộn triệt để các giá trị truyền thống dân tộc. Nó trở thành nhảm nhí khi vì nó các cô gái của chúng ta phải “tự sướng” và tự treo cổ, khi một người trẻ trung, tươi vui và tràn trề nhựa sống như chị Duyên của tôi phải biến thành một hình sáp vô hồn.

“Ừ, mà nếu không cạo đầu, tóc của chị sẽ bạc đến đâu nhỉ?”

===================================================================================

Saigon 1973
===============================