Trần Mông Tú |
Uống Cà Phê Tháng Tư
Trần Mộng Tú
Ta
ngồi một mình
ly cà phê cạn
lòng như tháng tư
đứt ra từng đoạn
Tháng
tư, tôi ngồi trong quán cà phê Starbucks trên đường 20th của thành phố tôi cư
trú. Tôi cúi xuống nhìn mầu cà phê đen đặc, sóng sánh sót lại một ngụm trong
chiếc ly giấy. Tôi cầm chiếc ly chao nhẹ đi một chút, do dự chưa muốn ngửa cổ uống
nốt ngụm cuối cùng. Ngụm cà phê trông như ngụm nước mắt đen. Chao ôi nước mắt
đã có một lúc nào đó, ta ngửa cổ uống được cả ngụm hay sao!
Tháng
tư, tháng tư, tháng tư năm đó! Đứt ra từng đoạn: đoạn cha, đoạn mẹ, đoạn vợ, đoạn
chồng, đoạn con, đoạn anh, chị, em, đoạn bạn hữu. Mỗi đoạn đứt một chỗ, rơi một
nơi, đoạn mất đi ngút ngàn biệt tích, không để lại dấu vết, đoạn còn sót lại
ngơ ngẩn, mù lòa.
Tháng
tư của bốn mươi sáu năm sau, ngụm nước mắt không bao giờ cạn được
Tôi
ngồi trong quán một mình. Ngó những khuôn mặt lạ, họ không phải bạn bè, nhưng vẫn
thấy thân thuộc, vì đó là những khuôn mặt của dân bản xứ tôi gặp thường ngày. Cách
ăn mặc và lối cư xử của họ na ná giống nhau. Mình nhìn mấy chục năm, mình quen
với cách kéo ghế, cách chụm đầu vào nhau nói khe khẽ, cách nghiêng mình xin lỗi
của họ khi phải đi qua mặt ai, nên bỗng trở thành gần gũi.
Tự
ngậm ngùi tưởng tượng, nếu bây giờ mình ngồi ở trong một quán cà phê ở Việt
Nam, ngắm những người ngồi chung quanh, chắc chắn mình sẽ thấy lạc lõng lắm, vì
cách ăn mặc và cư xử rất khác mình. Họ cũng sẽ chẳng để mắt nhìn đến mình, một
kẻ thường thường trên mọi phương diện. Mình lạc lõng ngay chính trên quê mình.
Ngồi
một mình với ly cà phê Starbucks trong một ngày của tháng tư, quê người; tôi chỉ
nhìn ra mình là người lạ với chính mình. Cúi nhìn mấy ngón tay đang cầm ly, những
ngón tay gầy đã bắt đầu xanh xao gân lá, biết mình ở đây lâu lắm rồi. Đôi vai bỗng
trĩu nặng như có bàn tay ai vô hình ấn xuống ghế. Thôi, đã đến đây rồi, thì ngồi
xuống đây, còn đi đâu được nữa. Ngồi đây mà hồn như thác đổ, tiếng nước ầm ầm vọng
tới từ một ký ức xa xôi, rồi bỗng òa ra khi chạm vào tảng đá cuối cùng, tảng đá
tháng tư.
Tháng tư ở đây là mùa xuân, chim chóc rủ nhau bay vào thành phố, hoa đào nở hồng trên mỗi con đường, nắng mới lách mình vào những khung cửa mở, trong vườn nhà ai hoa táo, hoa lê trắng xóa. Những người Việt di tản như tôi, tháng tư không ít thì nhiều quay đầu nhìn lại quá khứ, nhớ lại những giọt nắng quê nhà năm đó hòa vào máu và nước mắt. Hoa nắng quê người chỉ làm gợi thêm nỗi xót xa.
Anh
ạ tháng tư mềm nắng lụa
hoa táo hoa lê nở trắng vườn
quê nhà thăm thẳm sau trùng núi
em mở lòng xem lại vết thương.
Chung
quanh tôi, một vài bàn nhỏ có người ngồi trước tách cà phê và cái laptop. Họ im
lặng làm việc, học hay sáng tác. Có người với một tờ báo mở trước mặt, hay hai
người bạn thì thào nho nhỏ. Quán tĩnh mịch, nghe được cả tiếng gõ khe
khẻ của những ngón tay chạm trên bàn phím, thậm chí cả tiếng thở của người ngồi ở
bàn gần mình.
Vũng Tàu 1966 |
Trong
một tiệm cà phê ở Mỹ, tôi ngồi đó, ngửa mặt uống ngụm cà phê đen cuối cùng. Bỗng
dưng má tôi ươn ướt. Nước mắt ứa ra từ hai con mắt, bờ mi đã bắt đầu sụp xuống
như hai chiếc lá cuốn khô. Nước mắt của một người di tản vì chiến tranh lâu quá
rồi, xót xa cho phận mình, phận người, phận quê hương đất nước.
Bốn
mươi sáu năm rồi, mà thỉnh thoảng vẫn đọc được ở trên mạng, lẫn vào những
bài vở giải trí, kiến thức hay nghệ thuật, những lời nhắn với nội dung thật buồn:
Một
hài cốt với tên họ, ngày sinh và số quân đầy đủ của một quân nhân VNCH, ai đó vừa
tìm được bên đường. Mong có thân nhân đến nhận. Nào ai biết thân nhân của bộ
xương đó còn sống hay đã chết? Tin đó đến từ Việt Nam và đã chuyển đi nhiều lần.
Tin
những người ở Mỹ về bốc mộ, một hố chôn tập thể của binh sĩ VNCH trong một sân
trường hay bên cạnh một con mương.
Tin cả trăm bộ xương tìm thấy ở ven biển miền Trung không biết của bên này hay
bên kia.
Rồi còn cả những tin như sĩ quan H.O qua đời ở Mỹ không có thân nhân, được những
người trong cộng đồng phụ nhau mai táng.
Lời
nhắn về một vị tá Hải Quân, có con ở Cali. Xác nằm trong bệnh viện Texas hai tuần
rồi. Cha qua đời, con ở đâu chưa đến nhận.
Những
dòng chữ như thế, thực sự là một “Tin Buồn” với ý nghĩa đúng nhất của nó.
Hà Nội 1954 |
Đau
đớn nhất là bao giờ khi xem hình, khi đọc những bài viết xong, cuối cùng mình
nhận thức rất rõ rệt: đó là một cuộc chiến huynh đệ tương tàn. Người giết và
người bị giết đều mang họ Nguyễn, họ Lê, họ Trần...
Bốn
mươi sáu năm rồi, người ta nói là Việt Nam đã hết chiến tranh, người dân
đã có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, nhưng trên mạng, người Việt trong và ngoài nước
vẫn có những dòng chữ gửi đến cho nhau mang theo những thông điệp thật buồn: Việt
Nam tôi đâu? Người dân mất nhà, mất đất. Gái Việt bán sang Đài Loan. Gái Việt xếp
hàng lấy chồng Đại Hàn. Không có tự do cho Việt Nam. Ngư dân Việt bị tàu Trung
Công bắt ngay trên biển của mình. Nước Việt âm thầm mất dần từng mảnh cho Trung
Cộng
Tháng
tư, cà phê đắng, đắng thêm khi pha vào những giọt nước mắt vì nước mắt bao giờ cũng
có muối ở trong. Nỗi đau tháng tư với một số đông người Việt ở thế hệ bạn hữu
tôi, là một vết thương không thành sẹo được, nó lên da non, rồi ngưng lại ở đó.
Nhìn xuống vẫn thấy màu hồng, vẫn thấy như còn rơm rớm máu.
Tôi cúi xuống nhìn chiếc ly không, tự lấy tay áo lau thầm những giọt nước mắt
mình. Đứng dậy, trở về một nơi tôi gọi là nhà, tiếp tục sống với trái tim di tản.
Vạt nắng tháng tư chỉ bay xiên vào trong quán này một năm một lần, nhưng khi
tôi đến đây, dù bất cứ tháng nào trong năm, hồn tôi, tháng tư có thể đến bất chợt
ghé xuống và rơi cùng những giọt cà phê.
Anh
ạ! Tháng Tư sương mỏng lắm
sao em nhìn mãi chẳng thấy quê
hay sương thành lệ tra vào mắt
mờ khuất trong em mọi nẻo về.
======================================================
Hà Nội 1954: Partir c'est pour choisir la liberté: ra đi chọn tư do |
No comments:
Post a Comment