vừa khóc vừa cười
Nguyễn Mạnh Tường
Trong
một thiên anh hùng ca sáng tác vào khoảng thế kỷ thứ 11, thi sĩ tường thuật cuộc
chiến đấu anh dũng của hai anh hùng Roland và Olivier, chống lại kẻ thù chung.
Hai bạn chí thân giết được nhiều địch, nhưng hai người đều bị thương cả. Đặc biệt
Olivier, máu chẩy nhiều, hoa cả mắt không nhận thấy gì nữa. Khi Roland lại gần
để giúp bạn, Olivier tưởng nhầm là kẻ thù, bổ mấy nhát dao xuống, may không
trúng đầu Roland. Anh này liền dịu dàng lên tiếng: “Tôi là Roland đấy mà. Sao
anh đánh tôi?”. Olivier xin lỗi bạn: “Mắt tôi hoa, không nhận ra anh nữa”.
Khi
châu Âu chuyển từ chế độ phong kiến sang chế độ tư sản, trong thế kỷ thứ 16,
Rabelais kể chuyện Badebec, vợ của Gargantua, vừa sinh con xong thì từ trần:
“Cái thắc mắc làm cho Gargantua rối trí là hắn không biết nên khóc vì vợ vừa chết,
hay nên cười vì con vừa sinh”.
Đến
cuối thế kỷ thứ XVIII, khi Cách mạng 1789 sắp bùng nổ, Figaro, một nhân vật của
Beaumarchais, sau khi kiểm điểm tình hình của một xã hội đã thủ tiêu hết mọi tự
do, kêu lên: “Tôi vội vàng cười khì để tránh khỏi khóc oà”. Như thế không đúng.
Phải khóc trên cái hiện thời để đón cái ngày mai. Dù sao, người trí thức là người
vừa khóc, vừa cười. Khóc vì các sai lầm phải chứng kiến trong hiện tại, cười vì
vui với cái mới đang đến. Khóc vì đau khổ. Cười vì hy vọng. Khóc hôm nay để cười
ngày mai. Trên quá trình từ cái khóc đến cái cười diễn cuộc đấu tranh tư tưởng
của người trí thức.
Người
nào chỉ biết hoặc khóc thôi, hoặc cười thôi, không phải là người trí thức.
Ta
ân cần với người trí thức ưa khóc. Ta phải chiếu cố, nâng đỡ người ta. Người ấy
đau khổ vì các thắc mắc căn bản và sâu sắc. Người ấy thành khẩn. Người ấy không
phải là thù, người ấy là bạn. Ta phải kiên trì, cố gắng đưa cái khóc của người
ta biến thành cái cười.
Ta
dè dặt, có khi ngần ngại, trước người trí thức ham cười. Ta hoan nghênh cái cười
chân thật, xuất phát từ đáy lòng, nẩy nở trên các giọt lệ vừa khô. Nhưng ta khó
chịu trước cái cười bình phong dùng để che đậy các thắc mắc bản thân mà mình
không muốn thù với mình. Ta ghét cái cười dùng để mị trên, lừa dưới, câu các kẻ
ngây thơ, biểu lộ một ý chí tôn sùng, hòng củng cố một địa vị, hay mưu cầu một
bổng lộc. Quần chúng cần đề cao cảnh giác để khỏi mắc mưu cái cười ấy. Cấp lãnh
đạo lại cần cảnh giác hơn nữa vì cái cười nịnh hót nuôi dưỡng bệnh chủ quan mà
cấp lãnh đạo thường mắc.
Cái
cười nguy hại này không nhất thiết biểu hiện bằng sự nhích môi. Nó có thể là
linh hồn của một cử chỉ, nội dung của một thái độ. Có người cười bằng cái đầu
nó gật, cái lưỡi nó tán thành, ủng hộ. Trong bao nhiêu “tả khuynh”*, tôi nghe thấy
vang tiếng cười ấy.
Tôi sợ người trí thức im lặng. Tôi
nghi ngờ người trí thức cười. Tôi thương người trí thức khóc. Tôi yêu người trí
thức vừa khóc, vừa cười, khóc hôm nay để cười ngày mai, “khóc lên tiếng cười”.
Tin vẫn hơn nghi.
Trong mười người ta tin, có thể có một kẻ thù lẻn vào. Nhưng ta vẫn còn chín
người bạn. Và chín người bạn này sẽ giúp ta tìm ra kẻ thù ấy. Nếu ta nghi cả mười
người, khi ta giơ tay, chẳng ai bắt tay ta. Ta không có một người bạn nào cả.
Đồng
ý rằng phải phân chia rõ rệt địch, ta. Nhưng ta phải xác định thái độ của ta đối
với địch. Địch mưu hại ta và thực sự gây cho ta nhiều tổn thiệt. Nhưng ta chớ
nên buộc cho nó trách nhiệm về các tai hoạ căn nguyên ở sự dốt nát, sai lầm, chủ
quan của ta. Theo danh từ khá phổ biến, “như thế không lợi”. Không lợi vì ta đề
cao địch, tỏ vẻ sợ địch. Không lợi nữa vì gán kết quả sai lầm của ta cho địch,
ta không sửa chữa được gì, không rút được bài học kinh nghiệm. Từ trước tới
nay, ta chỉ đặt vấn đề: ai là địch, ai là ta? Tôi đề nghị đặt thêm vấn đề: do địch
làm, do ta phạm. Điểm trên đề cao cảnh giác và cho phép ta đề phòng, hoặc đối
phó. Điểm dưới nêu cao tinh thần tự phê và giúp đỡ ta xây dựng.
Con
thỏ sợ đến cả bóng của nó. Con sư tử bất chấp mọi thú vật. Ta không phải là sư
tử và cũng không muốn là sư tử. Nhưng nhất định ta không phải là thỏ.
Kẻ
thù số một của trí thức: bọn chụp mũ. Kẻ thù số một của cấp lãnh đạo: các cán bộ
chuyên môn “cười”, và bọn vỗ ngực, và cả bọn chụp mũ nữa. Các cán bộ chuyên môn
“cười”, dựa vào bọn vỗ ngực trong quần chúng, ru ngủ cấp lãnh đạo. Bọn chụp mũ
nham hiểm hơn: họ gây thành kiến giữa lãnh đạo và quần chúng, họ vô tình hay hữu
ý xuyên tạc các nguyện vọng chính đáng, các yêu cầu hợp tình, hợp lý, hợp pháp
của quần chúng. Họ là Iago xúc xiểm Othello ghen vợ, ghét vợ, giết vợ. Bị bao
vây chặt chẽ như vậy, tài nào cấp lãnh đạo hiểu biết được sự thật của quần
chúng?
Có
một số người thấy phong trào quần chúng đòi hỏi, ở Đảng lãnh đạo, một chính
sách cho trí thức (với các tự do dân chủ và mối quan hệ tốt giữa chính trị và
chuyên môn) đã tỏ thái độ “khó chịu” và phản ứng mạnh. Họ nhắm mắt, lắc đầu,
chép miệng, thở dài. Không thực sự cầu thị, chưa điều tra nghiên cứu, chẳng tìm
hiểu sự thật, họ chỉ biết mang đao to, búa lớn ra doạ nạt, họ là Don Quichotte
cầm giáo tiến lên đâm cối xay, họ quên lý luận Cách mạng họ đã học tập. Họ là
nàng công chúa quên thời kỳ gặp Thạch Sanh trong hang.
“Tích tịch tình tang…” Tiếng đàn của Thạch Sanh có nhắc
lại được kỷ niệm cũ không? “Hỡi tuyệt thế giai nhân mà tôi yêu với mối tình vô
hạn, nàng còn nhớ thuở đôi ta gặp nhau trong hang đá không? Đôi ta quyết sống
chết có nhau, với nhau. Vì vậy ta thắng kẻ thù, ta sống. Bây giờ thời kỳ gian
lao đã qua, nàng trở về dinh thự huy hoàng, lên xe xuống ngựa. Nàng lỡ lòng nào
quên tình duyên cũ?”.
Tôi
muốn thân ái hỏi các bạn đang chép miệng thở dài: “Các bạn là những người cách
mạng. Thái độ của các bạn phản ứng, đối phó (tôi không nói đàn áp) trước một
phong trào quần chúng đông đảo, đòi hỏi, trên lập trường cách mạng, những quyền
lợi chân chính, thái độ ấy, phân tích, truy nguyên nó, ta thấy gì? Tôi run sợ
trước kết luận tôi phải tiến tới. Tôi ngừng bút. Tôi nhường lời cho tất cả người
cộng sản trên thế giới, trong đó có các đảng viên Đảng Lao động Việt Nam, có
các bạn, để các người ấy nhận định về thái độ nói trên, định danh cho nó, gọi
nó bằng tên cách mạng của nó. Để tránh khỏi mang tiếng chụp mũ cho các bạn, tôi
dành quyền phán định cho “giới có thẩm quyền”.
Tôi
chỉ xin nhắc lại rằng trong lịch sử cách mạng Liên Xô và Trung Quốc, có khi
giai đoạn kiến quốc tiến vào bước quyết liệt, chính thể cách mạng không thể nào
lãnh nhãn được vấn đề trí thức. Cuộc đấu tranh của trí thức Việt Nam hiện thời
xen vào khung khổ cách mạng, phối hợp với phong trào trí thức trên toàn thế giới.
Coi nhẹ nó là một sai lầm. Giải quyết nó một cách hời hơt, nông cạn, với tinh
thần của người nhớn cho kẹo trẻ con để nó khỏi khóc, là một sai lầm nghiêm trọng.
Đối phó với nó, chống lại nó… tôi không tiếp tục vì tôi tin rằng không một
chính thể cách mạng nào lại hành động như vậy. Bằng chứng là báo Nhân dân trong
số 30-9-56 vừa đăng bài của đồng chí Lục Định Nhất đọc ngày 26-5-1956, với sự
chậm trễ có 4 tháng thôi. Từ Bắc Kinh tới Hà Nội, đường dài hơn năm nghìn cây số,
tốc độ của sự thật như thế là nhanh rồi. Còn báo cáo của đồng chí Chu Ân Lai in
từ ngày 30-1-1956, tôi không nhớ đăng báo Nhân dân ngày nào. Dù sao, các bạn thấy
rõ là, Đảng Lao động Việt Nam coi trọng vấn đề, như Trung Quốc từ đầu năm nay,
như Liên Xô từ năm 1936. Đảng lại còn phát động tinh thần dân chủ trong quần
chúng trong các giới, các cơ quan, và sở dĩ làm như vậy là để thắt chặt liên lạc
với quần chúng, đi sát với sự thật của quần chúng, trưng cầu ý nguyện của quần chúng
để xây dựng chính sách, lãnh đạo có kết quả. Vậy tại sao các bạn lại chép miệng
thở dài? lại xuyên tạc ý nghĩa trọng đại, lịch sử của một phong trào quần
chúng, mà chính Đảng phát động? Thế các bạn đấu tranh cho ai, phục vụ cái gì?
Chủ trương của Đảng phát huy dân chủ là một sáng kiến mà toàn dân hoan nghênh.
Hạt đã gieo, bây giờ sắp đến lúc gặt hái. Cớ sao các bạn lại muốn truất quyền của
Đảng gặt hái cái mùa màng mà Đảng đã gieo hạt?
Nhưng tôi hiểu các bạn. Các bạn là những người tốt. Chẳng
qua các bạn chỉ nặng về một số thành kiến mà thôi. Tuy nhiên, các bạn thật sự cầu
thị: các bạn cho phép tôi tin như vậy. Phải không, các bạn? 4-10-56
In lần đầu trên Giai Phẩm mùa thu – tập III
*Ghi chú của blogger: dưới chế độ CS, tả khuynh trong đoạn thứ 7 chỉ có nghĩa
là khác với quan điểm chính thức của nà nước, một cách tổng quát hay một chính sách nào đó. Tả khuynh,
ngoài thế giới CS, thường được hiểu là chủ trương chống với xã hội cũ đầy bảo
thủ. Tả khuynh hữu khuynh ra đời từ thời cách mạng Pháp 1789; những ngày
kế cận cách mạng, tại các buổi nhóm họp, các Etats Generaux (tạm gọi là bô lão,
thân hào nhân sĩ) chủ trương thay đổi, bình đẳng v.v… ngồi bên phía trái; bên
phía phải chủ trương giữ nguyên chế độ quân chủ.
No comments:
Post a Comment