add this

Saturday, January 5, 2019

Hồi giáo thời sáng chói


Trigonometry
lượng giác học
thời sáng chói của Hồi Giáo

M.N Kalife, ttt dịch

Các sử gia về thời Trung Cổ thừa nhận rằng khoa học tiến bộ nhất của thế giới từ thế kỷ 9 đến thứ 13 đã được trình bày quảng diễn bằng tiếng Arab . Những nhà bác học Arab đã hiệu đính, viết sách trên giấy bản thay thế cho sách viết trên vỏ cây (papyrus). Kỹ thuật tân tiến nầy đã đóng góp công sức thúc đẩy việc luân lưu kiến thức, tô điểm rực rỡ đế quốc Abbasside bằng những tư tưởng triết lý, tôn giáo và khoa học.

Việc sáng chế mẫu tự Arab bắt đầu ở Syrie năm 500 do các giáo sĩ mang nhiệm vụ rao giảng Phúc Âm các vùng quanh đế quốc Byzantin, tức là vùng bán sa mạc gồm các nước Ai Cập, Arabie, Syrie và Irak. Dân chúng sống ở đấy được gọi chung là Arab vì nói những thổ âm có gốc lẫn lộn vừa semititque vừa aramene. Các giáo sĩ nầy sáng tạo các mẫu tự nương theo tiếng Do Thái, mà tiếng nầy cũng từ hai nguồn nói trên.

Dấu tích đầu tiên của chữ Arab được tìm thấy trên các tự bản đề năm 520 ở Syrie. Chữ viết nầy đã được chuyển đến La Mecque (Mecca) cuối thế kỷ (thứ 6), nhờ các đoàn vận tải xuất phát từ vương quốc Arab đầu tiên ở Irak ghé qua thánh địa để uống nước suối tiên Zemzem trước khi đi tiếp đến hải cảng Alexendria trên bờ Địa Trung Hải để bán các món hàng gồm hương trầm, nước hoa, gia vị mua từ Ba Tư, Ấn và Nam Á.


Amarna Akkadian letter.png
một tự bản (tablette, tablet) xưa, Ai Cập

Thế kỷ tiếp hé mở một nền văn minh mới, tuy rằng người sáng lập Mohammet không biết chữ và khi chết năm 632 không để lại một chữ viết nào. Cho nên, nhằm bảo toàn thông điệp thần thánh của ông, vị giáo chủ thứ ba Othman (tại chức từ 644 đến 656) tom góp các bản viết lời của Allah truyền cho Người Mang Thông Điệp nầy từ 612 đến 632. [Othman bị ám sát bởi bộ hạ của Ali; Ali, con rể của Mahommet, sau đó thành giáo chủ thứ tư và bị sát hại năm 660 sau khi tạo ra sự chia rẻ trầm trọng với lý thuyết giáo chủ phải có huyết hệ với người sáng lập).

Tuyển tập được gọi là Coran (có nghĩa là đọc lại nguyên văn lời Allah dạy cho giáo chủ). Từ nay, tất cả các bộ lạc Bedouin ở Arabie, tự nguyện hay bắt buộc theo đạo, phải biết đọc năm lời cầu nguyện hằng ngày mà trước đây tín đồ học theo khẩu truyền.  Từ nay Coran được dùng làm lý thuyết căn bản cho các cuộc chinh phạt chiếm đoạt các lãnh địa xa xôi, nơi các sự nhập đạo phải có sự bảo trợ của một người Bedouin.

See the source image
Bedouins

Nhân cớ sự nầy, tiếng Arab trong Coran được dùng làm ngôn ngữ chính thức của các lãnh địa mới theo đạo Muslim. Và như nói trên, dùng để đọc năm lời cầu nguyện hằng ngày, dùng trong các mậu dịch thương mãi và trong giấy tờ hành chánh tại các đế quốc Omeyyad (656-750) và Abbasside (750-1258).

Tiếp theo, chữ nghĩa trong Coran thẩm nhập rộng rãi các thổ ngữ trên đế quốc Muslim rộng lớn nhờ hệ thống Madrasa, trường công và là trường đạo do các imam điều khiển. Việc truyền bá chữ Arab qua trường học nầy làm người đọc liên tưởng đến việc truyền bá Latin trong các dân tộc Tây Âu bởi các giáo sĩ mà Charlemagne giao nhiệm vụ truyền đạo trong đế quốc Carolinge.

Tuy vậy, cần nhớ rằng người Thổ Nhĩ Kỳ Seldjoukide, gốc từ các thảo nguyên Trung Á, sau khi đã nắm quyền thế giới Arab vào thế kỷ 9, đã thành lập các trường Madrasa nhằm mục đích khống trị dân chúng Ba Tư và Arab về ý thức hệ. Trường chỉ dạy học thuyết bảo thủ sunny, gạt bỏ học thuyết Motazi và bất cứ học thuyết nào theo Aristote.

Chủ thuyết sunny acharite được đứng vững nhờ nhà thần học El Ghazali, kẻ thù công khai của phái Motazi; tư tưởng biện chứng của Motazi là mối nguy hại về ý thức hệ của uy quyền Thổ đối với dân Arab. Uy quyền nầy có từ thế kỷ 9 khi người Abasside khẩn cầu các hoàng tử Thổ seldjouk bảo vệ chống lại người Chites được giáo khu Caire trợ giúp. Dần dà, quân lính Thổ, từ Trung Á đến, đảm trách an ninh cho giáo lãnh abbasside để hành sử quyền lực tôn giáo với tư cách kế vị Mahommet.

Thế rồi năm 1258, Thổ hạ bệ giáo lãnh Abbasside cuối cùng và tướt bỏ danh hiệu kế vị Mahommet. Nhưng làm sao nhóm Thổ nầy, mới ra khỏi rừng rú Trung Á, có thể cai trị thành công một vùng đất Arab vô cùng rộng lớn vào lúc ấy?

Họ triệu dụng thành phần ưu tú Ba Tư vốn kình chống người Arab. Thành phần nầy cống hiến đám quân phiệt Thổ kinh nghiệm dồi dào về cách cai trị đế quốc xưa là assanide đã từng thua người Arab; tự nguyện phục vụ Phó Vương Thổ duy trì uy quyền chính trị; Thổ phong chức giám sự (trong 30 năm, 1062-1092) một chính khách danh tiếng của Ba Tư tên Nizam al Molk, để quản trị lãnh thổ ngút ngàn Arab.

Nizam Al-Molk thành lập hệ thống Madrasa, trường công và trường đạo có nhiệm vụ truyền bá học thuyết acharide của nhà thần học Ba Tư Al Ghazili. Ông vận dụng các nhà bác học Ba Tư để phổ biến học thuyết nầy ở Bagdad, trung tâm văn minh của đế quốc Abbasside xưa nay trong ảnh hưởng của Motazi.

Học thuyết nầy truyền giảng sự thiên tạo của Coran và ý thức hệ Mektoub cho phép Thổ thống trị một ngàn năm lãnh thổ rộng lớn Muslim với dân cư ngoài gốc Thổ từ Iran đến Algérie. Cấm dạy triết thuyết bao dung gốc Hy Lạp và thần học Motazi. Đường lối nầy đã giúp người Ottoman duy trì quyền lực trên một đế quốc có dân cư ngoài nguồn gốc Thổ, sống trong sự ngu dân tôn giáo, giao phó định mệnh vào ý Chúa theo đúng lời kinh “Inch’Allah”. Sự cấm đoán thảo luận thần học nầy trái ngược với đường lối “Ánh Sáng” của người Abbasside thế kỷ 9 và 10.

Sự tuân thuộc tinh thần đặt trên các huấn lệnh của nhà thần học Al Gazali mà giám sự Nizam Al Molk ca ngợi là sự toàn bích của Muslim.
Al Ghazili đã dùng các lắc léo trong luật pháp, ngụy biện để kết án lý thuyết rộng rãi là chống đức tin, kết án thần học Motazi (chủ trương tín hữu có trách nhiệm về hành động và cuộc sống của chính mình). Tính cách giáo điều nầy đã đưa Muslim vào chính sách ngu dân dưới ách Thổ seldjouk, mang tên Ottomam vào thế kỷ 14.

See the source image

Nguồn gốc “Ánh Sáng” thời đầu của Muslim
Uy tín của thành phần ưu tú đế quốc byzantine đã gây phấn khởi cho giới ưu tú omay kiến tạo một đế quốc mới qua hình ảnh triết học Aristote, những lần dài thảo luận thần học và tổ chức hành chánh của đế quốc byzantine. Đế quốc non trẻ nầy đặt ở Damas. Nhờ cuộc xâm chiến Ai cập vào thế kỷ thứ 8, người Omey nương theo sách trong đại thư viện Alexandria để học kiến thức người xưa. Hơn nữa, học giả Arab còn trau dồi kiến thức bằng sự tìm hiểu các nguồn tri thức khác ở Assyrie, Lưỡng Hà Địa, Ba Tư, Ấn Độ và Trung Hoa.

Giới ưu tú byzantine còn nêu rõ sự ngu dân trong đạo Hồi; từ đó phát sinh trường phái Motazi, chủ trương duy lý và dung hòa với sự hiểu biết của người xưa (nghĩa là trước khi có Muslim).

Như vậy, trong khi học các người xưa, trí thức Arab đã làm giàu tiếng Arab và sáng chế đại số, quang học, lượng giác để đi cùng toán học Euclid, vật lý Archimede, địa dư của Ptolemee, y học của Galien, luyện quý kim của Hermes, triết học của Aristote.

Những phát minh Arab đặt trên viễn tượng duy dụng của khoa học, căn nguyên tiến bộ khoa học từ thế kỷ thứ 9 đến thứ 12.

Khoa học Arab làm giàu tư tưởng Tây Phương nhờ các sự giao dịch xuyên qua các cuộc thánh chiến từ 1092 đến 1270, cũng như xuyên qua vương quốc Andalousie (Tây Ban Nha). Những sinh hoạt mới nầy giúp các nhà tư tưởng Âu Châu thoát khỏi đường lối giáo điều của Giáo hội La Mã bằng cách tìm gặp lại triết học Hy Lạp bị dìm từ cuộc xâm chiếm của các rợ vào thế kỷ 5.

Đây cũng là điều nuôi dưỡng nhân tố của đường lối nhân bản Tây Phương, đặt để hạnh phúc con người trở lại trên trái đất và thành trung tâm điều hướng mọi điều từ thế kỷ 14, mở đường cho thời kỳ Phục Sinh và Ánh Sáng.

Ánh Sáng của đường lối Motazi
Danh từ “ánh sáng” để chỉ lối vào các tri thức về chân lý của sự việc bằng lý luận tự do, dựa trên sự quan sát khách quan về các sự việc, dựa trên sự đối chiếu so sánh độc lập giữa các ý tưởng hiện có, không phục tùng một thiên kiến ý thức hệ nào, hay bất cứ giáo điều cấm kỵ nào. Vậy thì triết lý trên đời của Hồi Giáo như thế nào?

Trong hai thế kỷ đầu, triết lý Arab không được định hình theo các giáo điều, mà được hình thành qua sự cung hiến một tổng quan về vũ trụ và về đời sống trên mặt đất nhưng không quên tham chiếu Coran (Coran lúc ấy được giải thích một cách tự do). Triết lý Arab tìm được nguồn hứng khởi trong triết học Hy Lạp (rõ hơn là Aristote), đồng thời mở các cuộc thảo luận lâu dài giữa các trường phái tư tưởng chuyên nghị luận về Coran.

Lối xử dụng ngôn ngữ trong các cuộc thảo luận nầy gọi là “kalam”, lời nói có lý luận, hữu lý. Phương pháp luận kalam đạt mức cao nhất vào thế kỳ 9 với chủ thuyết Motazi trội yếu tại triều giáo lãnh Al Ma’moun (813-833); Ma’moun từng nói: Coran là sách đầu giường của tôi, nhưng Aristote là người thầy dạy tôi cách suy nghĩ.
Học phái Motazi trả lời giới trí thức byzantine chỉ trích đạo Hồi ngu dân, thiếu óc lý luận triết học. Danh xưng nầy còn có nghĩa là tách khỏi các trào lưu bảo thủ. Những triết gia thần học Arab nầy dùng luận lý học của Aristote làm căn cứ bảo vệ đức tin của họ một cách duy lý.

Tức khắc, các trào lưu giáo điều chống đối; họ lập luận rằng Coran không cần được biện giải biện minh với người Do Thái, người Thiên Chúa, bằng vào sự kiện Coran được thiên tạo, trong lúc Thánh Kinh và Phúc Âm do người tạo. Hơn nữa, Coran chấm dứt chu kỳ mặc khải với nhà tiên tri cuối cùng là Mahommet, tiếp sau Moise và Jesus; như vậy Coran bất khả bác miễn.

Qua phương pháp luận Aristote, phái Motazi suy nghĩ về nền móng đức tin Islam, bắt đầu với năm câu hỏi cốt trụ, để biết phải chăng:
- Coran được nhân tạo như Thánh Kinh hay Phúc Âm hay là thiên tạo do Thượng Đế.
- Việc ác là do ý Thượng Đế làm ra hay là sự việc do người làm ra.
- Tiền định (mektoub) hay tự do quyết đoán điều khiển con người
- Thuộc tính của Thượng Đế trong Coran là những ẩn dụ hay phải hiểu theo nghĩa đen từng chữ.
- Kẻ có tội sẽ phải đày xuống địa ngục hay có thể chuộc lỗi khi còn sống.

Một thế kỷ thảo luận triết lý đã đủ cho phái Motazi thiết lập năm nguyên tắc đối nghịch với phái Sunny (Sunny chỉ dựa vào truyền thống Nhà Tiên Tri).
Năm nguyên tắc dưới đây đã làm nòng cốt tư tưởng cho đế quốc Abbasid trong hai thế kỷ 9 và 10.

1. Chủ thuyết độc thần - quan niệm về Thương Đế (TĐ) vượt khỏi sự hiểu biết của con người. Cho nên những câu thơ trong Coran mô tả TĐ ngồi trên ngai vàng phải được giải thích theo cách ngụ ý chứ không thể theo nghĩa từng chữ. Từ đó Motazi đã ghép nhóm chống đối vào giới chủ trương nhân thể đã đem TĐ bất khả tư nghị xuống thành một hình người. Motazi kết luận rằng chỉ một chi tiết nhỏ nầy đủ để chứng minh rằng Coran không phải thiên tạo mà do người tạo theo tầm hiểu biết của tín hữu, do đó Coran phải tiến hóa và thích ứng với thời đại.
2. Công lý tối thượng liên quan đến trách nhiệm về việc. Motazi tuyên lập sự tự do quyết đoán, việc ác là một sự việc do người làm ra chứ không do ý định của TĐ. TĐ toàn hảo không làm việc ác và không chỉ định con người làm việc ác. Nếu mọi sai lầm của con người qui về ý định của TĐ thì việc trừng phạt thành vô nghĩa vì người làm như vậy là để tôn trọng ý của TĐ. Lập luận bất khả phản nầy cho phép Motazi bác bỏ sự tiền định, mekboub của các trường phái Sunny.
3.  Hứa hẹn và hăm dọa. Nguyên tắc nầy liên quan đến sự phán xét người vào giờ chết và liên quan đến sự phán xét cuối cùng trong đó TĐ thưởng kẻ vâng lời cho lên trời và phạt những kẻ bất tuân vào hỏa lò.
4. Ở mức giữa, nguyên tắc nầy đối chọi với sunny. Kẻ làm trọng tội (sát nhân, trộm cướp, thông dâm, vu oán thông dâm, uống rượu…) không phải bị xử với tư cách người Muslim hay người ngoại đạo hoặc fakir; nhưng ở mức độ trung bình, sẽ xuống địa ngục nếu không được chuộc tội bởi lòng thương xót của TĐ.
5. Ra lệnh làm việc thiện và khiển trách kẻ phạm lỗi. Nguyên tắc nầy cho phép nổi loạn chống chính quyền bất công để ngăng chận việc ác lên ngôi. Nguyên tắc nầy đưa đến thù hận của nhóm Ulema và các cấp giáo lữ vì làm mất uy quyền đối với tín đồ; đối với người Thổ Seldjouk thì nó thách thức nguy hại quyền uy trên đầu người Arab.

Vì được đặt trên sự phán xét lý trí, năm nguyên tắc nầy được giới trí thức ưu tú quảng bá khắp triều Abbasid và để rồi Mozazi đạt đĩnh thành công năm 827 khi giáo lãnh Al Ma’moun công nhận là học thuyết chính thức của giáo khu.

Tuy nhiên sau khi Ma’boun chết, nhóm Ulemas và các imam bảo thủ vùng dậy để điều khiển đức tin của tín đồ bằng cách dẹp bỏ lý thuyết trong sáng nầy vì nó giới hạn quyền uy của họ. Trong lúc ấy, chánh quyền Abbasid, vì quá say mê thuyết Motazi, đã từ năm 833 đến 848 phát động một cuộc thanh trừng khắc nghiệt, ép buộc người Sunny công nhận to tiếng nơi công cộng rằng Coran là do nhân tạo chứ không phải thiên tạo.

Cuộc thanh trừng nầy tạo nên niềm chua chát trong lương tâm dân chúng khi chính quyền abbassid không chịu can thiệp Byzantine thả người Hồi bị tù vì không chịu từ bỏ giáo điều Coran là thiên tạo. Thái độ mất lòng dân nầy đã giúp sức cho phe sunny tẩy sạch thuyết Motazi trong ý thức tôn giáo, để quần chúng vui vẻ tiếp nhận chủ thuyết acharite của El Ghazali, kẻ thù của Motazi, vào thế kỷ 11.
Acharite là một trong bốn trường phái chấp nhận Coran thiên tạo, truyền thống của nhà Tiên Tri, và tiền định. Quan niệm giáo điều mới nầy của đạo Hồi đã dẹp tắt “Ánh Sáng” từ thế kỷ 12.
Sau khi xem xét cuộc cai trị, lèo lái thế tục của giáo lãnh Motazi Ma’mou, xin xét qua danh sách các nhà bác học trong thế giới Muslim đã ảnh hưởng mạnh mẽ khoa học thời Trung cổ.

Các nhà bác học Hồi Giáo
Al Kindi (800-870) là triết gia Hồi giáo đầu tiên và danh tiếng nhất. Ông đề cao luận thuyết nhân quả, xuất phát từ tư tưởng Platon. Chính ông đã đưa ra cách tính thập phân dựa vào số O của Ấn độ, tứ đó các số Arab trở nên thông dụng nơi nơi thay cho số La Mã (ghi chú người dịch: 9 số còn lại là của Ấn, vì người Arab xử dụng nên được gọi là số Arab).

Al Farabi (870-950) mang danh hiệu bậc thầy thứ hai sau Aristote, vì ông đã xác lập vị trí hàng đầu của triết học, nằm trên thần học. Tác phẩm “Quốc Gia Kiểu Mẫu”, cổ súy một quốc gia đặt trên nền móng luân lý và lý trí, cai trị bởi một ông vua triết gia. Cuốn sách nầy là mầm mống của lý thuyết “quân chủ sáng suốt”, thế kỳ 18 Âu Châu.

See the source image

Một người có tư tưởng bao la mang tên Avicenne (980-1037) đã tổng kết sự hiểu biết của người đương thời và mở đầu cho các bách khoa từ điển xuất hiện thế kỷ 18. Tác phẩm chính “Quy Tắc Y Học” được dùng trong các đại học cho đến cuối thế kỳ 17.

Al Birouni (973-1048) đã kết hợp triết học và thiên văn học trong cuốn “Vườn Khoa Học”. Sau lần tháp tùng giáo lãnh Mahmoud thăm Ấn Độ, ông hoàn tất cuốn sử đầu tiên về tiểu lục địa nầy, cùng cuốn sử khác về thế giới nhan đề: sử ký biên niên.

Sau khi phó vương Thổ bóp chết các tư tưởng triết học, nền học thuật và tư tưởng Arab may còn cơ hội khai mở tiếp dưới sự cầm quyền của phái Almohade ở Maroc và Tây Ban Nha.
Ibn Toufay (1115-1185) đã viết cuốn: Người hiện sinh, con của kẻ thức: cuốn nầy xem như tiền thân của cuốn “Discours de la méthode” (phương pháp luận) của Descartes. Ông đã mô tả cách thức một người sống đơn độc trên một hoang đảo một mình đạt đến sự hiểu biết về thế giới và Thượng Đế bằng sức mạnh duy nhất là trí thông minh tự nhiên và sự suy nghĩ thuần lý.

Cuối cùng, nền triết lý Hồi Giáo đến thượng đĩnh trong thời Almohade với Averreoès (1126-1198) mang những tư tưởng làm giàu có cho các triết gia Âu châu từ thế kỷ 13 đến 17. Giảng luận về Aristote, ông chủ xướng rằng thế giới và vũ trụ hiện hữu vĩnh viễn nhưng tiến hóa theo những định luật nội tại tuy cả hai đều do TĐ tạo dựng. Phủ nhận sự bất diệt của linh hồn và tiếp đó là sự sống sót sau khi chết, Averroès đã lâm vào cuộc xung đột dữ dội với Muslim chính thống và bị đày. Luận thuyết của ông về sự hiện hữu vĩnh viễn của thế giới, không bắt đầu không chấm dứt, được xem có giá trị trường tồn qua danh hiệu “chủ thuyết Averroes La Tinh” do trường Sorbonne tặng. Hai thế kỷ sau, Thánh Thomas d’Aquin vận dụng luận lý theo lối Aristote của Averroes.

Liên hệ giữa khoa học và tri thức 
Những thế kỷ đầu của Hồi Giáo chứng kiến một sự sôi sục tinh thần và tư tưởng quá mức bình thường, chính vì Nhà Tiên Tri đã khuyến khích giáo dục và khoa học trong các thánh điển. Có thể tìm ra những diệu uyển đã gây phấn chấn cho học phái Motazi. Vài ví dụ:
- TĐ không tạo ra điều gì cao quý hơn trí thông minh; Ngài kết tội những kẻ khinh rẻ thông minh.
 - Dưới mắt TĐ, thế giới là một cuốn sách đầy những dấu hiệu, những biểu tượng dành cho lý trí, và dành cho kẻ hiểu biết.
- Theo đuổi khoa học là nhiệm vụ của mọi người Muslim.
- Đi tìm khoa học mãi tận bên Tàu, và xa hơn nữa nếu cần.
- Ai cất bước nghiên cứu khoa học sẽ được Allah mở cửa đón vào thiên đường.
- Mực của nhà bác học linh thiêng hơn máu tử đạo.
- Kẻ không chịu thông truyền khoa học cho người khác khi được yêu cầu sẽ xuống địa ngục”.

một chỗ khác, Coran nhấn mạnh phải du hành, đi xa để tìm hiều, để nghe ngóng; nghĩa là khoa học phải phát giác những điều bên ngoài Coran. Hơn nữa Coran đã 49 lần dùng động từ “aquala”, xử dụng lý trí để cho việc thiện lên ngôi, và xua đuổi việc ác, điều vượt xa giới luật của TĐ.

Israel-2013(2)-Jerusalem-Temple Mount-Dome of the Rock (SE exposure).jpg
Dome of the Rock

Do đó năm 691, giáo quyền Omey đã xây ở Jerusalem ngôi đền Hồi Giáo đầu tiên (Dôme du Rocher), theo một nghệ thuật mới dung hòa nghệ thuật La Hy của đế quốc Byzantin và nghệ thuật của đế quốc sassanide mà họ mới chiếm. Cần biết hoa học kiến trúc nầy không được qui định trong Coran.

Cũng vậy, không qui định trong Coran: triết học và khoa học của “người xưa” mà kẻ chiến thắng Arab đã thu lượm trong các truyền thống Hy Lạp, assanide và Ấn Độ từ thế kỷ 8 đến 9. Đáng ghi nhận rằng giáo lãnh Al Ma’moum (813-833) đã xây dựng tại Bagdad “Ngôi Nhà Hiền Học”, tiếp ngụ các nhà nghiên cứu của 17 trường phái triết học đương thời mà không có ràng buộc nào về ý thức hệ.  Ông đã dùng học thuyết Motazi làm căn bản tư tưởng của chế độ, đã nói Coran là sách đầu giường nhưng Aristote dạy cách suy nghĩ.  Như vậy triết học Arab đã được tách khỏi sự bảo trợ giáo điều tôn giáo. Ông đã đi trước đường lối thế tục đến 11 thế kỷ.

Không riêng gì cho Ma’moun, Aristote là bậc dạy cách suy nghĩ cho mọi nhà nghiên cứu Arab. Chủ thuyết của Pythagore và của Hermes đã được giảng dạy. Như có nói trên, nhờ sự học hỏi và dịch thuật các sách cổ học Hy Lạp, tiếng Arab thành một ngôn ngữ đầy đủ cần thiết cho các nền văn minh, để phân tích dễ dàng triết học và khoa học; trong lúc trước đó thứ tiếng nầy chỉ mang tính cách thi ca, gợi lên những đêm sao sa trên sa mạc. Vậy thì chính nhờ kiến thức bên ngoài Coran mà thổ ngữ xưa cổ ở thánh đô La Mecque đã trở thành một ngôn ngữ rộng lớn phục vụ một nền văn hóa toàn diện phổ quát.

Sự cởi mở tinh thần nầy đã cho phép giáo khu Abbasside có trình độ học thức uyên bác và nền khoa học chặt chẻ, không có chỗ nào trong thế giới Arab sánh kịp.

Nhưng bất hạnh thay, sự thống trị của người Thổ trên thế giới Arab đã áp đặt đường lối giáo điều sunny dựa trên truyền thống của Nhà Tiên Tri vào thế kỷ thứ 7, giáo điều “Coran thiên tạo”, tiền định để đưa tất cả tương lai của con người nằm dưới ý của Allah. Điều nầy đã vô hiệu hóa tinh thần phê phán và sức sáng tạo cùng các ý hướng thay đổi cách mạng, ép buộc tín hữu sunny giao phó định mệnh cho Allah và các thế lực chính trị.—

Bản tiếng Pháp:




هبة طوجي - لا بداية ولا نهاية



See the source image 


No comments:

Post a Comment