mỏ vẹt chỉa vào Saigon |
mắm tôm . mắm bò hóc
Tôn Thất Tuệ
1983,
tôi theo Patty Dotzenrod từ Bangkok đi Aranyaprathet để làm thông ngôn nhưng đến
nơi thì không có đồng bào tỵ nạn để phỏng vấn; có lẽ cô ấy biết vì sao. Cả phái
đoàn lửng thửng quanh phố nghèo, lai rai cà phê cà pháo thì có lệnh phải ra khỏi
khu vực trước ba giờ chiều. Tôi về Bangkok ngủ qua đêm, sáng mai ra đọc tờ
Bangkok Post thì biết chỗ hôm qua mình đến có đánh nhau giữa Khmers Rouges và
nhóm Xom Xản, có hình chụp Xom Xản ngồi ghế sau Honda 75 đang di chuyển.
Chuyện nầy tôi kể làm quà khai vị, chứ thật ra nó ở vào một chi tiết rất nhỏ trong bài trích dịch về sự xung đột giữa VC và Khmers Rouges (KR) 1979. Sau khi VN chiếm hoàn toàn Cambodia, KR lập những căn cứ trên đất Thái, đánh đá lung tung, nào đánh đá với VC, nhóm Sihanouk, nhóm Xom Xản, đánh đá nội bộ. Thay vì tự giải tán, KR được Bắc Kinh và Bangkok hổ trợ lập mật khu trên đất Thái dưới danh nghĩa tỵ nạn. Tôi quen một người Mỹ lúc ấy đứng đầu Frontier Operation chuyên chở gạo lên biên giới cho từng đoàn dân Khmers qua đất Thái rồi trở về; hết gạo lại qua.
Chúng tôi trích dịch chừng 1/5 một bài rất dài về VNCS và Cambodia của Yves Lacoste xuất bản tại Pháp năm 1989 trong tập san tam cá nguyệt Hérodote mà ông làm chủ bút.
Bài lược dịch có ý chính như sau: căn cứ vào phương pháp văn hóa chính địa và lịch sử, học thuật đi đến giả thuyết rằng VNCS chỉ có một lý do duy nhất để tấn công ở mức độ vô cùng rộng lớn Cambodia là không để cho Khmers Rouges tấn công từ khu mỏ vẹt cách Saigon dưới 50 km như ngòi nổ làm nổ thùng thuốc súng Saigon vì thế lực chính trị kinh tế của Hoa kiều Chợ Lớn, các giáo phái, dân chúng bất mãn.
Dễ
người dễ ta. Nếu đầu chóp mỏ con vịt gần Saigon dưới 50 km (35 miles) thì nó chỉa
vào đất địch như một cul de sac; đối phương ở hai bên bắn vào hay thắt miệng
túi càn khôn thì vịt chỉ làm tiết canh mà thôi.
Ngạc
nhiên Yves Lacoste có nói toàn vùng Đông Dương thuộc Pháp mà không đặt vấn đề
Miên Việt hiện đại trong khung cảnh Đông Dương. Thực tế, VN dù quốc gia hay CS,
không thể ở yên nếu Cambodia là một đối thủ tiếp tay cho các thế lực muốn nhai
nuốt VN. Miền Nam mất là vì từ 1954, Cambodia đã theo phe trung lập thân cộng.
Sihanouk ký mật ước cho VC dùng hải cảng duy nhất Kompon Som bốc dỡ vũ khí tiếp
liệu chuyển đến biên giới, quân đội Miên bao thầu để ăn công; mật ước nầy cho
dùng lãnh thổ Miên làm đường chuyển quân và tiếp liệu. Nhờ đường nầy mà VC
chiếm cao nguyên Boloven. (Qui tient Boloven tiendra l’Indochine - ai chiếm Boloven sẽ chiếm Đong Dương). Nixon đã cho
dội bom triệt hạ mật khu trên đất Miên nhưng sau đó hậu cần nầy được xây dựng tối
tân hơn để đánh đòn quyết liệt vào Bình Long, Phước Long, Xuân Lộc. Xe tăng vào
Saigon qua đường của ông hoàng cho mượn. Tuy chú trọng chính địa, tác giả chỉ
nói KR chống Sihanouk mà Sihanouk đang cho VC mượn đường, ông không quảng diễn
về quân sự ở điểm nầy.
Trước
1954, sân khấu chính trị quân sự chính yếu là VN thế mà Việt Minh không chiếm
nhiều đất, lại chiếm rất nhiều đất của Miên và Lào. Vùng biên giới Lào Thái là
một khu kinh tế, và cũng nhờ đó mới có thể chuyển vận quân đội ở Điện Biên Phủ
1953. Mặc dù Trung Cộng giúp nhiều vũ khí cho Pathet Lào, Việt Minh hoàn toàn
chi phối phong trào CS Lào. Theo mệnh lệnh của VM, hoàng thân Souvanouvong lập
đảng CS Lào, lấy vợ VN. VM muốn “thực dân” (coloniser) nhiều hơn xưa, khi thúc
đẩy phong trào Tây Tiến. Như vậy, Lào đã giúp rất nhiều để VM chiếm giữ
phía bắc vỹ tuyến 17 năm 1954; Lào tiếp tục cho mượn đường xâm nhâp theo đường
Trường Sơn. Cuối đường này là lãnh thổ Cambodia. Lãnh thổ của Sihanouk là –
không phải duy nhất – một trong những điều kiện tiên quyết đế chiếm miền Nam,
như dàn phóng hỏa tiển vào Saigon.
CSVN
không đủ phương tiện để có một nhánh CS thân thiện chiếm Phnom Penh, cho nên KR
làm việc nầy; rất sớm KR đưa ra chủ trương quốc gia Miên quá khích chống Hà Nội.
Hà Nội không muốn VN thành VNCH xưa với khung cảnh mới KR là Sihanouk.
Cuốn
sách Les Miracles françaises en Indochine xb 1930 ca ngợi những phép lạ của người
Pháp có kể phép lạ hòa bình Đông Dương nhờ chính sách cai trị của các quan toàn
quyền, giữ cho các xứ không đánh nhau hay bị ngoại xâm. Pháp muốn Union
Indochinoise thành một quốc gia xây dựng trên nền văn hóa Pháp; dân chúng ba miền
đi lại tự do không phải trình giấy tờ ở biên giới.
Người
VN không đồng ý và muốn có một quốc gia thống nhất ba miền, khác biệt với Miên
Lào. Phạm Quỳnh đã dùng chữ nghĩa để phân biệt. Ông nói Indochine gồm “Indo” và
Chine. Indo là Lào và Miên trong ảnh hưởng Phật Giáo Theravada, Pali và
Sanscrit; Chine là VN với văn hóa Trung Hoa và Hán tự như Đại Hàn và Nhật Bổn.
Cuộc vận động nầy gián tiếp làm nẩy sinh các hình thức quốc gia của Miên và
Lào nhưng ba xứ sẽ hòa hợp trong một khối thịnh vượng chung (a commonwealth) chứ
không phải liên bang, sống riêng hay sống chung chẳng sao, miễn là hòa bình với
nhau.
Lào
và Miên cũng bắt đầu xác lập tư cách quốc gia, và chống đối việc “thực dân
trong thực dân” của người Việt và đã có các cuộc nổi loạn chống VN trong những
năm 1930 và 1931. Nhưng người Pháp đã tìm mọi cách không để Đông Dương thành một
chiến trường; xứ quan trọng nhất là VN không bị hai xứ kia quấy nhiễu.
Một
cách tổng quát, ổn định của VN chỉ có thể duy trì khi ổn định toàn Đông Dương
được duy trì dù với phương tiện nào.
Không
như Yves Lacoste nhận xét, Cam bốt đã tấn công và chiếm nhiều nơi khác như Phú
Quốc, Thổ Châu, sát hại người Việt đến số ngàn (sau đó bị đẩy lui). Chưa có đụng
độ trong khu mỏ vẹt thuộc Vùng 3 Chiến Thuật xưa.
Như
trên đã nói, khu mỏ vẹt như cái túi, cul de sac dễ bị túm đầu. KR đã đánh trận
lớn ở Tây Ninh nhưng không ở trong vùng nầy. Nhiễu loạn từ KR xẩy ra ở biên giới
vùng châu thổ, dễ bề tiến thoái. Ngày 18.04.1978, KR đã chiếm xã Ba Chức, quận
Tri Tôn Châu Đốc, cách biên giới 7 km và đã giết sạch dân chúng, chỉ có HAI người
sống sót, với 3.157 tử vong, tương đương số nạn nhân Mậu Thân Huế do tay VC làm
ra.
Hà
Nội cho biết từ lúc ấy Pol Pot đã chuẩn bị 10 sư đoàn đột nhập VN và Hà Nội xuất
quân ngày 07 thg 12.1978 để chiếm cả nước Cam bốt trong vòng một tháng, trong
chiến lược lấy công làm thủ.
Nhưng
về chính địa (geopolitic) chóng hay chầy, Hà Nội, bằng mọi phương tiện, không để
yên cho KR làm chủ Phnom Penh, ăn rồi chỉ mài gươm mài dao chỉa vào nhà hàng xóm. Hy vọng
lối nhìn của chúng tôi thực tế hơn Yves Lacoste.
VC và Khmers Rouges
Yves Lacoste
Từ
khi Khmers Rouges (KR) chiếm quyền, bang giao Việt Miên trở nên xấu xa nhất. Mới
trông rất nghịch thường vì cả hai xứ vừa chuyển qua giai đoạn CS và hai đảng CS
Miên Việt theo nguyên tắc là đồng minh, là anh em. Học thuật có thể làm sáng tỏ
những nguyên nhân sâu xa của cuộc tương tranh nầy qua sử ký và địa dư và qua
các dạng thức kinh tế và hành chánh Đông Dương thời thuộc địa.
Pháp
đã nhập chung vào khuôn khổ một Liên Quốc Đông Dương các lãnh thổ chiếm đoạt là
Miên, Lào và Việt (Pháp chia VN thành Bắc Kỳ, An Nam và Nam Kỳ). Tuy vậy đặc biệt
ở VN, việc thuộc địa mới thiết yếu, đem lại nhiều hậu quả quan trọng, chứ còn
hai xứ kia không làm gì nhiều cho đại cuộc. Vì vậy, những phong trào chống đô hộ
thực dân mang nhiều tính chất VN hơn cả. Khi phong trào CS xuất hiện giữa hai
thế chiến, đảng CS Đông Dương được thành lập nhưng cốt lỏi đảng viên đều là người
Việt. Năm 1945, HCM giải tán đảng nầy và lập ra một đảng CS VN và một đảng CS
Miên nhỏ hơn mà đa số đảng viên là người Việt qua Miên làm việc cho các công ty
thương mãi thuộc địa.
Một
đảng CS thực sự của Miên được phát triển chậm hơn, từ thập niên 1960, vào thời
kỳ Trung Cộng đóng vai trò quan trọng trong phong trào CS quốc tế và bắt đầu đối
kháng Liên Xô. Do đó, khác với trường hợp VN có nhiều liên hệ bền vững và lâu
năm với Nga, nhóm CS mới người Miên, Khmers Rouges, chỉ giữ mối quan hệ với
Trung Cộng. Đấy cũng là phương tiện để thoát cảnh đàn anh VN đè đầu và khai
thác các bất đồng.
Trong
thập niên 1960, KR bắt đầu một loạt chiến dịch chống Sihanouk đang trị vì ở
Phnom Penh. Lúc ấy CS VN ủng hộ mạnh mẽ ông hoàng vì được phép mượn vùng đất
phía đông Miên làm đường xâm nhập Miền Nam VN, là vùng tiếp giáp với đường Trường
Sơn.
Những
móc nối bên trong nầy, tuy ít được biết đến, đã gây nhiều hậu quả bền dai và được
che dấu để tránh phương hại liên hệ Hoa Việt. Nhưng từ chiến thắng chung 1975,
tức thì trổi dậy những mâu thuẫn trong mối quan hệ giữa hai đảng CS Miên Việt,
đồng thời có bất hòa Hoa Việt.
Đối
với Tàu, việc triệt thoái của quân Mỹ (mà Tàu đã giúp thành tựu từ 1972) có
nghĩa là Tàu sẽ tái lập vai trò lịch sử và quyền uy ở ĐNÁ.
Tại
Cam bốt, KR vì lý do ý thức hệ và chính địa, thích Bắc Kinh không thích Hà Nội. Theo
KR, chủ trương quốc gia quá khích chống VN sẽ có số đông dân chúng Miên hưởng ứng.
Dân Miên lúc ấy buộc thi hành đường lối tập thể hóa bắt chước khuôn mẫu Tàu
nhưng được đẩy mạnh quá xa và bạo động tối đa.
Tuy
nhiên, KR không đồng tình chống VN, hơn nữa, trong nội bộ nhiều nhóm chống nhau
giành quyền điều khiển quốc gia, thậm chí có nhóm còn nhờ VN giúp sức hạ bệ Pol
Pot. Nhưng Pol Pot nhanh tay hạ sát hết các đối thủ. Pol Pot cũng ra lệnh tàn
sát bất cứ ai có liên hệ với người Việt, bà con thân thuộc với người Khmer
Knom, tức là nửa triệu người Miên tiếp tục sống trên đất Việt theo biên giới
người Pháp ấn định. Năm 1977, Hà Nội đã dùng thành phần Knom nầy và những người
KR bỏ ngũ thành lập phong trào nhằm lật đổ Pol Pot và tách Cam bốt khỏi bạo tàn
KR.
Cuối
năm 1978, VN hành quân tấn công và chiếm toàn lãnh thổ Cam bốt. Hành động quân
sự với tầm mức như thế không thể làm dư luận thế giới khỏi sửng sốt; hơn nữa là
chiến tranh giữa hai quốc gia XHCN. Trung Cộng phải kết án chủ nghĩa bá quyền của
VN do Liên Xô xúi dục. Ngạc nhiên ở điểm sự đe dọa của KR chưa đến mức thậm
nguy phải hành động triệt để thế ấy, không kể nguy cơ Trung Cộng có thể viện
binh ồ ạt đến Cam bốt và VN đối đầu hai phía địch.
Tuy
vậy, Hà Nội vẫn quyết định chiếm toàn cõi Cam bốt. Hẳn rõ Hà Nội có những lý do
khác.
Giới
quan sát có thể nhận ra sau khi phân tích tình hình chính địa của vùng đất xưa
kia là VNCH. Trước tiên hãy biết rõ về lằn ranh giới giữa hai quốc gia, đặc biệt
trong lưu vực Cửu Long. Lãnh thổ Miên có chỗ dôi ra hết sức đáng chú ý, mệnh
danh là khu mỏ vẹt (bec de canard, mỏ vịt). Xuất phát từ vùng nầy, các cuộc tấn
công hay xâm nhập xẩy ra cách Saigon dưới 50 km. Khu dân cư đông đảo thị tứ nầy
nầy có 3 triệu người mà một phần rất lớn là người Tàu Chợ Lớn. Người Tàu đã đặt
chân từ thế kỷ 17 gồm những thành phần không chịu thần phục nhà Mãn Thanh.
Người
Tàu Chợ Lớn và lục tỉnh vẫn thường xuyên liên lạc với Hoa Lục cộng sản và các cộng
đồng Tàu khác ở ĐNÁ. 1975 trong khi miền Nam rụng rã, người Tàu Saigon Chợ Lớn
vẫn nuôi ý nghĩ rằng HK sẽ can thiệp trở lại và để tránh đổ nát cho đô thành nầy,
các phe phái sẽ đồng ý cho Saigon trở thành một thành phố tự do, một Hongkong mới,
một Singapour mới. Thực tế không thế. Tuy vậy, một số Hoa nhân tin rằng những
biến cố mới có thể làm sống dậy viễn tượng nầy.
Người
Tàu, (trước 1975 nắm giữ hầu hết các sinh hoạt thương mãi, tài chánh và kỹ nghệ)
nay hết sức bất mãn vì chính quyền CS đã tịch thu gia sản và cơ nghiệp. Tập thể
Hoa kiều nầy còn hốt hoãng thêm với tin đồn tuyên truyền của Trung Cộng rằng VC
sẽ ra lệnh tàn sát hằng loạt như các pogrom dành cho người Do Thái. Tình hình sẽ
đưa đến nguy cơ nổi loạn.
Chiến
thắng 1975 là chiến thắng quân sự, không phải là chiến thắng chính trị. Từ khi
HK chấm dứt viện trợ, dân chúng thiếu kém mọi bề và sống trong sự bức bách của
công an. Chính quyền mới không nhân nhượng những người đã làm việc cho chính
quyền cũ và phái bộ HK.
Saigon
là một kho thuốc súng có thể bùng nổ bất cứ lúc nào mà ngòi nổ chính là các cuộc
tấn công của KR từ vùng mỏ vẹt kế cận. Thêm nữa, giữa Saigon và biên giới là
vùng đất sống của đại đa số dân chúng miền Nam; nổi loạn có thể xuất phát từ
đây. Thành phần dân số ở đây về văn hóa khác biệt với các nơi khác. Vùng nầy có
người Khmers, có người TCG di cư và các giáo phái Cao Đài và Hòa Hảo. Các giáo
phái nầy thành lập từ đầu thế kỷ 20 bắt đầu dung nạp những dân quê từ miền Bắc
vào, vì nghèo bị bỏ rơi, và khốn khổ vì nạn cho vay cắt cổ. Đến giữa thế kỷ 20,
vì ý thức hệ và chính trị, các giáo phái trở nên chống cộng từ tâm thức và đã
truy nã VC giữa hai cuộc chiến Đông Dương, 1945 đến 1975. Các vùng thuộc quyền
kiểm soát của hai nhóm nầy không bị tàn phá vì oanh tạc không quân.
Ở
Miền Nam, địa dư văn hóa không xa lìa địa dư chính địa. Thật vậy, sau thảm bại
bất ngờ của VNCH 1975, các giáo phái phải từ bỏ chiến tranh công khai. Nhưng
năm 1978, lãnh đạo CS lo sợ rằng Cao Đài và Hòa Hảo sẽ cầm súng trở lại, hòa điệu
với cuộc tấn công rộng lớn của KR từ biên giới.
Nhận
xét trên đây về tình hình miền Nam 1978 có tính cách chính địa cho phép các
quan sát viên đưa ra giả thuyết rằng chính quyền đương cuộc Hà Nội quyết định tấn
công toàn diện Cam bốt là vì muốn ngăn chận cuộc nổi loạn trong Nam, hơn là vì
mối đe dọa biểu kiến của KR.
Trong
ba thành tố (Hoa kiều Chợ Lớn, các giáo phái, KR) yếu tố áp lực quân sự của KR
dễ giải quyết nhất, chỉ cần một cuộc hành quân có chuẩn bị đầy đủ.
(Nguy
hiểm KR đã dẹp yên), cuộc nổi loạn không xẩy ra. Sau đó, hàng ngàn hằng vạn người
phải ra đi trong những điều kiện xấu xa nhất. Vụ Cam bốt chưa xong, tiếp tục
làm tâm điểm chính địa ĐNÁ.
(Tính
đến số báo nầy) nay đã 10 năm từ khi quân VN chiếm đóng Cam bốt. Sự hiện diện nầy
không cần thiết nếu KR tự giải tán và không rút lui vào các mật khu biên giới
Thái Miên. Thật vậy, mặc dù thế giới đã tìm thấy bằng chứng tàn ác vô biên của
tay chân của Pol Pot, chính phủ Bắc Kinh vẫn ủng hộ KR với sự đồng lõa của Thái
Lan. Bangkok cho phép KR thành lập các căn cứ dọc theo biên giới, dưới danh
nghĩa trại tỵ nạn. Đối với người Thái, đấy là cơ hội để một lần nữa can thiệp
vào nội tình Miên, tiếp tục từ mấy thế kỷ trước cho đến cuối thế chiến 2 đã sáp
nhập nhiều tỉnh của người Miên.
Đáng
ngạc nhiên thêm nữa là HK – liên hệ mật thiết với Thái Lan và biết rõ hành động
của KR – vẫn ủng hộ chính sách biên giới của Thái Lan và duy trì ghế đại diện của
Pol Pot tại Liên Hiệp Quốc.----
==============================================
Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, Saigon ==================================== |
No comments:
Post a Comment