add this

Sunday, May 10, 2020

Hai tay chắp lại vì ...


See the source image
Hai tay chắp lại vì ...
Tôn Tht Tu 

* Hồi đáp email chuyển tiếp bên dưới.*

Chấp tay là hai tay con ếch khi bị làm thịt, cho nên ếch nhái là con vật được ưu tiên không đem chiên bơ. Theo truyền thuyết đó là thoái thân vị hòa thượng gây khó khăn cho một đồ tể bỏ dao đi tu. Hai tay chắp lại là hành động tự nhiên của mọi người đưa mắt hướng lên không, tương tác với thiêng liêng nhưng hành vi nầy đã thành một biểu tượng của PG ngoài xã hội hay nơi hành đạo.

Thái Lan ảnh hưởng PG rất rõ và cách chào nhau là chấp tay. Nếu nhìn một cô Thái trong gia đình truyền thống và nhất là khi mặc xà xông mà cô chấp tay chào bạn thì không đơn giản như hai bàn tay thái tử Charles làm "namast" nam mô. Trước tiên chân trái lùi một tý cho toàn thân nhủng xuống dễ dàng, đưa tay lên mặt, ngón tay chấm đến trán, cúi đầu với một góc gần như không thấy. Đó là một dung hiện của tâm qua thân và lời ngọt ngào Sawadika, em xin chào mừng (nữ: sawadika; nam: sawadikap).
Nếu hành động được hướng dẫn bởi ý thức hiện diện của kẻ khác thì hành vi cô Thái nầy là thiên đàng, không như Jean Paul Satre: l'enfer c'est les autres; địa ngục là tha nhân trước mặt.

See the source imageHành động tự nhiên ấy có thể dùng làm biểu tượng một số ý nghĩa, không nhất thiết cái gì ra cái gì. Một số người Phật Giáo HK cho đó là thập giới, mười tâm thái (life conditions) có chung trong một thực thể tâm linh, ảnh hưởng nhau nhưng kẻ hành đạo luôn hướng đến chỗ cao nhất: Phật, bồ tát, duyên giác, thanh văn, thiên, nhơn, a tu la, ngạ quỷ, súc sanh và địa ngục. Có người cho là thập như thị chứng tỏ sự phân tích và tổng hợp các yếu tố sinh thành vạn pháp vạn hữu (như thị: tướng, tánh, thể, lực, tác, nhân, duyên, quả, báo và bổn mạc cứu cảnh đẳng).
Nhưng tổng quát hơn áp dụng cho mọi tín ngưỡng, biểu thị dễ hiểu qua thành ngữ: "embracing the faith - embrasser la foi”. Tiếp nhận đức tin vào lòng. Hiểu biết dù đến tận cùng mọi khía cạnh về một tôn giáo không có nghĩa là có đức tin của tôn giáo nầy. Một nhà đại Phật học chưa phải là một buddhist nếu không embrace the Budha's creeds, khác với mẹ tôi không biết chữ, chỉ biết A Di Đà Phật.

Lối nhìn theo cơ cấu luận tân thời nầy đã được dùng để giải thích phẩm Hiện Bảo Tháp trong Pháp Hoa. Phẩm nầy rất "ngộ" (trong Nam ngộ là kỳ lạ). Đa Bảo Như Lai là vị Phật trong tam, tam, tam thế có lời nguyện khi vị Phật nào giảng Pháp Hoa thì Ngài sẽ đến với bảo tháp mà làm chứng và hộ niệm. Tháp xuất hiện lừng lựng giữa hư không, Đa Bảo Như khen ngợi và mời Thích Ca vào ngồi chung trong tháp. Dĩ nhiên phải hiểu chương nầy theo ý tại ngôn ngoại, mà dùng theo tây phương là ẩn dụ (allegory). Ở nơi đây Đa Bảo tượng trưng chân lý khách quan (kiểu học giả) và Thích Ca đại diện cho hành giả, chủ quan, thực tại chúng sinh (human being) để cùng đến giác ngộ và giải thoát.

No photo description available.Vì nhu cầu phân tích, chúng ta có những thuật ngữ tân thời như chân lý khách quan... làm nhiều người cho là phỉ bán Phật vì chỉ có một chân lý; nhưng Phật đã dùng song song hai thứ chân lý: tục đế và chân đế. Phái quá khích ở Nhật trong khynh hướng tệ hại là hướng Nhật (Japanocentric) cho rằng Nhật Liên Đại Thánh Nhân (thế kỷ thứ 12) mới là real budha cho nên không đề cập đến Thích Ca nhưng vẫn dùng Kinh PH. Cho nên họ không đủ sức hoặc cố không hiểu sự thông suốt của vị tổ khai sáng khi ngài viết Ngự Bản Tôn để thờ phụng. Ngự Bản Tôn gồm chữ chính: Nam Mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, là pháp thân, là mọi chư Phật và là Phật trong mỗi người. Bên phải bảy chữ hàng đọc nầy là Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật; bên trái là Nam Mô Đa Bảo Như Lai; hai Ngài đã biểu thị cái đã có và sửa soạn cái sẽ có cho chúng sinh.
Hai Ngài như hai bàn tay chắp lại.

=========================================================================================

See the source image

chp tay ly người
Tôn Tht Tu * 2014

Cảm ơn các bạn đã tiếp nhận với hảo ý bài Tình Yêu. Nhân các email liên hệ, tôi sực nhớ đến hình ảnh của người chị trong câu: vòng tay chị chấn ngang vùng sợ hãi. Chị sinh 1930 Canh Ngọ vừa qua đời trước Tết Con Rồng 2012, một ngày trước khi ông Táo về chầu trời.
Chiến tranh Việt Pháp 1946 đã đưa anh chị em tôi vào tình trạng các bạn cứ tưởng tượng như bỗng dưng con cái ra đường sống cuộc đời homeless. Chị không đi học tiếp mà sống nơi nhà thờ họ ngoại với ông trưởng tộc nghèo, chung nhau tìm cách sống qua ngày. Rồi chị cũng lớn lên sống với nhà chồng gần Đàn Nam Giao. Còn nhớ ông cha chồng có nói với dì tôi: Thưa bà Lãnh (chồng lãnh binh), nếu không có sự đảo lộn thì làm sao tôi có thể đến nhà bà xin cưới dâu.

Hão huyền xã hội ấy không phải là điều tôi muốn ghi lại. Điều chính yếu muốn nói là nhờ những đổi thay xã hội ấy, chị tôi vì nghèo, ít học, đã không làm gì có thể hại ai, mắng chưỡi ai, tống tiền, cho vay cắt cổ, gạt gẫm, kể cả không có dịp làm những sai lầm ngoài ý muốn như phạt tù kẻ vô tội. Chị tôi hay cúi nhìn xuống đất, nghĩa bóng và đen. Chị luôn hất cục đá vô lề, lượm những cành gai, những mẻ chai mẻ sành, đinh… sợ người ta đạp què giò.
Thỉnh thoảng chị gánh xuống chợ Bến Ngự bán những sản phẩm nhà vườn. Nghe ghê quá. Nhưng chỉ có: một trái mít non, một mụt măng tre pheo, vài mụt măng cán dáo, mươi trái vả, vài bó chè xanh, trái thơm non.
Trái thơm là trái thơm non, đem về trộn mắm ăn chon như dừa.

Quan trọng và đầy màu sắc là cái ngãu ớt mọi, ớt tím, ớt chìa vôi, còn xanh còn hườm theo thị hiếu ở Huế. Khi nào trời thưởng, thì có thêm nhúm nấm mối mọc dưới lá tre mục, hoặc vài ba chục tai nấm mèo phơi còn ẩm.
Mấy thứ ấy không nặng bằng một thùng nước nên chị kèm theo năm bảy bó củi. Mấy bó củi nầy đầy tính chất phấn son, tô phết. Bên ngoài là những liếp gỗ mỏng trắng tươi từ thân cây dương liễu; bên trong đủ thứ tầm khào, kể cả nhánh vông gai xốp. Chẳng che dấu lường gạt ai được nhưng cái đẹp cũng câu khách, có giá vậy. Quanh xóm ai cũng nghèo, cho nên không thể mua đi bán lại, có chi bán nấy. Tường trình đầu tiên khi ở chợ về chỉ có hai chữ hoặc “gạo hơn” hoặc “gạo thua”. Đến nay tôi chưa hiểu vì đâu có hai thuật ngữ ấy, gạo hơn là giá hạ, gạo thua là giá cao; tạm hiểu cùng một số tiền, thua là bớt gạo; hơn thì thêm một chút.

Nhưng gạo đã làm chị bận tâm một cách khác vào tuổi đôi tám (1945). Hơn mười năm trước, tôi có về Huế lo dời mô mã tổ tiên bị giải tỏa khu núi Ngự Bình. Tôi chẳng đi đâu, ngoài công việc chính yếu trên. Tôi lẫn quẩn trong vườn và tìm gặp những thứ chị mang đi bán như nói trên. Cây chè đã lão hóa, thân hình cổ quái như những cây bonsai. Mấy cây mít chỉ có trái lèo tèo như quả bưởi, nằm trên cao, chúng có cái tên không đẹp nhưng rất thông dụng ở Huế là mít đọt. Mấy bụi thơm có trái chín như hồi nhỏ người lớn hay đố, mặc áo điều áo đỏ ngồi chỏ hỏ sau nương. Cây vả xưa đã chết, mới trồng cây con.

Chiều hôm trước ngày tôi trở lại Saigon, hai chị em ngồi yên lặng dưới giàn hoa. Bỗng nhiên chị tôi nói: Ba rất kính trọng người ăn mày.
Đến đây các bạn sẽ hiểu vì sao tôi nói chị bận tâm về gạo. 1945 thì chị đã 15, tuổi ta là mười sáu đôi tám là đúng rồi, tuổi đủ để nhớ và biết nhiều. Chị nói vào kỳ đói, gia đình tôi nấu cháo từng nồi lớn, mỗi người đi qua được mời một tô cháo trắng. Chị múc và cha tôi hai tay dâng bát (cái đọi) cháo rồi vái lạy người người ăn. Mỗi người chỉ có một tô, đi quanh đi quất đâu đó trở lui ăn nữa nhưng ăn liền tô thứ hai thì không được. Của ít người nhiều.

Tôi chưa bao giờ chứng kiến cảnh đãi cháo ấy; có lẽ nấu đâu ngoài chợ vì nhà tôi ở trong kiệt. Nhưng tôi nhớ mồn một cha tôi mua nhiều gạo lắm (trẻ con thì thấy gì cũng to cũng nhiều). Tự nhiên cái chái trước thành chỗ cao chỗ thấp cho tôi nhảy lên nhảy xuống. Chị phải lo đem gạo cho bà con tận Cồn Hến, có khi qua đò nước lụt rất ghê sợ.
Năm đó cha tôi đi buôn gạo với bác Thanh, tức là cha của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Tôi còn nhớ bác Thanh có đến nhà tôi một lần. Sau hồi cư tôi có thấy vài lần trên xe vespa trước khi bác chết vì tai nạn xe cộ trên đường từ phi trường Phú Bài về Huế. Tôi không hiểu số gạo để tại nhà để đem cho bà con lối xóm hay nấu cháo có phần của bác Thanh hay không. Tuy vậy tôi luôn nguyện hồi hướng công đức cho bác Trịnh Thanh. Việc nầy tôi nghĩ TCS cũng không biết; cũng như không biết sự quen biết giữa cha tôi và cha của ông. Tôi không quen biết TCS; chỉ có một lần tôi đi cùng với một người bạn vô Bộ Thông Tin yêu cầu Ban Kiểm duyệt thông qua bài Nhìn Những Mùa Thu Đi, lần ấy ông nhạc sĩ cũng đi chung. Nói cho rõ thêm, việc can thiệp nầy là do ông bạn (đã chết Mậu Thân) còn tôi chỉ tình cờ đi theo.
Trước và sau vụ gạo nầy, cha tôi thật sự là homeless, nghĩa là ông chỉ lo đâu đâu ngoài đời. Ông tom góp mọi thứ trong nhà để lo cho tuần lễ đồng, tuần lễ vàng. Mẹ tôi mất sớm nên chị lo cơm nước cho mấy em.

Chị tôi gánh những gánh củi xuống chợ bán, lúc chợ ế phải gánh rong quanh Bến Ngự bán cho những người cùng thời với cha tôi. Sau chiến tranh họ vẫn còn làm chủ tiệm vàng, tiệm xe đạp, quán giải khát (buvette), chủ bàn ping pong, chủ tiệm tạp hóa v.v…Con cái của họ xưa kia cùng đi học bây giờ áo quần bảnh bao không rách vá như chị. Không ai nhìn. Riêng chỉ có ông bà Viên Lang nhận ra, mời ăn cái bánh và chén nước. Dĩ nhiên những người như mụ Giá quét chợ thì trò chuyện huyên thuyên như ngày xưa vô nhà xúc gạo về ăn.

Nghèo chẳng có gì đáng khen hay đáng trách. Nhưng cái hay của cảnh hàn vi là nó giúp mình không có phương tiện sách hại ai. Đó là trường hợp của chị tôi. Chị tôi dốt, không biết thiền là gì và cũng không biết bát văn cửu vạn (bài bạc) là gì, không biết điều khiển 16 ông tướng qua bốn vùng chiến thuật xanh đỏ trắng vàng; không biết champagne ra làm sao. Chị không biết thập ngưu đồ của thiền học. Chính chị không biết đời mình là một ngưu đồ, suốt đời tận tụy và âm thầm nghiền ngẫm sự việc chung quanh như trâu nhai lại.

Tôi tin tưởng cuộc đời vô cầu, vô tạo, vô lụy đã cho chị tôi một sự ra đi nhẹ nhàng. Vào nhà thương khám bệnh định kỳ, đột nhiên hôn mê và từ giả mười giờ sau. Đây là một ví dụ, một trường hợp cụ thể của triết lý Kim Cang, đến từ hư vô và trở về với hư vô hay nói khác chẳng đến chẳng đi. 82 tuổi đời, mà e chừng đã có gần 70 tuổi đạo, đạo vái lạy kẻ nghèo đói, đạo chấp tay lạy người.
Thân ái,

**************************
2020, 7:27:05 AM EDT, Vinh <@mail.com> wrote:
S nhim mu ca hai bàn tay chp li
Vào Phật điện, bạn cung kính chắp hai bàn tay để bái hay lạy; bạn chào hỏi một người quen hay lạ, đều phải chắp hai bàn tay để phía trước ngực rồi nói A-di-đà Phật, kèm theo một nụ cười để chào đầy vẻ vui tươi, an lạc.
Đạo Phật nói chung, người Phật tử đã thấm nhuần giáo lý nói riêng, từ xa xưa về trước và đến nay hơn 25 thế kỷ, hiện tại khắp mọi nơi, mọi xứ khi chào nhau hay lễ bái đều cùng một cung cách chắp hai bàn tay ngang ngực để nhiếp tứ-đức và kính dâng, kính trao niềm an lạc vô biên.
Ngày nay, sự hiện hữu lạ lùng của mấy con trùng nhỏ nhoi Covid-19, lại có một sức tấn công vô hình mà mãnh liệt, làm các vị chánh trị gia hùng cường nhất thế giới, khi đưa tay để bắt tay nhau trong một tư thế quen thuộc của nền văn hóa Âu Tây, lại vội vã rút tay về rồi họ cùng chắp hai bàn tay trước ngực để chào nhau và cùng cười rộ lên những tiếng cười hoan lạc, mỹ miều, khoan khoái, từ xưa nay chưa từng có. Hay thay! Một khoảnh khắc trở về chân lý.
Nếu tất cả đều noi theo tinh thần khoảnh khắc chân lý đó thì cõi thế gian nầy không là Tịnh độ hay sao? Vậy muốn nắm bắt điều chân lý tuyệt vời đó, hãy nhìn kỹ vào 10 ngón tay chắp lại đó xem chúng mang thông điệp gì trên từng ngón tay.

====================================================================

Image result for 1960s Street Saigon Girls

=========================

No comments:

Post a Comment