Một năm người có mười hai tháng Ta trọn năm dài Một Tháng Tư ! Thanh Nam -------------------------------------------------------------------------- |
giữa cơn gió bụi |
30.4 Saigon, ảnh Catherine Leroy |
(tôn thất tuệ, 1939 bến ngự huế, tiểu học nam giao, biết đọc biết viết, georgia usa 30747)
Một năm người có mười hai tháng Ta trọn năm dài Một Tháng Tư ! Thanh Nam -------------------------------------------------------------------------- |
giữa cơn gió bụi |
30.4 Saigon, ảnh Catherine Leroy |
rước dâu làng quê Quảng Trị 1969 |
tướng lạ
Phạm Lưu Vũ * 2015
Thời
Hồng Đức, phủ Thanh Hoa có quan thừa tuyên sứ họ Lê tuổi ngoại tứ tuần, thê thiếp
hàng đàn mà tuyệt không người nào chịu sinh cho ngài một mụn con nối dõi. Một
hôm buồn tình, ngài bèn tổ chức một cuộc đi săn trong núi, dắt theo đàn thê thiếp
có đến mấy chục cô son phấn má đào.
Đoàn
người ngựa tiền hô hậu ủng, cung tên, giáo mác bời bời vừa đi vừa ngoạn cảnh, mấy
ngày mới lên tới một vùng núi cao, những ngọn núi chập trùng, cây cối rậm rạp
phủ một màu xanh biếc. Một hôm, đoàn người ngựa đang đi bỗng nhiên dừng lại,
lúc bấy giờ ngài còn đang mải hoan lạc với mấy người thiếp trong kiệu loan, chợt
thấy cái nhịp nhịp dập dình đang cộng hưởng với lạc thú bỗng dừng tắp lại bèn vạch
màn ra hỏi vì sao. Chúng bẩm trước mặt có một cái hồ lớn như thể vừa thình lình
hiện ra chắn mất lối đi. Thấy lạ, ngài bèn chỉnh lại y phục rồi thong thả bước
xuống. Quả nhiên là một hồ nước lớn trải rộng vào tít phía những ngọn núi xa
xa. Mặt hồ xanh ngắt in rõ bóng mây, những làn hơi nước bảng lảng vật vờ làm
cho phong cảnh như đượm màu bồng lai, tiên cảnh. Cao hứng quá, ngài bèn ra lệnh
cho quan quân tản vào rừng tha hồ săn bắn, còn ngài lập trại ngay tại đó để
cùng các thê thiếp thù tạc vui vầy và thưởng ngoạn cảnh hồ…
Sau
chuyến đi ấy, một người thiếp của ngài bỗng nhiên thụ thai. Ngài mừng lắm, cho
là vì gặp được cảnh lạ thần tiên nên mới có sự kì diệu tình cờ này. Tai sao
ngài lại quả quyết rằng mình đã gặp cảnh lạ thần tiên? Bởi vì sau mấy ngày lập
trại bên hồ, trên đường trở về, ngài có sai gọi người địa phương tới hỏi thì tuyệt
không ai biết trong vùng lại có cái hồ ấy. Vậy là thần tiên đã có ý giúp cho
mình có con nối dõi, ngài bèn quyết định xa lánh hết thảy mọi cô khác, suốt
ngày chỉ quấn quýt người thiếp ấy mà thôi. Đủ chín tháng mười ngày, người thiếp
quả nhiên sinh hạ một đứa bé trai kháu khỉnh. Ngài mừng lắm, đặt ngay tên con
là Lê Cực Kỳ, có ý muốn nói đến chuyến đi săn cực kỳ quái lạ và thú vị của
mình.
Nha Trang trước 1975 |
Quá
đỗi ngạc nhiên không thể giải thích, ngài cứ đứng trân trân ngắm mãi cảnh tượng
đó. Một, rồi hai canh giờ trôi qua. Tới gần sáng thì ánh sáng xanh đó từ từ yếu
dần rồi tắt hẳn. Tới sáng ra thì trở lại bình thường, vẫn là cái bộ phận nhỏ nhắn
xinh xinh và đỏ hỏn mọi khi. Ngài bắt đầu theo dõi, những đêm sau cũng có ánh
sáng nhưng độ dài cứ giảm dần, vài hôm sau thì hết hẳn. Sau đó khoảng một
tháng, hiện tượng đó lại lặp lại y như tháng trước. Không còn nghi ngờ gì nữa,
cái chỗ ấy của công tử rõ ràng có tướng lạ kỳ, nó theo tuần trăng mà biến đổi,
nhưng đó là quý tướng hay tiện tướng thì ngài không biết, xưa nay ngài chưa hề
nghe các sách tướng nói đến bao giờ. Ngài linh cảm đây là việc hệ trọng, liên
quan đến dòng giống sau này nên ngài hết sức giữ kín, chỉ vài người tâm phúc biết
đến mà thôi.
Trong
đám sư gia thân tín của quan thừa tuyên có gã họ Du, vốn xuất thân áo vải lưu
manh, nhưng được cái tài cao học rộng vẫn được ngài tin dùng. Biết tâm tư của
ngài về chuyện cái tướng lạ ấy của công tử, bèn dốc chí đọc sách, tìm tòi tra cứu,
song mãi vẫn không tìm ra điều gì. Một hôm thong thả cưỡi ngựa ra ngoài thành,
ghé vào một quán nước chè gọi một bát, vừa uống vừa ngẫm nghĩ. Chợt có một vị
sư nón tơi áo lá cũng ghé vào quán. Chủ quán rót ngay một bát nước đưa cho vị
sư, tựa như hai người đã quen biết từ trước. Cầm bát nước trong tay song chưa vội
uống, vị sư bỗng buột mồm ngâm mấy câu thơ:
“Nhân duyên dựng một góc trời
Non cao, nước biếc là nơi hữu tình
Rõ
ràng long mạch rành rành
Đế
vương từ chỗ ngọc hành mà ra”.
Đọc
xong, vị sư đưa bát nước lên miệng uống một hơi cạn sạch rồi đặt bát xuống, khẽ
chào ông chủ quán một tiếng rồi đứng dậy đi thẳng. Sư gia họ Du nghe mấy câu ấy
bỗng cảm thấy ngay có gì quái lạ, chưa kịp hỏi thì vị sư đã đi mất rồi, bèn hỏi
ông chủ quán:
“Chẳng
hay ông có biết vị sư này là ai, ở đâu không?”
Ông
chủ quán nước trả lời:
“Dạ
bẩm, tôi chỉ biết ông ta tục danh họ Phạm, còn pháp danh là gì thì chẳng ai biết.
Ông ta vốn người vùng ngoài, nghe nói gần sáu mươi tuổi mới xuất gia, tình cờ
xuất hiện ở vùng này cách đây chưa lâu, hiện tu ở một cái am nhỏ trong núi, thỉnh
thoảng có ghé qua đây uống nước, nói đôi ba câu chuyện, vì thế mà tôi biết.”
Sịa, Thừa Thiên |
“Bẩm
quan lớn, nô tài đã tìm đọc đủ các loại sách tướng cổ kim, song tuyệt không
sách nào nói đến cái tướng lạ ấy. Hôm nay tình cờ gặp một người tu hành, hành
tung có vẻ bí ẩn, ông ta tự dưng vô cớ đọc mấy câu như có ý ám chỉ… Biết đâu
đây là người ta cần tìm để hỏi cho ra về chuyện cái tướng lạ của công tử…”
Quan
thừa tuyên nghe người sư gia của mình đọc lại mấy câu đó cũng cảm thấy nghi ngờ.
Thế là chủ tớ bàn nhau sắm sửa lễ vật, bí mật cải trang, lên ngựa ra ngoài
thành hướng vào trong núi, tìm đến chỗ vị sư nọ. Rẽ cây vạch cỏ, khúc khuỷu gần
nửa ngày trời, hai người mới thấy một am cỏ hiện ra dưới chân một ngọn núi, bên
cạnh có một dòng suối nhỏ. Không có tiếng gõ mõ tụng kinh, cũng chẳng có tượng
Phật. Trong am cỏ, vị sư già đang ngồi tĩnh tọa, mặt quay vào vách dường như
không biết có khách đến sau lưng… Cuối cùng, bằng sự kiên trì của hai con người
trần tục kia, cuộc nói chuyện rốt cuộc cũng diễn ra. Quan thừa tuyên kể lại câu
chuyện của mình từ lúc đi săn gặp hồ nước, sinh con trai, đến lúc phát hiện tướng
lạ của công tử… Nhà tu hành nghe xong nói:
“Vậy
thì có lẽ đúng là cái hồ ấy. Vào thời lâu lắm rồi, nó vốn ở tít trong núi sâu,
cách biệt hẳn với những bản làng cao nhất nên người thường không ai có thể tới
được. Đó là nơi các thiên nữ ở cung trời Dạ Ma thường hay xuống tắm. Các thiên
nữ cách ngày tắm một lần, nhưng một ngày đêm trên cung trời Dạ Ma bằng hơn hai
trăm năm hạ giới, nên ở hạ giới thì phải hơn bốn trăm năm mới thấy một lần.
Cách đây vào khoảng sáu trăm năm, có người họ Cao là thuật sĩ phương Bắc, thấy
vùng này núi non hùng vĩ, cho rằng tất sẽ có nhiều long mạch quý bèn tìm đến. Lặn
lội khắp vùng hàng năm trời, họ Cao không thấy có long mạch nào đáng kể thì lấy
làm lạ. Cuối cùng bắt gặp cái hồ ấy, nom thấy có tiên khí bốc lên rất mạnh thì
nghĩ rằng, nếu tạo được nhân duyên, để tục dương kết hợp được với tiên khí ắt sẽ
xảy ra nhiều chuyện lạ. Phải cái là hồ nằm giữa một vùng núi non hiểm trở, người
thường còn không ai biết đến sự có mặt của nó, nói chi đến chuyện bén mảng đến
đó để mà gặp gỡ với tiên khí…
Họ
Cao vốn là người rất giỏi thuật phong thủy, có phép hô sấm gọi sét, lại có thuật
dời cơ rút đất. Nghĩ tới cả một vùng núi non hùng vĩ hiếm có dưới trời Nam này,
mà không có lấy một long mạch đế vương thì cũng uổng phí, nay thử dùng kiến thức
phong thủy mà tạo lập cơ trời một phen, biết đâu những đời sau, có kẻ sẽ nhân
đó mà chuyển được mạng giời… Bèn làm thuật rút đất, dời cả một vùng dân cư tới
gần bên chiếc hồ đó mà không một ai cảm thấy có điều gì khác lạ. Cứ thế đến mấy
trăm năm, khi ấy họ Cao từ lâu đã trở thành người thiên cổ, các thiên nữ cung
trời Dạ Ma không hề biết hiện đã có nhiều bản làng người phàm trần sống xung
quanh hồ nên cứ tự nhiên xuống tắm. Và điều tiên liệu của thuật sĩ họ Cao ngày
trước đã xảy ra. Có rất nhiều trai làng vùng ấy đã tình cờ được hưởng những cuộc
hoan lạc ái ân tuyệt đỉnh với các nàng thiên nữ.
Sự
việc ấy làm kinh động các tầng trời, suốt từ trời Dạ Ma xuống đến trời Tứ thiên
vương gồm ba tầng trời. Và đã kinh thiên thì tất nhiên động địa. Các thiên
vương tức giận đã gây ra một cuộc động đất, phế bỏ tuyệt tích cái hồ đó. Việc xảy
ra đã hơn hai trăm năm nay, vì thế dân ở đó không còn ai biết đến cái hồ ấy nữa.
Không hiểu vì nhân duyên gì, mà cho tới tận ngày nay, khi quan thừa tuyên đến,
cái hồ ngày trước lại hiện ra?
“Nhưng
ngay sau đó, tôi có sai người đến đúng chỗ ấy tìm thì tuyệt không thấy một cái
hồ nào cả. – quan thừa tuyên vội nói với vị sư – Đúng là một cái hồ tiên. Chẳng
hay câu chuyện tiếp theo thế nào, xin sư phụ kể tiếp cho biết?”
Vũng Tàu xa xưa |
“Các
thiên vương chỉ xóa bỏ cái hồ, chứ không trừng phạt những trai tráng kia. Về phần
những anh chàng may mắn gặp được cái duyên kỳ ngộ ấy, kể từ đó, trên người anh
nào cũng xuất hiện tướng lạ, đúng hệt như của công tử nhà ta, nghĩa là cứ mỗi
tháng một lần, hai quả cà nằm trong cái túi da ấy lại biến thành ngọc, phát ra
ánh sáng màu xanh, vài ngày thì hết… Chuyện đồn ra đến tận kinh thành. Bấy giờ
nước ta vẫn còn nằm dưới quyền cai trị của người phương bắc, quan thái thú lúc ấy
là Sĩ Vương thấy việc lạ kỳ thì tỏ ra thích thú lắm, bèn đặt tên vùng đất ấy là
Ngọc Cặc.
Tại
sao lại có cái tên nửa chữ nửa nôm, lại nửa thanh nửa tục như vậy? Nguyên lúc ấy,
quan thái thú ngài mới bắt đầu đem chữ của người Hán sang giáo hóa người phương
Nam ta, công cuộc truyền bá mới được non nửa, vậy nên vẫn phải dùng một nửa là
tiếng tục của dân địa phương thì mọi người mới hiểu. Quan thái thú ngài còn bảo
trước: “Đợi khi nào giáo hóa xong, đời sau tất có kẻ sẽ tìm chữ khác để thay thế
cho cái chữ đứng sau kia. Nhưng việc này mà không đặt tên ngay, sợ không ghi nhớ
được cái sự kiện không tiền khoáng hậu ấy…”
Câu
chuyện của vị sư đến đây làm hai người khách đã sáng tỏ phần nào. Song việc quan
trọng nhất là cái tướng lạ ấy, rốt cuộc là quý tướng hay tiện tướng? rằng nó có
liên quan gì đến hậu vận? Chừng như biết được những lo lắng sốt ruột ấy trong đầu
khách, vị sư thong thả nói tiếp:
“Đó
là chỗ sinh ra tinh khí của đàn ông, gọi là huyệt “dương lai âm thụ”, do hình
dáng đặc biệt của nó mà mọi khí dương của trời đất được hấp thụ vào đó, tụ lại ở
đó để chờ dịp sản sinh ra tinh khí. Hình dạng của mặt đất gọi là “địa cơ”, thì
huyệt “dương lai âm thụ” chỉ “kết” trên những long mạch quý, đó là long mạch đế
vương. Hình dạng con người gọi là “nhân cơ”, tuy cũng chẳng khác gì địa cơ,
song huyệt dương lai âm thụ trên con người chỉ dùng trong việc nam nữ giao hợp,
làm cái duyên cho nghiệp dẫn để sinh con đẻ cái thông thường mà khó tác động đến
việc chuyển nghiệp đột biến…”
Nói
đến đây, vị sư dừng lại một lát như thể cân nhắc điều gì rồi tiếp tục:
“Trường
hợp của công tử nhà ta có cái tướng ấy thì cũng giống những trai tráng vùng ấy
hơn hai trăm năm về trước. Điều này cực hiếm, sách cổ gọi là “nhân cơ sinh đế
huyệt”. Đó là một quý tướng, một “huyệt đạo” đế vương nằm trên cơ thể con người.
Tướng ấy không những sinh quý tử, mà còn có thể từ đó sinh ra bậc đế vương…”
Quan
thừa tuyên nghe đến đây thì trong lòng bừng bừng cảm động, sung sướng quá không
kìm được, buột mồm hỏi ngay:
“Thưa
sư phụ, vậy chẳng lẽ… bao nhiêu trai tráng hai trăm năm về trước kia sinh ra… đế
vương cả hay sao?”
“Họ
tuy tự dưng vớ được tướng quý – vị sư bình tĩnh giải thích – song không phải là
tướng bẩm sinh cho nên chỉ sinh ra những hạng trưởng giả mà thôi. Duy trong số
đó, nếu có chàng trai nào ngẫu nhiên có sự trùng hợp với tử vi thì cái ngọc
hoàn ấy mới đích thị là một huyệt đạo đế vương…”
Kontum |
Trên
đường trở về thành, chủ tớ bàn nhau dấu kín việc này, bởi nếu triều đình biết
việc con cháu nhà mình sau này sẽ thành đế vương thì họa ắt tới nơi. Gã sư gia
họ Du còn cẩn thận hơn, ấy là không để câu chuyện này qua vị sư kia mà bị lọt
ra ngoài. Thế là về đến dinh, quan thừa tuyên lập tức sai dựng một ngôi chùa
khang trang ngay trong phủ đệ của mình, đặt tên là chùa Thiên Ứng, mời nhà sư họ
Phạm kia về làm trụ trì, vừa lấy tiếng công đức xây chùa độ sư, vừa như giam lỏng
nhà sư, không để câu chuyện lọt ra ngoài.
Nói
về công tử Lê Cực Kỳ, càng lớn càng tỏ ra là con nhà thế phiệt học hành sáng dạ,
đọc đâu thông đấy. Năm hai mươi tuổi lên kinh đô thi. Quan thừa tuyên lúc này
tuy đã già, song vẫn định bụng cho chàng kiếm chút khoa cử rồi lấy vợ sinh con
quý tử hoặc đế vương cũng chưa lấy gì làm vội. Trên đường trẩy kinh, công tử
cùng mấy người theo hầu vào nghỉ đêm ở một ngôi đình của làng nọ. Hôm đó lại
đúng vào thời kỳ mà cái ngọc hoàn của chàng nó phát quang. Vào lúc mọi người, kể
cả chàng đã ngủ say, thứ ánh sáng xanh kia bỗng phát ra le lói. Thành hoàng
làng ấy nom thấy thế thì giật nảy mình, song vốn là một bậc có tâm cơ, ngài
nghĩ ngay rằng đất nước hiện đang thái bình, may có được một vị minh quân trị
vì. Nay nếu người này sinh con đế vương thì chẳng bao lâu, trăm họ sẽ lại lâm
vào cảnh tranh ngôi đoạt vị, loạn lạc dấy lên thì không phải phúc cho dân lành.
Âu là ta phế béng cái tướng quý này đi là xong.
Nghĩ
thế rồi vị thành hoàng bèn thò tay vào móc hai hòn dái ngọc đang rực sáng của
chàng ra mà bỏ vào… nồi đun chừng nửa canh giờ. Khi lấy ra khỏi nồi thì cái ánh
sáng xanh kia giờ đã tắt lịm. Ngài lại bỏ hai hòn dái vào vị trí cũ rồi dùng
tay thoa thoa, miệng hà thần khí, giây lát cái chỗ đó trở lại đen ngòm như bình
thường mà chàng cũng không hề cảm thấy gì.
Khoa
thi ấy chàng trượt ngay từ vòng sơ khảo. Chẳng hiểu sao kinh sử rơi đâu mất sạch.
Quan thừa tuyên chưa kịp buồn vì chuyện đó thì bỗng phát hiện cái tướng đại quý
kia của chàng cũng tự dưng biến mất, chờ mấy tháng tuyệt chẳng thấy tăm hơi gì,
công tử hiện nguyên hình là một chàng trai ngốc nghếch, tầm thường như bao chàng
trai cùng lứa tuổi. Chẳng lẽ nhà sư kia nói sai? Quan thừa tuyên bèn tức tốc
sang chùa gặp nhà sư kể lại chuyện ấy. Nhà sư nghe thấy cũng hơi ngẩn ra một
lát rồi bảo:
“Chẳng
lẽ lại có chuyện đó… Quan lớn có thể gọi công tử sang đây cho tôi hỏi kỹ lại có
được không?”
Lê
Cực Kỳ lập tức được gọi tới trước mặt nhà sư và quan thừa tuyên. Nhà sư hỏi:
“Chẳng
hay trên đường đi, công tử ngủ qua đêm ở những đâu?”
Lê
Cực Kỳ cứ theo hành trình mà kể lại cho nhà sư nghe. Đến chỗ ngủ qua đêm ở một
ngôi đình làng nọ, nhà sư bỗng ngắt lời:
“Công
tử có nhớ tên cái làng có ngôi đình ấy không?”
“Bạch
sư phụ, làng ấy có tên là Cung Hỉ…”
“Thôi
phải rồi – vị sư ngắt lời chàng rồi quay sang phía quan thừa tuyên – Bẩm quan lớn,
làng ấy bần tăng cũng đã từng qua. Nó vốn có tên là Cung Thỉ, chỉ vì ngày trước,
trong làng có người đỗ đạt, thấy chữ “Thỉ” xấu, mới thay bằng chữ “Hỉ”. Thành
hoàng làng ấy vốn xuất thân làm nghề hoạn lợn. Đó là một làng chuyên nghề thiến
hoạn súc vật. Ngày trước, bần tăng đã dặn quan lớn về chuyện dâm loạn, song
quên dặn rằng cái tướng ngọc hoàn này rất kỵ gần những người làm nghề thiến hoạn.
Nếu không bị nó triệt mất tướng quý thì cũng dễ gặp tai họa, nửa chừng đứt
gánh… Âu cũng là mệnh trời…”
Thế
là tan giấc mộng đế vương. Quan thừa tuyên buồn bã, thở dài ngao ngán. Song
ngài bỗng dừng phắt lại chú ý vì nhà sư đã tiếp tục cất tiếng:
“Nhưng quan lớn cũng chớ có buồn vội. Kẻ chuyên nghề thiến hoạn kia tuy triệt được cái tướng hiển lộ ra trong một đời, song không thể triệt được gốc “căn” của nó. Đời này, công tử tuy không sinh được quý tử nữa, song trải những đời sau, khi nào hội đủ duyên, cái tướng quý ấy sẽ lại hiển lộ. Dòng dõi quan lớn sau này tất có đời sẽ làm đến đế vương. Chỉ cần quan lớn ghi rõ trong gia phả, dặn con cháu đời sau rằng bất luận thế nào, thì cũng phải tránh xa những người từng làm nghề thiến hoạn, tuyệt đối không kết bạn, giao du hay cùng cộng tác…”
nước mắm tỉn, Phan Thiết |
“Thần
trộm nghĩ bảo vệ cái uy của mình thì không tiếc hình phạt, tiêu diệt kẻ khinh lờn.
Lo cho cái ngôi của mình thì phải đề phòng có kẻ tranh cạnh… Nay xứ Thanh Hoa
vượng khí chói lọi, tất có long mạch đế vương ở đó. Xưa vua Trần đã từng nghe lời
thầy địa lý bên Tàu mà đào sông nhằm phế bỏ long mạch của tiên tổ ta (trỏ Lê Lợi),
việc không thành là do mắc mưu gian của bọn người phương bắc. Tiên tổ ta mới
nhân đó mà nổi lên. Việc trước tuy như thế, song ngẫm lại, vẫn có chỗ phải
theo, huống chi nay ta có Tả Ao là một người tài giỏi việc phong thủy, lại là một
bậc trung thần. Dám xin bệ hạ xuống chiếu sai Tả Ao đi phá long mạch xứ ấy, để
phòng có kẻ tiếm vị sau này thì cơ nghiệp của tiên đế để lại sẽ mãi mãi vững bền.
Thần tin rằng với kiến thức và lòng trung của mình, Tả Ao tất sẽ vì bệ hạ mà
không lặp lại cái sai lầm của vua Trần ngày trước…”
Uy
Mục Đế xem sớ bỗng rùng mình rợn gáy, lập tức xuống chiếu, cấp cho Tả Ao mười vạn
quan tiền, phong làm khâm sai trạch địa, sai ngày đêm đi gấp vào xứ Thanh, tìm
bằng được long mạch để phá cho tiệt những mầm mống đế vương nếu có.
Tả
Ao tiên sinh là một bậc thần cơ diệu toán. Kiến thức phong thủy của ngài ở nước
Nam thì cổ kim chưa ai có thể so sánh. Có lẽ cũng chẳng kém thuật sĩ họ Cao người
phương bắc ngày trước. Nhận chiếu chỉ, ngài chỉ mang theo một chú tiểu đồng cắp
tráp theo hầu rồi theo đường trạm đi gấp vào Thanh Hoa.
Lại
suốt nửa năm trời trèo đèo, lội suối khắp các vùng núi non Thanh Hoa, cũng giống
như thuật sĩ họ Cao ngày trước, thầy trò Tả Ao cũng không phát hiện được một
long mạch nào đáng kể. Trong khi cái vượng khí đế vương kia thì cứ xông lên bời
bời như trêu ngươi. Chẳng lẽ kiến thức phong thủy của mình còn có chỗ khiếm
khuyết? Tả Ao tiên sinh băn khoăn trăn trở. Không có lẽ như thế. Bởi phong thủy
dẫu có trầm (lặn), có phù (nổi), song nó là “ngôn ngữ” của cái khí ngũ hành vốn
là nguồn năng lượng bất tận tạo nên mọi sự sinh, diệt trên thế gian này. Tuy
không thể “bắt” được nó, song nó luôn thể hiện thông qua sự uốn lượn của địa
hình, có khi nổi lên thành gò đống, có khi thụt xuống thành vực sâu… Người biết
thuật phong thủy thì chỉ cần nhìn cây cỏ cũng biết bên dưới đang ẩn chứa điều
gì… Một hôm đang trên đường tìm kiếm, thầy trò bắt gặp một ngôi chùa, ngẩng
nhìn thấy ba chữ: “Thiên Ứng Tự”. Bỗng nghe bên trong có tiếng người ngâm nga mấy
câu sau:
“Chặn
dòng đóng cọc yểm bùa
Đem
ba việc ấy ra đùa thế gian
Cơ
trời khi hợp khi tan
Biết
đâu ẩn dưới một màn nhung y”
Tảo
Ao tiên sinh nghe lấy làm quái lạ, mấy câu đó nghe như muốn ám chỉ đến việc trấn
yểm long mạch mà mình đang theo đuổi. Nếu vậy thì trong chùa ắt có kỳ nhân. Lúc
ấy trời cũng gần tối, bèn gõ cửa chùa xin vào ngủ qua đêm.
Vị
sư trụ trì ngôi chùa ấy là người cũng đã có tuổi, chính là người vừa ngâm mấy
câu đó. Nom tướng mạo Tả Ao tiên sinh thì biết ngay không phải người tầm thường,
bèn mời vào phương trượng pha trà tiếp đãi, hầu chuyện rất mực cung kính. Tả Ao
tiên sinh lòng đang nóng như lửa đốt, bèn hỏi ngay:
“Chẳng
hay mấy câu mà hòa thượng vừa ngâm là có ý gì chăng?”
Vị
sư dường như cũng biết tâm trạng của khách nên trả lời ngay:
“Đó
là mấy câu kệ của sư phụ tôi truyền lại ngày trước. Trước khi viên tịch, sư phụ
tôi có dặn rằng có khi nào thấy ngài dừng chân trước cổng chùa thì đọc cho ngài
nghe…”
Tả
Ao tiên sinh nghe thấy thế thì càng giật nảy mình. Không ngờ nơi đây có bậc
chân tu đắc đạo, đã biết trước cả việc mình sẽ dừng chân trước cổng chùa này.
Bèn hấp tấp hỏi dồn:
“Sư
phụ của ngài là ai, tại sao Ngài biết tôi sẽ tới đây? Ngài có dặn gì nữa
không…”
Vị
hòa thượng trụ trì – chính là đệ tử truyền thừa của nhà sư họ Phạm ngày trước
thong thả kể lại toàn bộ câu chuyện của quan thừa tuyên sứ và công tử Lê Cực Kỳ
ngày trước cho Tả Ao tiên sinh nghe rồi nói:
“Sự
phụ tôi, Ngài có bảo rằng trong tam tài, thiên cơ, địa cơ và nhân cơ, thì phong
thủy xứ này thịnh về nhân cơ. Luận về thiên, địa, thì sở học của quan Khâm sai
có thể nói đã đạt tới bậc tuyệt kỹ rồi. Song về nhân cơ thì ngài còn có chỗ
chưa chú ý lắm.”
“Hèn
nào mà tôi lặn lội suốt từ đó đến nay, không tìm ra một long mạch nào đáng kể,
trong khi đó cái vượng khí thỉnh thoảng cứ xông lên ngùn ngụt. Té ra đế huyệt
nó “kết” trên thân người. Vậy chẳng hay Ngài có truyền bảo cách để trấn yểm cái
nhân cơ ấy hay không?” – Tả Ao tiên sinh hỏi.
Vị
hòa thượng lắc đầu:
“Thiên
cơ và địa cơ là do nghiệp chung của cả một cộng đồng kết lại nên có thể dùng
lòng người mà cảm hóa, hoặc dùng bùa ngải, dùng sức người lấp dòng, đóng cọc… để
trấn. Song nhân cơ vì nó kết theo nghiệp riêng của từng người nên không có cách
gì trừ cho tiệt nọc, chẳng qua chỉ làm cho nó lặn đi vài ba đời, rồi nó sẽ lại
hiển lộ ở một đời nào đó…”
“Một
vài đời cũng được – Tả Ao tiên sinh mừng rỡ ngắt lời – chẳng dấu gì hòa thượng,
tôi nhận chiếu chỉ của đương kim hoàng thượng, nếu không nhất thời trừ được cái
vượng khí này thì có lẽ mất đầu… Vậy phải làm thế nào xin hòa thượng ra ân chỉ
bảo cho biết.”
Đập Đá |
Quả
nhiên Tả Ao tiên sinh cũng chẳng phải lo đến điều đó nữa. Bởi khi ngài vừa về tới
kinh thành, chưa kịp viết xong bản tấu phúc trình về chuyến đi thì Uy Mục Đế Lê
Tuấn đã bị Giản Tu Công Danh (Lê Tương Dực sau này) nổi lên lật đổ và ép phải tự
sát. Việc trấn áp vượng khí xứ Thanh Hoa thế là được xếp lại.
Xứ
Thanh Hoa không bị trấn áp vượng khí nữa. Và nơi đó tuy không có long mạch,
song do cái sự kỳ duyên tục dương tiên khí từ thuở xa xưa ấy mà đã tạo ra cả một
vùng nhân cơ kỳ bí. Đó vẫn là nơi đã từng sinh ra nhiều bậc đế vương, trưởng giả…
Truyền mãi cho đến tận ngày nay, vẫn nổi tiếng là nơi phát tích của nhiều hạng
đế vương. Và đặc biệt, các loại trưởng giả thì đời nào cũng nhiều không kể xiết.
mé Cầu Lòn ngập nước 2020 |
chuyện hắn với tui hồi còn ở Huế
Trương Thị Liên
Trời
mưa buồn lục tủ gặp tấm hình ni, nhìn tấm hình đã phai mờ không còn
rõ nét, nhưng mà chuyện hắn với tui, tui vẫn còn nhớ mồn một như in.
Nhớ hồi đó tui 24 tuổi con trai đầu lòng được 10 tháng, nhớ những
ngày sắp tạ từ Huế, tạ từ những con đường Huế yêu thương, để lên
đường vô nam, nhìn tấm hình chợt rưng rưng nước mắt, nhớ đứa bạn thân
nhất, mà khi mô hắn cũng nói với tui, tau ghét mi, tui nói chi ra hắn
cũng cương gân cương cổ cái cho hơn tui, tui cải không lại hắn tui làm
thinh, thì hắn lại la lên, tau nói mi có nghe không rứa, tự nhiên tui
sợ hết hồn gật gật đầu, hắn lại la lên, răng mi nghe mà không nói chi
hết rứa, tui chỉ biết đứng rớt nước mắt lặng thinh, hắn lại la lên
mi đừng lấy nước mắt trến tau, tau không sợ mô, tui lại tức tưởi khóc
to hơn nhiều hơn, hắn thấy coi bộ không êm, hắn lặng lẽ bỏ đi.
Tui
không dám nói ra, chỉ nói lầm thầm trong bụng, ừ đi thì đi luôn đi
không thèm chơi nữa mô, con gái chi mà dữ thấy sợ,
Rứa
rồi ngày mai hắn cũng lót tót qua nhà tìm tui, hắn lân la làm huề
nói ni nói tê, tui nói với hắn, mi nói mi ghét tau mờ, tìm tau chi,
hắn tỏ vẻ dịu dàng lúng túng, ừ... thì tau nói ghét mi, là là tàu
ghét cái tính yểu điệu yếu ớt nhu mì đa sầu đa cảm ưa hát ưa hò ưa
văn ưa thơ ưa chụp hình chụp bóng của mi đó chơ, tau nói mi bỏ mấy
cái nớ đi, chơ tau là tau ghét mấy thứ nớ lắm, mi phải mạnh mẽ như
tau ri nì, hắn nói một hơi, tui không biết đường mô mà trả lời, ấp a
ấp úng, rồi tui nói đại ừ thì tại tau là con gái Huế mờ, hắn bắt
đầu nỗi nóng la lên, rứa mi nói tau không phải con gái Huế chắc, rứa
mi nói tau là con trai chắc, tau không thích mấy thứ như mi mà tau cũng
sống nhăn răng nì, rứa mấy đứa không thích mấy thứ giống mi rứa chắc
hắn chết hết à.
Hắn
với tui cứ rứa xảy ra mỗi ngày như cơm bữa, mấy đứa ở xóm tui hay
nói chơi, hai đứa ni răng cứ như sừng với đuôi mà răng cứ chơi với nhau
hoài lạ thiệt
Có
điều hắn tuy nóng tính như con trai nhưng mà hắn rất xốc xáo tốt bụng,
hay hay giúp đỡ bạn bè giúp đỡ mọi người, nhà hắn rất giàu nhưng
hắn sống rất bình dân, hắn sống hòa đồng không phân biệt giàu nghèo,
hắn rất thương những người tật nguyền nghèo khó, đặc biệt là hắn
thiệt thương tui, nên hai đứa cứ giận rồi lại chơi, chơi rồi giận, rứa
mà chơi với nhau rất lâu, hắn có chi ăn ngon hắn cũng để phần cho tui,
hắn có cái chi đẹp tui thích hắn cũng cho tui không hề tiếc, hắn với
tui ở gần nhà nhau cùng học chung cấp một, lên cấp hai chưa được bao
lâu, tui nghĩ học, còn hắn học tiếp
Mỗi
ngày mỗi lớn hắn cũng dịu dàng hơn, có hôm hắn nói với tui, tau cám
ơn mi nghe, tui nói mà mi cám ơn cái chi, hắn nói, hồi trước Ba Mạ
tau, khi mô cũng nói con chơi với con Liên mà con không học hắn, tau mà
nghe Ba Mạ tau nói rứa là tàu nỗi nóng lên tau còn ghét mi hơn, tau la
lên, con Liên có chi để mà học chơ, hắn được tài mu khóc đa sầu đa
cảm là giỏi, đôi khi tau cũng ghét mi thiệt, mà răng vắng mi là tau
buồn, mà chừ tau thấy Ba Mạ tau nói đúng đó, nhờ tau chơi với mi chừ
tau mới thấy tau đầm tính lại ít nổi nóng hơn hồi trước, chừ tau
lớn rồi tau mới nghĩ lại tau thương mi, tau chơi với mi mà tau toàn ăn
hiếp mi mà mi không hề giận hờn tau, tau cám ơn mi là cám ơn rứa đó.
Rồi
từ đó hắn không còn nỗi nóng với tui, hắn hết bắt tui mi phải rứa
mi phải tê nữa, hắn trầm lắng hơn.
Rồi
mùa xuân 1976 tui chia tay hắn để theo Ba Mạ về làng làm nông, hắn
tiếp tục con đường học vấn, vì về làng xa nên hắn với tui không còn
gặp nhau thường nữa, mà mỗi khi gặp nhau, hắn thấy tui là mặt mày
hắn rạng rỡ, hắn hỏi tui tứ lung tung, câu cuối cùng khi mô hắn cũng
hỏi mi về quê có cực không, có đủ ăn không, chừ đi ăn với tau hí, chừ
mi thích ăn chi nì.
Có
khi tui lâu không lên thăm hắn, thì hắn cũng về làng thăm tui,
Tấm
hình ni nhớ hôm tui vô nam, tui ghé thăm hắn trước khi vô nam, hai đứa
buồn buồn tủi tủi ngậm ngùi nói lời chia tay, trước khi từ giả hắn,
tui nhờ hắn chở ra tiệm chụp hình để chụp vài tấm hình làm lưu
niệm, còn nhớ khi hắn chở tui đi hắn còn nói với tui, cái tật ưa
chụp hình của mi tới chừ cũng chưa bỏ được nữa hí, tui nói nếu mi
bắt tau chọn một trong hai, được ăn ngon với được chụp hình thì tau
chọn chụp hình, hihi tau là rứa mà mê chụp hình bẩm sinh mà, vì tau
ưa chụp hình hơn ăn ngon.
Tới
tiệm chụp hình hắn không vô, tui kêu hắn mi vô chụp với tau tấm để mai
mốt tau vô nam lỡ tau nghèo khó, tau không có tiền về thăm mi tau dòm
hình mi cho đỡ nhớ, hắn dứt khoát không vô, hắn nói tau biết mi ưa chụp
hình, tau thương mi tau chở mi đi, chơ ba cái thứ ni tau ghét lắm, tui
cũng nói chơi với hắn, cái tật không thích chụp hình của mi tới chừ
cũng có bỏ được mô nà, hắn cười buồn rồi nói, ừ rứa huề một đều
hí.
Rứa
là tui ra đi không hẹn ngày trở lại, thời gian đầu đất khách quê
người nhà nghèo con đông lo làm phụ chồng nuôi con, tới năm 2005 tui
mới về thăm Huế, người đầu tiên tui tìm là hắn, về lại xóm xưa chỉ
còn lại hai ba nhà cũ còn ở lại, còn toàn người lạ mới tới ở, hỏi
thăm cũng không ai biết nhà hắn dời về mô, rứa hắn với tui là lạc
mất nhau từ đó, đôi khi ngồi nhớ hắn tui cứ rưng rưng nước mắt, rồi
nghĩ tới, giờ ni không biết hắn đang ở mô, hắn đang cực khổ hay đang
sung sướng, tui vẫn thầm cầu nguyện cho hắn bình an hạnh phúc giàu
sang, và lòng luôn thầm mong được gặp hắn.
Nhìn
tấm hình ni rồi nghĩ, vừa thương vừa giận hắn, phải chi hồi nớ hắn
đừng ương bướng hắn chịu chụp với tui tấm hình chừ tui nhìn được
mặt hắn tui cũng đỡ buồn hơn.
Đôi
khi nhớ hắn thiệt buồn, rồi phải tự an ủi để giải khuây, có lẽ tui
với hắn cái duyên chừng nấy thôi, nói là nói rứa chơ trong lòng cứ
mong gặp hắn, để ôn bao kỷ niệm một thời hắn với tui.
Đang
đau mắt mà nhớ hắn quá nên phải viết, viết vội viết vàng để trãi
lòng chơ ôm cảm xúc trong lòng tối ni không ngủ được.
Hình ảnh O Huế tui chụp với con trai đầu lòng chưa tròn một tuổi,tại Huế. hè năm 1980 ngày giã từ Huế ra đi trượt bước quá dài25 năm sau mới trở quay trở lại
Bài viết, ghi chú, hình đăng trên FB Huế Cố Đô Dec 15 2020
==============================================================
ghi nhận ngắn
Tôi
thích những người không phải văn sĩ mà viết văn. Dễ nhất và khó nhất là viết về
tình yêu, tình thương. Dễ nhất vì sao? loẹt quẹt ba chữ lệ rơi, lá rụng, tóc thề...là
đủ rồi. Khó nhất vì sao? Khổng Tử nói: vẽ con chó, con mèo khó hơn vẽ thánh vẽ
thần; thánh thần có ai chộ mô, mắt to bằng cái chén, ba đầu sáu tay mười hai
con mắt. Con trâu, con bò, con mèo ai cũng chộ, cũng biết, vẽ bậy thì lộ ngay.
Con mèo, con trâu là tình yêu, là tình thương ai cũng biết. Thi sĩ văn sĩ nói dốc,
chữ nghĩa bịp bợm, khóc thuê, thì i tờ rít hay bác học đều nhận ra đang vẽ
thánh vẽ ma. Ở đây chị Trương Thị Liên vẽ con trâu, con bò, con mèo, chén cơm,
bụi chuối, ai cũng biết và khóc theo phận người. Cô cũng nói ra đi trượt bước,
mấy chục triệu người trượt bước như chị, họ biết đường trơn máu đổ đau thương
thế nào.
Một
tiếng "nam mô", một tiếng "amen" cho người còn sống, cho
người đã chết, cho quá khứ, hiện tại và tương lai. Nam mô, Amen! Tháng 4 2021
Tôn Thất Tuệ
Cô
Gái Trường Sơn
Không biết tên tác giả * 2011
Một
cô thanh niên xung phong bị phát hiện đang lén lút làm cái việc “tự sướng” bên
con suối nhỏ sâu trong rừng.
Suốt
ba đêm liền, từ sau bữa ăn tối cho đến gần sáng, cô bị đồng chí của mình, toàn
nữ, kiểm điểm gay gắt và không ngớt lời xỉ vả. “Ghê tởm, thật ghê tởm!” “Một biểu
hiện suy đồi đạo đức!” "Một hành động bêu xấu hình ảnh người chiến sĩ cách
mạng, đi ngược với lý tưởng và lối sống cách mạng tốt đẹp!” “Xử bắn con đĩ tư sản
thối nát ấy đi!” v.v....
Sang
ngày thứ tư, không chờ đồng đội xử bắn, “con đĩ tư sản thối nát” ấy đã treo cổ
tự tử trên cành cây bị bom chặt đứt một nửa.
Chủ
trì và cũng lớn tiếng xỉ vả nhất trong ba đêm đấu tố ấy là cô Duyên. Đơn giản
vì cô là đội trưởng đội thanh niên xung phong ấy. Duyên là người làng tôi, thậm
chí suýt thành chị dâu, nếu anh trai con ông bác tôi không hy sinh ở Quảng Trị
năm 68. Tự cô kể tôi nghe chuyện này khi hết chiến tranh trở về nhà.
“Tội
nghiệp nó! Người ta bảo thì bọn chị phải làm thế, chứ thương lắm!” cô nói, rơm
rớm nước mắt. “Khối đứa như nó. Chị biết”.
“Cả
chị?” tôi hỏi.
Ngập
ngừng một lúc, chị nói, giọng thách thức:
“Thì sao? Chị không là người chắc? Cả bầy con gái thui thủi một mình trong rừng không một mống đàn ông suốt mấy năm trời! Đơn vị chị thì không, nhưng nghe nói ở Đrao, Tây Nguyên, có mấy chục đứa phát cuồng, lúc ôm nhau cười mãi không thôi, lúc xé hết quần áo kéo chạy tồng ngồng giữa rừng như những con điên.
Cao nguyên Trung Việt ngày nay |
Về
làng được bốn năm, do lỡ thì, và cũng do chẳng còn đàn ông nào nữa mà lấy, chị
Duyên xuống tóc đi tu, ở ngay Chùa Mít bên sông Bùng. Vợ chồng bác tôi thương lắm,
nhưng chẳng can ngăn. Trong thâm tâm hai cụ vẫn coi chị là con dâu. Có người
nói chị bị ai đó trên tỉnh lừa tình. Chuyện này thì tôi không rõ, mà cũng chẳng
quan trọng. Tôi chỉ thấy ngỡ ngàng, thậm chí đau nhói trong ngực khi hình dung
chị dâu hụt của tôi, – một người xinh đẹp, yêu đời, từng nhiều năm làm đội trưởng
đội văn nghệ xã, – lại tự nguyện giam mình trong ngôi chùa hiu quạnh, đổ nát, với
bộ quần áo màu nâu nhà Phật. Mấy ngày sau, tôi đến tìm chị, định hỏi cho ra
chuyện, nhưng tôi đã không vào chùa khi đứng từ xa nhìn thấy chị đang thẫn thờ
đưa chổi quét đi quét lại cái sân vốn đã sạch.
Lặng
lẽ ra về, tôi cố giải thích mà không giải thích nỗi cái gì đã biến một cô gái
tươi vui, hồn nhiên, tràn trề hạnh phúc và xứng đáng được hưởng hạnh phúc thành
một người yếm thế, bất hạnh như vậy.
Chiến
tranh? Phải chăng đây là cái giá của chiến tranh?
Bẵng
đi nhiều năm, tôi lại vào chùa Mít.
Nó
vẫn thế. Hai cây nhãn trước chùa vẫn thế, và vẫn thế, chúng không chịu cho quả.
Đang
vắng người, tôi vào thẳng phòng riêng sư trụ trì, sư thầy Đàm Duyên. Sư thầy chứ
không phải sư cô như ngày nào.
“Chào
chị Duyên,” tôi lên tiếng, không hiểu sao còn cố tình nói to.
“Mô
phật. Xin xưng hô với kẻ tu hành này theo đúng cách của nhà Phật. Chào chú.”
Đứng
chắp tay trước mặt tôi, đầu hơi cúi, là một bà già nhỏ bé, khô đét và không còn
tí dấu vết nào của cô Duyên ngày xưa cũng như sư cô Đàm Duyên sau đó tôi gặp.
Nét mặt bà không chỉ vô cảm mà bất động như được nặn bằng sáp. Cái đầu trọc
bóng loáng cũng có lớp sáp nhờn nhợt ấy.
Bất
giác, tôi chợt nghĩ: “Nếu không trọc, không biết tóc chị sẽ bạc đến đâu?”
“Chị
khỏe chứ?”
“Mô
phật.”
“Người
ta nói nay mai chùa Mít bị đập bỏ để xây đường lớn lên Đô Lương và sang Lào?”
“Mô
phật,” và chị khẽ cúi đầu.
“Thế
chị và mọi người đi đâu?”
Sư
thầy Đàm Duyên không đáp. Chất sáp trên mặt và cái đầu trọc của bà càng trở nên
rõ nét hơn. Hình như bà đang khóc, dù đôi mắt sâu vô hồn vẫn ráo hoảnh.
Lát
sau tôi bỏ về, vô cớ hậm hực với ngôi chùa tội nghiệp sắp bị phá bỏ, với hai
cây nhãn xum xuê mà không chịu cho quả. Với cả chính tôi vì mãi vẫn lấn cấn tìm
lời giải thích cho số phận chị dâu mình và những người như chị.
Chiến
tranh! Ừ, chiến tranh! Tiên sư thằng chiến tranh!
Tôi
thấy có cái gì nghèn nghẹn trong cuống họng, muốn văng tục chửi ai đó, đập phá
cái gì đó mà không được. Chửi cái thằng gây ra chiến tranh chẳng hạn. Tiên sư
thằng gây ra chiến tranh!
Đừng
nói với tôi về chiến tranh bảo vệ tổ quốc và chính nghĩa. Tôi đã đủ khôn lớn để
hiểu rằng cuộc chiến ấy, nếu quả là bảo vệ tổ quốc và chính nghĩa như người ta
nói, cũng chẳng là gì nếu nó là thủ phạm của hàng triệu cái chết dân Việt, hàng
chục triệu cuộc chia ly đau đớn, thủ phạm của một sự đảo lộn triệt để các giá
trị truyền thống dân tộc. Nó trở thành nhảm nhí khi vì nó các cô gái của chúng
ta phải “tự sướng” và tự treo cổ, khi một người trẻ trung, tươi vui và tràn trề
nhựa sống như chị Duyên của tôi phải biến thành một hình sáp vô hồn.
“Ừ,
mà nếu không cạo đầu, tóc của chị sẽ bạc đến đâu nhỉ?”
===================================================================================
Saigon 1973 =============================== |