kinh tế Phật Giáo
BUDDHIST ECONOMICS
Ernest Friedrich Schumacher
Chánh
mệnh là một yếu tố trong Bát Chánh Đạo. Cho nên phần nầy cũng bao hàm những
sinh hoạt kinh tế. Các xứ Phật Giáo (PG) thường xác nhận ý nguyện trung thành với
di sản lịch sử của mình. Miến Điện nói: Một nước Miến Điện mới không thấy có sự
đối nghịch giữa các giá trị tôn giáo và tiến bộ kinh tế. Chúng tôi sẽ thành
công trong việc dung hợp những giá trị tôn giáo và tinh thần trong di sản quốc
gia với các lợi ích của nền kỹ thuật tân tiến. Người Miến có nhiệm vụ linh
thiêng là xếp đặt những ước vọng và hành động đúng với đức tin. Chúng tôi sẽ
làm như vậy.
Đồng
thời các xứ trong khung cảnh tinh thần giống vậy luôn luôn hiểu ngầm rằng họ có
thể thiết lập các dự án phát triển kinh tế theo mô biểu của các nền kinh tế tân
thời; họ kêu gọi các nhà kinh tế ở các nước gọi là tiến bộ đến làm cố vấn. Ví
như trong việc đưa ra các chính sách sẽ theo đuổi; lập các dự phóng lớn như kế
hoạch năm năm v.v…
Hình
như không ai có thể nghĩ rằng một lối sống PG có thể kêu gọi hình thành một đường
lối kinh tế PG, đối diện với những lối sống vật chất do nền kinh tế tân tiến
đem lại. Các kinh tế gia, chẳng khác những chuyên viên, nói một cách bình thường,
bị chứng mù về siêu hình, khẳn định rằng khoa học của họ là một khoa học mang một
sự thật tuyệt đối và bất biến, không cần một tiền đề nào. Vài người đi xa hơn
và nói rằng các định luật kinh tế không vướn bận gì đến siêu hình, như các định
luật về sức hút của quả đất.
Dĩ
nhiên, chúng ta không việc gì phải tranh biện với họ về phương pháp luận. Thay
vào đó, chúng ta hãy làm những điều nòng cốt và hình dung các nhà kinh tế nầy
dưới nhãn quan kinh tế tân thời và của PG.
Điều
phổ quát được đồng ý chung là nguồn tài nguyên chính yếu là nhân lực. Nhà
kinh tế tân thời xem lao động chỉ khá hơn điều tai ách phải chịu. Dưới mắt ông
chủ, nhân công chỉ là một chi phí có thể giảm thiểu tối đa nếu không thể loại bỏ.
Dưới mắt người làm công, đó là một sự “phi dụng”; đi làm là hy sinh sự an nhàn
và thoải mái; tiền lương chỉ để bù trừ sự hy sinh nầy. Do đó lý tưởng của chủ là vẫn có sản phẩm mà không cần thuê mướn; lý tưởng của thợ là có
tiền mà không cần làm lụng.
Hai
thái độ nầy về lý thuyết và thực tế đưa đến nhiều hậu quả sâu xa. Nếu lý tưởng
là loại bỏ thuê dụng, mọi phương pháp giảm thiểu giờ làm đều tốt đẹp. Lúc chưa
có tự động hóa, phương pháp hữu năng nhất là “chia việc”; và ví dụ cổ điển nầy trong
một xưởng được Adam Smith ca ngợi trong cuốn Wealth of Nation [tài nguyên quốc gia]. Đây không phải là việc chuyên môn hóa đã có tự
ngàn xưa; trái lại đây là sự chia cắt diễn trình chế biến thành những phần li
ti, ngõ hầu sản phẩm thành hình với tốc độ nhanh nhất mà không ai góp công sức gì
hơn một hành động vô nghĩa của bàn tay không chuyên môn.
Quan
điểm của PG về việc làm gồm ba điều liên hoàn: - giúp công nhân có cơ hội dùng
và phát triển tài năng; - giúp người nầy vượt qua sự hướng ngã bằng cách cùng làm
việc với nhiều người khác và - tạo ra các sản phẩm hay dịch vụ cần thiết
cho sự sống chung.
Quả
là tội ác nếu tổ chức công việc của công nhân thành một thứ vô nghĩa, nhàm chán,
mất năng lực và gây căng thẳng thần kinh. Lối nầy chỉ để ý đến sản phẩm chứ
không phải người, không chút lương tâm, trái lại còn hủy hoại tinh thần và nghị
lực.
Mặt
kia cũng không kém nguy hại; cố tìm nhàn hạ thay cho việc làm được xem là một
cách hiểu lầm về một trong những sự thật của đời người; nói rõ hơn, nhàn hạ và
việc làm là hai điều bổ túc cho nhau trong diễn trình sinh sống và không tách
nhau, nhờ đó mà thấy sự vui vẻ của công việc và sản khoái của nhàn nhã. Theo tầm
nhìn PG, có hai thứ vận hành cần phân biệt rõ rệt. Một thứ bên nầy giúp phát triển
kỹ năng và nội lực của con người và một thứ bên kia biến công việc thành một thứ
nô lệ máy móc và con người đặt trong vị trí phải phục tòng thứ nô lệ ấy.
khung dệt thảm cổ điển |
Điều
nầy cho thấy kinh tế PG khác với kinh tế dựa trên chủ trương vật chất hiện nay
(modern materialism). Tinh túy của PG không nằm trong sự gia tăng nhu cầu mà nằm
trong sự tinh khiết hóa phẩm hạnh và nhân cách. Đồng thời việc làm đóng góp một
phần lớn trong việc hình thành tư cách phẩm hạnh. May cho những ai làm việc
trong những điều kiện tôn trọng giá trị và tự do con người.
khung dệt máy |
Kinh
tế gia kiêm triết gia Ấn Độ J.C. Kumarappa đã tóm gọn việc nầy như sau.
Nếu được trân quý và nằm
trong sự áp dụng các quy chuẩn tốt đẹp thì việc làm quan trọng cho các khả năng
tinh thần cao trọng, không khác vai trò của thực phẩm đối với cơ thể. Nó nuôi dưỡng
và làm sinh động con người cao trọng và thúc đẩy sản xuất tốt đẹp tối đa vào mức
có thể. Nó cung cấp một môi trường, một khung cảnh cho con người bảy tỏ những
giá trị riêng và phát triển nhân tính.
Một thể nhân không có việc làm sẽ ở trong tình trạng thất
vọng, không những chỉ vì thiếu lợi tức mà còn vì mất yếu tố làm sinh động và
nuôi dưỡng nầy.
Kinh
tế gia tân thời sẽ tính toán tinh vi tài tình để xem phải chăng sự toàn dụng làm ra
tiền hoặc tốt hơn là bớt thuê mướn nhằm bảo đảm sự luân lưu lao động, ổn định
lương bỗng v.v…. Nhưng theo giải đáp nào, tiêu chuẩn thành công duy nhất của
ông ta vẫn là số lượng hàng hóa sản xuất trong một giai đoạn nào. Trong cuốn The Affluent Society (xã hội sung mãn),
Galbraith nói: Nếu sự khẩn thiết biên tế về phẩm vật thấp, thì sự khẩn cấp phải
thuê người cuối cùng trong lực lượng lao động cũng thấp không kém”. Ở chương
khác ông còn nói tiếp: nếu chúng ta có
thể theo đường lối khiếm dụng để bảo vệ sự ổn định, chúng ta có khả năng cung cấp
cho người thất nghiệp những vật phẩm khả dĩ cho phép họ duy trì mức sống hiện
có”. Như thế đã quá rõ sự thật rằng đầu óc
của họ xem vật phẩm quan trọng hơn con người, xem sự tiêu thụ quan trọng hơn
các sinh hoạt có tính chất sáng tạo. Nói khác, sự chú tâm đã chuyển từ công
nhân qua vật phẩm, từ người qua người thứ cấp; và đó cũng là sự đầu hàng các sức
mạnh quỷ quái.
Khởi
điểm trọng yếu nhất của kế hoạch kinh tế PG là dự án toàn dụng, mục đích hàng đầu
là cho mọi người có việc làm ”bên ngoài” (gia đình). Nhưng vấn đề không phải là
sự tối đa hóa nhân dụng hay sản xuất. Một
cách tổng quát, phụ nữ không cần việc làm “bên ngoài”. Việc tuyển dụng ở mức độ
lớn phụ nữ trong văn phòng hay công xưởng, đánh dấu sự thất bại kinh tế trầm trọng.
Dưới nhãn quan PG, sự thể các bà mẹ vào công xưởng trong lúc trẻ con chạy rông
là một điều phi kinh tế cũng như dưới con mắt nhà kinh tế tân thời đưa công
nhân lành nghề vô lính là một điều phí phạm. Nếu nhà duy vật chú tâm vào sản phẩm,
người PG chú tâm đến giải thoát.
Nhưng
PG là Trung Đạo, không chống sự an lạc của thể xác. Chận đường giải thoát không
phải là sự giàu có mà là sự đam mê giàu có.
Nòng
cốt của kinh tế PG là sự đơn giản và bất bạo động. Đối với nhà kinh tế tân thời,
thật rất khó hiểu sự kỳ diệu của lối sống PG và tính cách duy lý toàn diện, thật
khó hiểu phương tiện tối thiểu đưa đến kết quả thỏa đáng trên mức bình thường.
Nhà kinh tế luôn đo mức sống bằng số lượng tiêu thụ hằng năm; theo ông, kẻ nào
tiêu thụ nhiều sẽ sung sướng ngon lành hơn kẻ tiêu thụ ít. Nhưng quan niệm nầy
hết sức phi lý. Tiêu thụ chỉ là phương tiện của sự an lạc; mục tiêu của cuộc sống
là đạt tối đa an lạc bằng tối thiểu tiêu thụ. Mục đích của áo quần là giữ cho
cơ thể một nhiệt độ thích hợp và một bề ngoài dễ mến. Để đạt được, chỉ cần một
cố gắng tối thiểu, không làm hao hụt vải và kiểu mẫu phải đơn giản để khỏi tốn
công thợ, dành thì giờ làm việc khác. Ngày nay Tây Phương áo quần phức tạp đến
mức rùng rợn và có khi đến man rợ. Chuyện áo quần nầy cũng xẩy ở các nhu cầu
khác.
Làm
chủ và tiêu thụ các sản phẩm chỉ là phương tiện đến một cứu cánh. Kinh tế PG
nghiên cứu cẩn thận đầy đủ phương cách đạt các cứu cánh với những phương tiện tối
thiểu. Ngược lại, kinh tế tân thời xem tiêu thụ là mục đích duy nhất của mọi
sinh hoạt kinh tế và dùng các phương tiện sản xuất như đất đai, nhân công và tư
bản. PG tìm đến sự thỏa mãn tối đa bằng một phương thức tốt nhất. Cố gắng dùng
mô thức tối hảo kết quả và tối thiểu chi phí ít mất sức hơn số gằng tìm đến
tiêu thụ tối đa. Cho nên chẳng ngạc nhiên khi thấy ở Miến ít căng thẳng và áp lực
so với Hoa Kỳ tuy quốc gia Á Châu này dùng rất ít máy móc tiết kiệm sức lao động,
không như ở Mỹ.
Đơn
giản và bất bạo động liên hệ mật thiết. Mô thức tiêu thụ tối hảo để đạt tối đa
thỏa mãn làm cho cuộc sống không bị một áp lực nào, người người không bị đòn
cân não; ai cũng có thì giờ suy nghĩ và thực hành một trong những lời dạy căn bản
của Phật: Không làm việc ác mà làm việc thiện. Những kẻ sống trong sự sử dụng tối
thiểu các tài nguyên ít có khả thể siết cổ nhau, so với lớp người sử dụng tài
nguyên tối đa. Cũng vậy, những kẻ sống trong các cộng đồng tự túc ít có khả thể
dùng bạo động so với số người lệ thuộc hệ thống mậu dịch quốc tế. Do đó, sản xuất
từ những tài nguyện địa phương để thỏa mãn nhu cầu địa phương là đường lối kinh
tế hữu lý nhất. Sự lệ thuộc nhập cảng và sản xuất để xuất cảng đến các nơi xa
cách và xa lạ hết sức phi kinh tế; chỉ hợp lý trong những trường hợp đặc biệt
và trên quy mô nhỏ.
Một
nét khác biệt sâu rộng giữa hai quan niệm kinh tế có thể tìm thấy trong cách
dùng tài nguyên thiên nhiên. Triết gia chính trị Pháp, Bertrand de Juvenal, đã
vẽ chân dung “người Tây Phương” với các điều đặc hữu, nay có thể dùng để tả
kinh tế gia tân thời.
Ông ấy chỉ lo có một thứ
chi phí là trả tiên công thợ; ông không quan tâm đã phung phí bao nhiêu khoáng
chất, và tệ hại hơn nữa là không để ý đến số sinh vật bị hủy diệt. Ông chẳng biết
đời sống con người là một phần bộ không thể tách khỏi môi sinh, dưới mọi hình
thức, dưới mọi điều kiện. Cảm thức về sự tương hợp với môi sinh đã không được
khơi dậy vì thế giới được điều khiển từ trung tâm thị thành, nơi dân cư không
thấy một hình thức nào khác về đời sống, ngoài việc thấy các nhân thể xung
quanh. Hậu quả tai hại là thái độ hung bạo đối với những thứ mà con người phải
lệ thuộc để sống còn; đó là nước và cây.
Giáo
lý của Phật không những chú trọng đến từ bi với chúng sinh mà cả với cây cỏ vô
tri. Mỗi người theo Phật cứ vài năm phải trồng một cây, chăm sóc cho đến khi nó
tự sống. Nhà kinh tế PG không thấy khó khăn khi chứng minh rằng sự thi hành giới
luật nầy sẽ đưa đến sự phát triển kinh tế thực sự to lớn và không lệ thuộc ngoại
viện. Nhiều sự lụn bại kinh tế ở Đông Nam Á (cũng như các nơi khác trên thế giới)
bắt nguồn từ sự khinh thị cây cối. Kinh tế tân thời không phân biệt vật liệu
tái tạo được và không tái tạo được vì chỉ xem mức thành công bằng giá thành. Các
thứ nhiên liệu như dầu hỏa, than đá, củi và sức nước không có gì khác nhau ngoại
trừ chi phí. Thứ nào rẽ nhất là tốt nhất, không chọn là phi lý là phi kinh tế. Kinh tế PG không suy nghĩ theo lối ấy, tức là
lối không thấy, hoặc bỏ lờ, sự khác biệt căn bản giữa một bên là nhiên liệu
không tái tạo được như dầu hỏa, than đá và bên kia là nhiên liệu tái tạo được
như củi và thủy lực. Sản phẩm không tái tạo được chỉ nên dùng trong trường hợp
đối đế nhưng phải rất cẩn thận và chú ý việc bảo tồn. Còn như nếu dùng bừa bãi và
ngông cuồng là một hành vi bạo động.
Đành
rằng bất bạo động hoàn toàn khó có thể thực hiện, nhưng người có ý thức phải để
ý đến khía cạnh bất bạo động trong mọi hành vi. Dùng một ví dụ, các kinh tế gia
Âu Châu tân thời không chấp nhận là một thành đạt to lớn nếu đem hết gia sản
nghệ thuật đưa qua Mỹ bán và hốt bạc; cũng giống vậy, một nhà kinh tế PG sẽ nhấn
mạnh rằng lớp người theo một đời sống kinh tế dựa trên nhiên liệu không tái tạo
được là những kẻ ăn bám tư bản.
Lối sống nầy không có tính cách bền lâu, thường
tồn, mà chỉ được biện minh như một lúc xung động tạm thời. Các tài nguyên không
tái tạo được trên thế giới, nơi có nơi không, nhưng đâu đâu số lượng cũng chỉ rất
giới hạn. Do đó việc khai thác theo nhịp độ gia tăng là một hành vi bạo động chống
thiên nhiên, đồng thời việc nầy cũng đưa đến bạo động giữa người với người.
Sự
kiện đơn thuần nầy là một để tài cần được kêu gọi suy nghĩ, kêu gọi những người
dù sống trong các xứ PG mà không giữ gìn các giá trị tôn giáo và văn hóa quốc
gia để rồi chỉ trong phút chốc quy phục đường lối vật chất của nền kinh tế tân
thời. Trước khi từ chối lý thuyết kinh tế PG và xem đó như một hoài niệm, họ cần
soát xét lại, suy nghĩ lại xem đường lối kinh tế phát họa bởi các kinh tế gia
tân thời phải chăng khả dĩ đủ sức đưa đến nơi mong muốn hay không.
Ở
khúc
cuối của cuốn The Challenge of Man’s
Future giáo sư Harrison Brown thuộc California Institute of Technology đưa
đưa ra một sự lượng định giá trị như sau.
Tại căn bản, xã hội kỹ
nghệ không vững vàng và cần được hướng trở lại nông nghiệp. Những điều kiện tự
nhận đã đem lại tự do cá nhân thì lại bất ổn lung lay không thể giúp các cá
nhân tránh xa các tổ chức cứng cỏi và sự kiểm soát toàn diện cay nghiệt. Khi duyệt
xét những mối đe dọa sự sống sót của nền văn minh kỹ nghệ, ai cũng nhận rằng sự
bảo vệ tự do cá nhân khó mà đi chung với sự tái lập sự ổn định.
Đồng
ý hay không đồng ý với Brown không làm độc giả bỏ rơi câu hỏi phải chăng sự tân
tiến hóa không kể đến những giá trị tôn giáo và tinh thần, phải chăng có thể
đưa đến các kết quả tốt đẹp. Quần chúng bình dân đủ sức thấy những hậu quả tai
hại: hủy diệt nền kinh tế nông thôn, ngọn sóng thất nghiệp lên cao trong đô thị
với một khối người bần cố không có thức ăn cho thể xác và linh hồn. Kinh nghiệm
thực tế và các viễn ảnh dài hạn, thôi thúc chúng ta trình bày (và mong được
nghiên cứu sâu rộng) cả với những ai tin tưởng rằng sự tăng trưởng kinh tế quan
trọng hơn bất cứ giá trị tinh thần và tôn giáo nào.
Vấn
đề không phải là lựa chọn hoặc sự tăng trưởng tân thời hoặc sự nằm yên cổ truyền.
Vấn đề là tìm một lối đi đúng, tức là “Trung Đạo” giữa sự tôn sùng vật chất ngày
nay và sự bất động cổ truyền. Tóm lại là tìm ra “chánh mệnh”, đường lối tốt đẹp,
không chỉ bắt chước mù quán lối sống vật chất của các xứ gọi là tiến bộ.
Công việc mới nầy, trên hết, đòi hỏi một sự phát triển
có ý thức và có hệ thống một trung đạo về kỹ thuật, đã được gọi là “kỹ thuật
trung dung”. Kỹ thuật trung dung có nhiều sinh lực hơn, có sức sản xuất nhiều hơn
kỹ thuật lỗi thời của Đông Phương thời xưa nhưng không bạo động, hết sức ít tốn
kém và đơn giản hơn kỹ thuật tiết kiệm lao động của Tây Phương thời nay. (ttt dịch)
*********************************
Ghi chú của người dịch
E.F. Schumacher sinh 1911 tai Đức và qua đời 1977 tại
Thụy Sĩ vì bệnh tim nhân khi du thuyết xứ nầy. Trốn qua Anh để tránh độc tài
Hitler, ông lại bị câu lưu chỉ vì mang dòng máu Đức. Nhưng trong thời gian an
trí nầy, Schumacher viết nhiều luận thuyết kinh tế chiếm cảm tình kính nể của
John Maynard Keyenes. Học giả Hồng Mao nầy đã can thiệp cho ông ra khỏi tù và dạy
đại học Oxford, và sau đó làm trong phái bộ tái thiết Âu Châu sau thế chiến 2.
Schumacher hoạt động thương trường hay giáo dục trong
lãnh vực nhiên liệu. Năm 1955, Schumacher đến Miến trong vai trò cố vấn
kinh tế cho thủ tướng U Nu và ông đã làm quen với hệ thống tư tưởng Phật Giáo,
có lẽ đấy là sự thay đổi tâm linh của một người từ trẻ là một kẻ vô thần, nhưng
sự thay đổi quan trọng nhất là ông đã gia nhập giáo hội Vatican năm 1971, tuy điều
ông thích thú nghiên cứu – là huyền nhiệm của thời khởi thủy – không phải là căn
bản của Vatican. Phải chăng ông đã thấy huyền nhiệm Đông Phương từ khi đến xứ
Miến Điện.
Schumacher đã gây được một phong trào kinh tế nhân bản
của các tổ chức dưới danh xưng chung New Economics, chú trọng đến môi sinh và
kinh tế thiết thực cho cuộc sống chứ không vì sự thổi phồng của một nhóm thủ lợi.
Khi Obama đến Cuba, nhóm nầy đã bày tỏ quan ngại rằng nông dân đảo quốc nầy sẽ
bỏ canh tác lương thực mà trồng những thứ cần thiết cho kỹ nghệ Mỹ rồi sẽ bỏ trống
khi không còn nhu cầu. Cũng giống như nông dân VN đã biến ruộng thành nơi nuôi
tôm, đào quá sâu không thể trồng lúa trở lại khi không còn thị trường. Sự thay đổi
canh tác nguy hại nhất là thập niên 1930, Ukraine phải trồng theo nhu cầu kinh
tế của Nga; hằng triệu người chết đói.
Luận thuyết Buddhist
Economics xuất hiện lần đầu tiên một cách khiêm tốn, trong tập kỷ yếu Asia: A Handbook. Về sau Schumacher đã
in chung với nhiều bài khác thành cuốn Small
is Beautiful.
Xin đọc thêm trên blog nầy: Hột Kê Ngọc
********************