rước dâu làng quê Quảng Trị 1969 |
tướng lạ
Phạm Lưu Vũ * 2015
Thời
Hồng Đức, phủ Thanh Hoa có quan thừa tuyên sứ họ Lê tuổi ngoại tứ tuần, thê thiếp
hàng đàn mà tuyệt không người nào chịu sinh cho ngài một mụn con nối dõi. Một
hôm buồn tình, ngài bèn tổ chức một cuộc đi săn trong núi, dắt theo đàn thê thiếp
có đến mấy chục cô son phấn má đào.
Đoàn
người ngựa tiền hô hậu ủng, cung tên, giáo mác bời bời vừa đi vừa ngoạn cảnh, mấy
ngày mới lên tới một vùng núi cao, những ngọn núi chập trùng, cây cối rậm rạp
phủ một màu xanh biếc. Một hôm, đoàn người ngựa đang đi bỗng nhiên dừng lại,
lúc bấy giờ ngài còn đang mải hoan lạc với mấy người thiếp trong kiệu loan, chợt
thấy cái nhịp nhịp dập dình đang cộng hưởng với lạc thú bỗng dừng tắp lại bèn vạch
màn ra hỏi vì sao. Chúng bẩm trước mặt có một cái hồ lớn như thể vừa thình lình
hiện ra chắn mất lối đi. Thấy lạ, ngài bèn chỉnh lại y phục rồi thong thả bước
xuống. Quả nhiên là một hồ nước lớn trải rộng vào tít phía những ngọn núi xa
xa. Mặt hồ xanh ngắt in rõ bóng mây, những làn hơi nước bảng lảng vật vờ làm
cho phong cảnh như đượm màu bồng lai, tiên cảnh. Cao hứng quá, ngài bèn ra lệnh
cho quan quân tản vào rừng tha hồ săn bắn, còn ngài lập trại ngay tại đó để
cùng các thê thiếp thù tạc vui vầy và thưởng ngoạn cảnh hồ…
Sau
chuyến đi ấy, một người thiếp của ngài bỗng nhiên thụ thai. Ngài mừng lắm, cho
là vì gặp được cảnh lạ thần tiên nên mới có sự kì diệu tình cờ này. Tai sao
ngài lại quả quyết rằng mình đã gặp cảnh lạ thần tiên? Bởi vì sau mấy ngày lập
trại bên hồ, trên đường trở về, ngài có sai gọi người địa phương tới hỏi thì tuyệt
không ai biết trong vùng lại có cái hồ ấy. Vậy là thần tiên đã có ý giúp cho
mình có con nối dõi, ngài bèn quyết định xa lánh hết thảy mọi cô khác, suốt
ngày chỉ quấn quýt người thiếp ấy mà thôi. Đủ chín tháng mười ngày, người thiếp
quả nhiên sinh hạ một đứa bé trai kháu khỉnh. Ngài mừng lắm, đặt ngay tên con
là Lê Cực Kỳ, có ý muốn nói đến chuyến đi săn cực kỳ quái lạ và thú vị của
mình.
Nha Trang trước 1975 |
Quá
đỗi ngạc nhiên không thể giải thích, ngài cứ đứng trân trân ngắm mãi cảnh tượng
đó. Một, rồi hai canh giờ trôi qua. Tới gần sáng thì ánh sáng xanh đó từ từ yếu
dần rồi tắt hẳn. Tới sáng ra thì trở lại bình thường, vẫn là cái bộ phận nhỏ nhắn
xinh xinh và đỏ hỏn mọi khi. Ngài bắt đầu theo dõi, những đêm sau cũng có ánh
sáng nhưng độ dài cứ giảm dần, vài hôm sau thì hết hẳn. Sau đó khoảng một
tháng, hiện tượng đó lại lặp lại y như tháng trước. Không còn nghi ngờ gì nữa,
cái chỗ ấy của công tử rõ ràng có tướng lạ kỳ, nó theo tuần trăng mà biến đổi,
nhưng đó là quý tướng hay tiện tướng thì ngài không biết, xưa nay ngài chưa hề
nghe các sách tướng nói đến bao giờ. Ngài linh cảm đây là việc hệ trọng, liên
quan đến dòng giống sau này nên ngài hết sức giữ kín, chỉ vài người tâm phúc biết
đến mà thôi.
Trong
đám sư gia thân tín của quan thừa tuyên có gã họ Du, vốn xuất thân áo vải lưu
manh, nhưng được cái tài cao học rộng vẫn được ngài tin dùng. Biết tâm tư của
ngài về chuyện cái tướng lạ ấy của công tử, bèn dốc chí đọc sách, tìm tòi tra cứu,
song mãi vẫn không tìm ra điều gì. Một hôm thong thả cưỡi ngựa ra ngoài thành,
ghé vào một quán nước chè gọi một bát, vừa uống vừa ngẫm nghĩ. Chợt có một vị
sư nón tơi áo lá cũng ghé vào quán. Chủ quán rót ngay một bát nước đưa cho vị
sư, tựa như hai người đã quen biết từ trước. Cầm bát nước trong tay song chưa vội
uống, vị sư bỗng buột mồm ngâm mấy câu thơ:
“Nhân duyên dựng một góc trời
Non cao, nước biếc là nơi hữu tình
Rõ
ràng long mạch rành rành
Đế
vương từ chỗ ngọc hành mà ra”.
Đọc
xong, vị sư đưa bát nước lên miệng uống một hơi cạn sạch rồi đặt bát xuống, khẽ
chào ông chủ quán một tiếng rồi đứng dậy đi thẳng. Sư gia họ Du nghe mấy câu ấy
bỗng cảm thấy ngay có gì quái lạ, chưa kịp hỏi thì vị sư đã đi mất rồi, bèn hỏi
ông chủ quán:
“Chẳng
hay ông có biết vị sư này là ai, ở đâu không?”
Ông
chủ quán nước trả lời:
“Dạ
bẩm, tôi chỉ biết ông ta tục danh họ Phạm, còn pháp danh là gì thì chẳng ai biết.
Ông ta vốn người vùng ngoài, nghe nói gần sáu mươi tuổi mới xuất gia, tình cờ
xuất hiện ở vùng này cách đây chưa lâu, hiện tu ở một cái am nhỏ trong núi, thỉnh
thoảng có ghé qua đây uống nước, nói đôi ba câu chuyện, vì thế mà tôi biết.”
Sịa, Thừa Thiên |
“Bẩm
quan lớn, nô tài đã tìm đọc đủ các loại sách tướng cổ kim, song tuyệt không
sách nào nói đến cái tướng lạ ấy. Hôm nay tình cờ gặp một người tu hành, hành
tung có vẻ bí ẩn, ông ta tự dưng vô cớ đọc mấy câu như có ý ám chỉ… Biết đâu
đây là người ta cần tìm để hỏi cho ra về chuyện cái tướng lạ của công tử…”
Quan
thừa tuyên nghe người sư gia của mình đọc lại mấy câu đó cũng cảm thấy nghi ngờ.
Thế là chủ tớ bàn nhau sắm sửa lễ vật, bí mật cải trang, lên ngựa ra ngoài
thành hướng vào trong núi, tìm đến chỗ vị sư nọ. Rẽ cây vạch cỏ, khúc khuỷu gần
nửa ngày trời, hai người mới thấy một am cỏ hiện ra dưới chân một ngọn núi, bên
cạnh có một dòng suối nhỏ. Không có tiếng gõ mõ tụng kinh, cũng chẳng có tượng
Phật. Trong am cỏ, vị sư già đang ngồi tĩnh tọa, mặt quay vào vách dường như
không biết có khách đến sau lưng… Cuối cùng, bằng sự kiên trì của hai con người
trần tục kia, cuộc nói chuyện rốt cuộc cũng diễn ra. Quan thừa tuyên kể lại câu
chuyện của mình từ lúc đi săn gặp hồ nước, sinh con trai, đến lúc phát hiện tướng
lạ của công tử… Nhà tu hành nghe xong nói:
“Vậy
thì có lẽ đúng là cái hồ ấy. Vào thời lâu lắm rồi, nó vốn ở tít trong núi sâu,
cách biệt hẳn với những bản làng cao nhất nên người thường không ai có thể tới
được. Đó là nơi các thiên nữ ở cung trời Dạ Ma thường hay xuống tắm. Các thiên
nữ cách ngày tắm một lần, nhưng một ngày đêm trên cung trời Dạ Ma bằng hơn hai
trăm năm hạ giới, nên ở hạ giới thì phải hơn bốn trăm năm mới thấy một lần.
Cách đây vào khoảng sáu trăm năm, có người họ Cao là thuật sĩ phương Bắc, thấy
vùng này núi non hùng vĩ, cho rằng tất sẽ có nhiều long mạch quý bèn tìm đến. Lặn
lội khắp vùng hàng năm trời, họ Cao không thấy có long mạch nào đáng kể thì lấy
làm lạ. Cuối cùng bắt gặp cái hồ ấy, nom thấy có tiên khí bốc lên rất mạnh thì
nghĩ rằng, nếu tạo được nhân duyên, để tục dương kết hợp được với tiên khí ắt sẽ
xảy ra nhiều chuyện lạ. Phải cái là hồ nằm giữa một vùng núi non hiểm trở, người
thường còn không ai biết đến sự có mặt của nó, nói chi đến chuyện bén mảng đến
đó để mà gặp gỡ với tiên khí…
Họ
Cao vốn là người rất giỏi thuật phong thủy, có phép hô sấm gọi sét, lại có thuật
dời cơ rút đất. Nghĩ tới cả một vùng núi non hùng vĩ hiếm có dưới trời Nam này,
mà không có lấy một long mạch đế vương thì cũng uổng phí, nay thử dùng kiến thức
phong thủy mà tạo lập cơ trời một phen, biết đâu những đời sau, có kẻ sẽ nhân
đó mà chuyển được mạng giời… Bèn làm thuật rút đất, dời cả một vùng dân cư tới
gần bên chiếc hồ đó mà không một ai cảm thấy có điều gì khác lạ. Cứ thế đến mấy
trăm năm, khi ấy họ Cao từ lâu đã trở thành người thiên cổ, các thiên nữ cung
trời Dạ Ma không hề biết hiện đã có nhiều bản làng người phàm trần sống xung
quanh hồ nên cứ tự nhiên xuống tắm. Và điều tiên liệu của thuật sĩ họ Cao ngày
trước đã xảy ra. Có rất nhiều trai làng vùng ấy đã tình cờ được hưởng những cuộc
hoan lạc ái ân tuyệt đỉnh với các nàng thiên nữ.
Sự
việc ấy làm kinh động các tầng trời, suốt từ trời Dạ Ma xuống đến trời Tứ thiên
vương gồm ba tầng trời. Và đã kinh thiên thì tất nhiên động địa. Các thiên
vương tức giận đã gây ra một cuộc động đất, phế bỏ tuyệt tích cái hồ đó. Việc xảy
ra đã hơn hai trăm năm nay, vì thế dân ở đó không còn ai biết đến cái hồ ấy nữa.
Không hiểu vì nhân duyên gì, mà cho tới tận ngày nay, khi quan thừa tuyên đến,
cái hồ ngày trước lại hiện ra?
“Nhưng
ngay sau đó, tôi có sai người đến đúng chỗ ấy tìm thì tuyệt không thấy một cái
hồ nào cả. – quan thừa tuyên vội nói với vị sư – Đúng là một cái hồ tiên. Chẳng
hay câu chuyện tiếp theo thế nào, xin sư phụ kể tiếp cho biết?”
Vũng Tàu xa xưa |
“Các
thiên vương chỉ xóa bỏ cái hồ, chứ không trừng phạt những trai tráng kia. Về phần
những anh chàng may mắn gặp được cái duyên kỳ ngộ ấy, kể từ đó, trên người anh
nào cũng xuất hiện tướng lạ, đúng hệt như của công tử nhà ta, nghĩa là cứ mỗi
tháng một lần, hai quả cà nằm trong cái túi da ấy lại biến thành ngọc, phát ra
ánh sáng màu xanh, vài ngày thì hết… Chuyện đồn ra đến tận kinh thành. Bấy giờ
nước ta vẫn còn nằm dưới quyền cai trị của người phương bắc, quan thái thú lúc ấy
là Sĩ Vương thấy việc lạ kỳ thì tỏ ra thích thú lắm, bèn đặt tên vùng đất ấy là
Ngọc Cặc.
Tại
sao lại có cái tên nửa chữ nửa nôm, lại nửa thanh nửa tục như vậy? Nguyên lúc ấy,
quan thái thú ngài mới bắt đầu đem chữ của người Hán sang giáo hóa người phương
Nam ta, công cuộc truyền bá mới được non nửa, vậy nên vẫn phải dùng một nửa là
tiếng tục của dân địa phương thì mọi người mới hiểu. Quan thái thú ngài còn bảo
trước: “Đợi khi nào giáo hóa xong, đời sau tất có kẻ sẽ tìm chữ khác để thay thế
cho cái chữ đứng sau kia. Nhưng việc này mà không đặt tên ngay, sợ không ghi nhớ
được cái sự kiện không tiền khoáng hậu ấy…”
Câu
chuyện của vị sư đến đây làm hai người khách đã sáng tỏ phần nào. Song việc quan
trọng nhất là cái tướng lạ ấy, rốt cuộc là quý tướng hay tiện tướng? rằng nó có
liên quan gì đến hậu vận? Chừng như biết được những lo lắng sốt ruột ấy trong đầu
khách, vị sư thong thả nói tiếp:
“Đó
là chỗ sinh ra tinh khí của đàn ông, gọi là huyệt “dương lai âm thụ”, do hình
dáng đặc biệt của nó mà mọi khí dương của trời đất được hấp thụ vào đó, tụ lại ở
đó để chờ dịp sản sinh ra tinh khí. Hình dạng của mặt đất gọi là “địa cơ”, thì
huyệt “dương lai âm thụ” chỉ “kết” trên những long mạch quý, đó là long mạch đế
vương. Hình dạng con người gọi là “nhân cơ”, tuy cũng chẳng khác gì địa cơ,
song huyệt dương lai âm thụ trên con người chỉ dùng trong việc nam nữ giao hợp,
làm cái duyên cho nghiệp dẫn để sinh con đẻ cái thông thường mà khó tác động đến
việc chuyển nghiệp đột biến…”
Nói
đến đây, vị sư dừng lại một lát như thể cân nhắc điều gì rồi tiếp tục:
“Trường
hợp của công tử nhà ta có cái tướng ấy thì cũng giống những trai tráng vùng ấy
hơn hai trăm năm về trước. Điều này cực hiếm, sách cổ gọi là “nhân cơ sinh đế
huyệt”. Đó là một quý tướng, một “huyệt đạo” đế vương nằm trên cơ thể con người.
Tướng ấy không những sinh quý tử, mà còn có thể từ đó sinh ra bậc đế vương…”
Quan
thừa tuyên nghe đến đây thì trong lòng bừng bừng cảm động, sung sướng quá không
kìm được, buột mồm hỏi ngay:
“Thưa
sư phụ, vậy chẳng lẽ… bao nhiêu trai tráng hai trăm năm về trước kia sinh ra… đế
vương cả hay sao?”
“Họ
tuy tự dưng vớ được tướng quý – vị sư bình tĩnh giải thích – song không phải là
tướng bẩm sinh cho nên chỉ sinh ra những hạng trưởng giả mà thôi. Duy trong số
đó, nếu có chàng trai nào ngẫu nhiên có sự trùng hợp với tử vi thì cái ngọc
hoàn ấy mới đích thị là một huyệt đạo đế vương…”
Kontum |
Trên
đường trở về thành, chủ tớ bàn nhau dấu kín việc này, bởi nếu triều đình biết
việc con cháu nhà mình sau này sẽ thành đế vương thì họa ắt tới nơi. Gã sư gia
họ Du còn cẩn thận hơn, ấy là không để câu chuyện này qua vị sư kia mà bị lọt
ra ngoài. Thế là về đến dinh, quan thừa tuyên lập tức sai dựng một ngôi chùa
khang trang ngay trong phủ đệ của mình, đặt tên là chùa Thiên Ứng, mời nhà sư họ
Phạm kia về làm trụ trì, vừa lấy tiếng công đức xây chùa độ sư, vừa như giam lỏng
nhà sư, không để câu chuyện lọt ra ngoài.
Nói
về công tử Lê Cực Kỳ, càng lớn càng tỏ ra là con nhà thế phiệt học hành sáng dạ,
đọc đâu thông đấy. Năm hai mươi tuổi lên kinh đô thi. Quan thừa tuyên lúc này
tuy đã già, song vẫn định bụng cho chàng kiếm chút khoa cử rồi lấy vợ sinh con
quý tử hoặc đế vương cũng chưa lấy gì làm vội. Trên đường trẩy kinh, công tử
cùng mấy người theo hầu vào nghỉ đêm ở một ngôi đình của làng nọ. Hôm đó lại
đúng vào thời kỳ mà cái ngọc hoàn của chàng nó phát quang. Vào lúc mọi người, kể
cả chàng đã ngủ say, thứ ánh sáng xanh kia bỗng phát ra le lói. Thành hoàng
làng ấy nom thấy thế thì giật nảy mình, song vốn là một bậc có tâm cơ, ngài
nghĩ ngay rằng đất nước hiện đang thái bình, may có được một vị minh quân trị
vì. Nay nếu người này sinh con đế vương thì chẳng bao lâu, trăm họ sẽ lại lâm
vào cảnh tranh ngôi đoạt vị, loạn lạc dấy lên thì không phải phúc cho dân lành.
Âu là ta phế béng cái tướng quý này đi là xong.
Nghĩ
thế rồi vị thành hoàng bèn thò tay vào móc hai hòn dái ngọc đang rực sáng của
chàng ra mà bỏ vào… nồi đun chừng nửa canh giờ. Khi lấy ra khỏi nồi thì cái ánh
sáng xanh kia giờ đã tắt lịm. Ngài lại bỏ hai hòn dái vào vị trí cũ rồi dùng
tay thoa thoa, miệng hà thần khí, giây lát cái chỗ đó trở lại đen ngòm như bình
thường mà chàng cũng không hề cảm thấy gì.
Khoa
thi ấy chàng trượt ngay từ vòng sơ khảo. Chẳng hiểu sao kinh sử rơi đâu mất sạch.
Quan thừa tuyên chưa kịp buồn vì chuyện đó thì bỗng phát hiện cái tướng đại quý
kia của chàng cũng tự dưng biến mất, chờ mấy tháng tuyệt chẳng thấy tăm hơi gì,
công tử hiện nguyên hình là một chàng trai ngốc nghếch, tầm thường như bao chàng
trai cùng lứa tuổi. Chẳng lẽ nhà sư kia nói sai? Quan thừa tuyên bèn tức tốc
sang chùa gặp nhà sư kể lại chuyện ấy. Nhà sư nghe thấy cũng hơi ngẩn ra một
lát rồi bảo:
“Chẳng
lẽ lại có chuyện đó… Quan lớn có thể gọi công tử sang đây cho tôi hỏi kỹ lại có
được không?”
Lê
Cực Kỳ lập tức được gọi tới trước mặt nhà sư và quan thừa tuyên. Nhà sư hỏi:
“Chẳng
hay trên đường đi, công tử ngủ qua đêm ở những đâu?”
Lê
Cực Kỳ cứ theo hành trình mà kể lại cho nhà sư nghe. Đến chỗ ngủ qua đêm ở một
ngôi đình làng nọ, nhà sư bỗng ngắt lời:
“Công
tử có nhớ tên cái làng có ngôi đình ấy không?”
“Bạch
sư phụ, làng ấy có tên là Cung Hỉ…”
“Thôi
phải rồi – vị sư ngắt lời chàng rồi quay sang phía quan thừa tuyên – Bẩm quan lớn,
làng ấy bần tăng cũng đã từng qua. Nó vốn có tên là Cung Thỉ, chỉ vì ngày trước,
trong làng có người đỗ đạt, thấy chữ “Thỉ” xấu, mới thay bằng chữ “Hỉ”. Thành
hoàng làng ấy vốn xuất thân làm nghề hoạn lợn. Đó là một làng chuyên nghề thiến
hoạn súc vật. Ngày trước, bần tăng đã dặn quan lớn về chuyện dâm loạn, song
quên dặn rằng cái tướng ngọc hoàn này rất kỵ gần những người làm nghề thiến hoạn.
Nếu không bị nó triệt mất tướng quý thì cũng dễ gặp tai họa, nửa chừng đứt
gánh… Âu cũng là mệnh trời…”
Thế
là tan giấc mộng đế vương. Quan thừa tuyên buồn bã, thở dài ngao ngán. Song
ngài bỗng dừng phắt lại chú ý vì nhà sư đã tiếp tục cất tiếng:
“Nhưng quan lớn cũng chớ có buồn vội. Kẻ chuyên nghề thiến hoạn kia tuy triệt được cái tướng hiển lộ ra trong một đời, song không thể triệt được gốc “căn” của nó. Đời này, công tử tuy không sinh được quý tử nữa, song trải những đời sau, khi nào hội đủ duyên, cái tướng quý ấy sẽ lại hiển lộ. Dòng dõi quan lớn sau này tất có đời sẽ làm đến đế vương. Chỉ cần quan lớn ghi rõ trong gia phả, dặn con cháu đời sau rằng bất luận thế nào, thì cũng phải tránh xa những người từng làm nghề thiến hoạn, tuyệt đối không kết bạn, giao du hay cùng cộng tác…”
nước mắm tỉn, Phan Thiết |
“Thần
trộm nghĩ bảo vệ cái uy của mình thì không tiếc hình phạt, tiêu diệt kẻ khinh lờn.
Lo cho cái ngôi của mình thì phải đề phòng có kẻ tranh cạnh… Nay xứ Thanh Hoa
vượng khí chói lọi, tất có long mạch đế vương ở đó. Xưa vua Trần đã từng nghe lời
thầy địa lý bên Tàu mà đào sông nhằm phế bỏ long mạch của tiên tổ ta (trỏ Lê Lợi),
việc không thành là do mắc mưu gian của bọn người phương bắc. Tiên tổ ta mới
nhân đó mà nổi lên. Việc trước tuy như thế, song ngẫm lại, vẫn có chỗ phải
theo, huống chi nay ta có Tả Ao là một người tài giỏi việc phong thủy, lại là một
bậc trung thần. Dám xin bệ hạ xuống chiếu sai Tả Ao đi phá long mạch xứ ấy, để
phòng có kẻ tiếm vị sau này thì cơ nghiệp của tiên đế để lại sẽ mãi mãi vững bền.
Thần tin rằng với kiến thức và lòng trung của mình, Tả Ao tất sẽ vì bệ hạ mà
không lặp lại cái sai lầm của vua Trần ngày trước…”
Uy
Mục Đế xem sớ bỗng rùng mình rợn gáy, lập tức xuống chiếu, cấp cho Tả Ao mười vạn
quan tiền, phong làm khâm sai trạch địa, sai ngày đêm đi gấp vào xứ Thanh, tìm
bằng được long mạch để phá cho tiệt những mầm mống đế vương nếu có.
Tả
Ao tiên sinh là một bậc thần cơ diệu toán. Kiến thức phong thủy của ngài ở nước
Nam thì cổ kim chưa ai có thể so sánh. Có lẽ cũng chẳng kém thuật sĩ họ Cao người
phương bắc ngày trước. Nhận chiếu chỉ, ngài chỉ mang theo một chú tiểu đồng cắp
tráp theo hầu rồi theo đường trạm đi gấp vào Thanh Hoa.
Lại
suốt nửa năm trời trèo đèo, lội suối khắp các vùng núi non Thanh Hoa, cũng giống
như thuật sĩ họ Cao ngày trước, thầy trò Tả Ao cũng không phát hiện được một
long mạch nào đáng kể. Trong khi cái vượng khí đế vương kia thì cứ xông lên bời
bời như trêu ngươi. Chẳng lẽ kiến thức phong thủy của mình còn có chỗ khiếm
khuyết? Tả Ao tiên sinh băn khoăn trăn trở. Không có lẽ như thế. Bởi phong thủy
dẫu có trầm (lặn), có phù (nổi), song nó là “ngôn ngữ” của cái khí ngũ hành vốn
là nguồn năng lượng bất tận tạo nên mọi sự sinh, diệt trên thế gian này. Tuy
không thể “bắt” được nó, song nó luôn thể hiện thông qua sự uốn lượn của địa
hình, có khi nổi lên thành gò đống, có khi thụt xuống thành vực sâu… Người biết
thuật phong thủy thì chỉ cần nhìn cây cỏ cũng biết bên dưới đang ẩn chứa điều
gì… Một hôm đang trên đường tìm kiếm, thầy trò bắt gặp một ngôi chùa, ngẩng
nhìn thấy ba chữ: “Thiên Ứng Tự”. Bỗng nghe bên trong có tiếng người ngâm nga mấy
câu sau:
“Chặn
dòng đóng cọc yểm bùa
Đem
ba việc ấy ra đùa thế gian
Cơ
trời khi hợp khi tan
Biết
đâu ẩn dưới một màn nhung y”
Tảo
Ao tiên sinh nghe lấy làm quái lạ, mấy câu đó nghe như muốn ám chỉ đến việc trấn
yểm long mạch mà mình đang theo đuổi. Nếu vậy thì trong chùa ắt có kỳ nhân. Lúc
ấy trời cũng gần tối, bèn gõ cửa chùa xin vào ngủ qua đêm.
Vị
sư trụ trì ngôi chùa ấy là người cũng đã có tuổi, chính là người vừa ngâm mấy
câu đó. Nom tướng mạo Tả Ao tiên sinh thì biết ngay không phải người tầm thường,
bèn mời vào phương trượng pha trà tiếp đãi, hầu chuyện rất mực cung kính. Tả Ao
tiên sinh lòng đang nóng như lửa đốt, bèn hỏi ngay:
“Chẳng
hay mấy câu mà hòa thượng vừa ngâm là có ý gì chăng?”
Vị
sư dường như cũng biết tâm trạng của khách nên trả lời ngay:
“Đó
là mấy câu kệ của sư phụ tôi truyền lại ngày trước. Trước khi viên tịch, sư phụ
tôi có dặn rằng có khi nào thấy ngài dừng chân trước cổng chùa thì đọc cho ngài
nghe…”
Tả
Ao tiên sinh nghe thấy thế thì càng giật nảy mình. Không ngờ nơi đây có bậc
chân tu đắc đạo, đã biết trước cả việc mình sẽ dừng chân trước cổng chùa này.
Bèn hấp tấp hỏi dồn:
“Sư
phụ của ngài là ai, tại sao Ngài biết tôi sẽ tới đây? Ngài có dặn gì nữa
không…”
Vị
hòa thượng trụ trì – chính là đệ tử truyền thừa của nhà sư họ Phạm ngày trước
thong thả kể lại toàn bộ câu chuyện của quan thừa tuyên sứ và công tử Lê Cực Kỳ
ngày trước cho Tả Ao tiên sinh nghe rồi nói:
“Sự
phụ tôi, Ngài có bảo rằng trong tam tài, thiên cơ, địa cơ và nhân cơ, thì phong
thủy xứ này thịnh về nhân cơ. Luận về thiên, địa, thì sở học của quan Khâm sai
có thể nói đã đạt tới bậc tuyệt kỹ rồi. Song về nhân cơ thì ngài còn có chỗ
chưa chú ý lắm.”
“Hèn
nào mà tôi lặn lội suốt từ đó đến nay, không tìm ra một long mạch nào đáng kể,
trong khi đó cái vượng khí thỉnh thoảng cứ xông lên ngùn ngụt. Té ra đế huyệt
nó “kết” trên thân người. Vậy chẳng hay Ngài có truyền bảo cách để trấn yểm cái
nhân cơ ấy hay không?” – Tả Ao tiên sinh hỏi.
Vị
hòa thượng lắc đầu:
“Thiên
cơ và địa cơ là do nghiệp chung của cả một cộng đồng kết lại nên có thể dùng
lòng người mà cảm hóa, hoặc dùng bùa ngải, dùng sức người lấp dòng, đóng cọc… để
trấn. Song nhân cơ vì nó kết theo nghiệp riêng của từng người nên không có cách
gì trừ cho tiệt nọc, chẳng qua chỉ làm cho nó lặn đi vài ba đời, rồi nó sẽ lại
hiển lộ ở một đời nào đó…”
“Một
vài đời cũng được – Tả Ao tiên sinh mừng rỡ ngắt lời – chẳng dấu gì hòa thượng,
tôi nhận chiếu chỉ của đương kim hoàng thượng, nếu không nhất thời trừ được cái
vượng khí này thì có lẽ mất đầu… Vậy phải làm thế nào xin hòa thượng ra ân chỉ
bảo cho biết.”
Đập Đá |
Quả
nhiên Tả Ao tiên sinh cũng chẳng phải lo đến điều đó nữa. Bởi khi ngài vừa về tới
kinh thành, chưa kịp viết xong bản tấu phúc trình về chuyến đi thì Uy Mục Đế Lê
Tuấn đã bị Giản Tu Công Danh (Lê Tương Dực sau này) nổi lên lật đổ và ép phải tự
sát. Việc trấn áp vượng khí xứ Thanh Hoa thế là được xếp lại.
Xứ
Thanh Hoa không bị trấn áp vượng khí nữa. Và nơi đó tuy không có long mạch,
song do cái sự kỳ duyên tục dương tiên khí từ thuở xa xưa ấy mà đã tạo ra cả một
vùng nhân cơ kỳ bí. Đó vẫn là nơi đã từng sinh ra nhiều bậc đế vương, trưởng giả…
Truyền mãi cho đến tận ngày nay, vẫn nổi tiếng là nơi phát tích của nhiều hạng
đế vương. Và đặc biệt, các loại trưởng giả thì đời nào cũng nhiều không kể xiết.
No comments:
Post a Comment