khóc muộn * Tôn Thất Tuệ
Ông
bạn cùng tuổi của tôi được một bạn khác làm sống lại thuở thiếu thời, ngồi với
mẹ và chị tụng kinh trong bầu không khí gia đình vô cùng êm ấm. Tôi chợt nhớ lại
chừng cùng thời gian ấy, tôi cũng tụng kinh trong một bầu không khí khác tuy vẫn
được gọi là dưới ánh đạo vàng. Ông thường gởi cho nhiều người triết lý Phật và nhất là nhấn
mạnh buông bỏ, một nội dung đầu môi, ghi khắp nơi trong lối chữ lăng quăng và trong chừng vài trăm email đã nhận; một âm mưu tuyên truyền xoa dịu.
Tôi
tụng kinh cả sáng lẫn tối, đánh chuông hai buổi, cào lá phơi khô nấu cơm cho mấy
vị nửa nửa tỳ kheo trong đó có ông Mãn Giác. Tôi không có duyên để ngộ cái chi
và nhất là không có chi để buông bỏ, thành thử những lời khuyên buông bỏ chỉ ghi
nhận dùng sau.
Nói
về chuyện gia đình đóng góp nhiều ít cho việc chùa là điều không đáng làm; ngay
như chị (Như?) Lý con hay cháu nội của ông Thái Quang Toản không muốn nhắc đến
công trình của ông nầy 100% làm chùa Quy Thiện, ngôi chùa theo tôi đẹp nhất, rộng
rãi mát mẻ không cổ điển như Tây Thiên, có cả một vườn sim trái vừa hoang dại vừa thuần hóa. Tôi gặp chị ở Orange County. Thế nhưng, xin nói gia đình tôi đã góp sức rất nhiều cho chùa Thiên Minh,
chính tượng Di Đà bằng gỗ “to bằng trời” đối với tôi, nay thì nhỏ chỉ cao 3 m,
do chị mẹ tôi đi lùng khắp vùng sơn cước tìm được ròn một cây mít rất to mua về
làm tượng, trả công thợ chạm, kể luôn ba tháng ông trai giới, gây nội lực chống với quỷ phá nhà chay. Chùa chỉ có tượng đứng nầy và một tượng ngồi cao chưa
được một mét theo lối Thái Lan do ông Tôn Thất Hối, con của nhiếp chánh vương Tôn Thất Hân, đưa tới.
Lại nói lòng vòng cả quên. 2003 đến thăm chùa, tôi không được thầy mới tiếp vì ăn mặc tồi tàn. Tôi khá sân si và thách đố với ông sư nhỏ hơn có
biết nơi ngón tay trỏ chỉ xuống đất của tượng gỗ nầy có một dấu cưa rất cạn.
Ông cho tôi điên nhưng lòng từ bi (?) của ông đã khiến ông cùng tôi vô xem thì
có thật. Dấu cưa nầy cốt ý để xem tượng đồng hay gỗ; nếu đồng thì đã tiêu tùng theo tuần
lễ đồng của Việt Minh 1945, cùng với các bộ lư, nồi đồng...
Khi cha tôi còn sống lên chùa thì thầy trụ trì khi mô
cũng “ông tham” và tôi được ngồi bên cạnh ăn cơm chay. Khi hồi cư, nhà cháy, của
cải trước đó đã cho tuần lễ vàng, tuần lễ đồng, kho gạo đồng tâm, cha tôi chết,
tôi phải ở tạm trong chùa, lúc ấy pháp chủ Mãn Giác còn gọi là chú Sung (lên chức từ điệu
Sung). Bây giờ mới hiểu thành ngữ “xương đồng da sắt” chính là tôi, ngủ cả năm
trên bộ ngựa, không một mảnh chiếu, không mền cho đến khi dì tôi cho cái mền lính Tây cũ có chữ US Army (Mỹ viện trợ quân sự). Ngày ngày tôi phải đi kiếm củi
hay ra giếng xa đứng múc nước cho O Khóa gánh về, bưng nước cho thầy rửa mặt.
Nhà thờ bên ngoại cũng tiêu ma nên cậu tôi thờ ôn mệ trên chùa. Một lần gia
đình cậu từ Vy Dạ lên kỵ mẹ tức là bà ngoại tôi; cậu mợ không ư hử một tiếng với
tôi và tôi phải giữ bản doanh nhà bếp, không dám lên lạy bà ngoại, trong khi
trước chiến tranh cha tôi cúng kỵ nhạc gia (mẹ của cậu) rềnh rang, có rước thầy, vàng bạc, vô
chay ra mặn.
Trong bữa ăn cơm cúng, cậu tôi ngồi ở chỗ cũ của cha
tôi, bên cạnh là hai đứa con trai. Tôi phải đứng sau lưng cầm quạt, quạt cho thầy
và cậu mợ, mắt nhìn thèm khát những món ăn trên những chén dĩa kiểu tây mà cha tôi đã mua
của mấy ông tây bà đầm về nước rồi đem cúng cho chùa. Tôi mong có bữa cơm
thừa. Nhưng chiều ấy tôi vẫn theo khẩu phần cố hữu là hai chén cơm úp một, còn
tương thì cả mấy lu ngoài sân, húp hay chan như canh cũng được.
Tôi học i tờ, tờ i ti bên Chùa Báo Quốc tại phòng trường
Nam Giao mượn, năm sau cả hai lớp tư năm đều dời lên gần Từ Đàm. Một mùa hè, gia
đình Phật Tử cắm trại tại đây, tôi mới biết chùa rất rộng, lều trại đã choáng
chỗ các cây nhỏ, vườn chùa chạy xuống thấp đến con đường có nhà của (Nhã Ca) Trần Thị Thu
Vân; từ Thiên Minh qua đó mấy bước. Tôi thấy có mấy
gánh đậu hủ, những chén đậu hủ và đường muối hấp dẫn quá.
Tôi chạy về chùa, lẻn lên nhà chính tới cái chén thầy
để tiền xu cho ăn mày, ăn cắp tiền qua xơi một chén đậu hủ cho thỏa giấc mơ làm
con bà chủ bán kẹo, ăn kẹo trừ cơm.
Thầy cho mấy bạt tai tím mặt. Chuyện nhỏ mà, tôi không
khóc.
Sáu chục năm sau tôi mới khóc. Tôi đã khóc khi
lơ lửng không biết chỗ mô trên chuyến bay về. Ra tiễn vợ chồng tôi, một người
bà con cho một số kinh sách mà chúng ta thấy bừa bãi ở các chùa, ấn tống cầu
phước, hồi hướng công đức…
Tôi đọc một cuốn gì đó tôi quên tên. Trong đó Dược Sư
Lưu Ly Quang Vương Phật có lời nguyện làm sao khi thấy kẻ đói khổ mà làm chuyện
ác thì Ngài cho ăn no đủ rồi mới giảng kinh kệ.
Tôi khóc nước mắt đầm đìa, nhà tôi không thấy vì ngủ
ngon. Tôi không khóc vì mấy ngón tay thầy xỉa vào mặt. Khóc vì hơn nửa đời người
mất đi bài học. Giá như lúc ấy thầy là Dược Sư, thầy đã cho thằng ăn mày nầy,
thằng ăn mày hầu hạ thầy, chút tiền ăn thêm chén đậu hủ cho đã thèm rồi dạy rằng
ăn cắp là điều xấu. Muộn đến 60 năm nay mới khóc vì gần cả đời người không học được sự thâm sâu huyền diệu của đạo,
có ngay trong chén đậu hủ, trong vũng nước bùn lỗ chân trâu.-
buồn vô hậu
tôn thất tuệ
Nơi tôi ở chiều nay mưa như Huế
khí hậu khô
nên không khốn khổ như ngoài kia.
Hơn thế nữa
cơm ngày
ba bữa tắm rửa hai lần
có cái
áo dày hơn bao bố
một đồng thôi cũng đủ ấm qua
mùa.
Kinh Di Đà vẫn còn như xưa nơi Thuận Hóa
Như thị ngã
văn
nhất
thời
Phật
tại
Xá Vệ quốc *
Phật nói gì
nghe lạ quá đi
xứ của Phật đất bằng như ruộng lúa
nhà bên
nhà gấm phủ màn hoa
người quên đói
vì theo hương của gió
cửa không
khóa.
Kỳ Phật quốc độ thượng vô ác đạo chi
danh
hà huống hữu thiệt.**
Mưa như mưa chiều kia
ngoài xứ Huế.
Kinh Di Đà lôi
ra đọc ở quán bánh bèo
Nếu trần gian
không đem tiền mua súng đạn
thì sá
gì nhà gấm với châu sa,
trường trẻ rộng nhà thương thơm hơn mít.
Nhưng thấy Phật là tôi
buồn
vô hậu
Phật sinh
ra nơi chốn ác ôn
Chúa hiện thân nơi người xem
nhau thua con chó.
Ới mưa ơi, chiều nay buồn vô hậu,
Buồn vô hậu nên để lửng bài thơ.
* Tôi nghe như vầy, một thời Phật tại nước Xá Vệ...
** Nơi xứ Phật, không có danh tự chỉ tội ác, huống là tội tác
No comments:
Post a Comment