về bến nhà, tranh Winslow Homer 1890
sáng đôi mắt... mù!
sáng đôi mắt... mù!
Tràm Cà Mau
Con người cần điều
gì? - cần đôi mắt sáng, cần có ánh sáng. Đôi mắt và ánh sáng như là phương tiện
cho cuộc sống mỗi con người để phân biệt hình dạng, màu sắc, . Nhưng
người có đôi mắt sáng, mà miệng không dám nói lên "sự
thật", cam chịu sống trong giả dối, lừa đảo, thì nào khác kẻ
mù! Không dám phân biệt trắng đen, phải trái!
Dạo đó, khi cả miền
Nam đang bấn loạn lên, vì cuộc chiến tranh mấy mươi năm sắp đến hồi kết cuộc. Bắc
quân hồ hởi tiến mau như chẻ tre. Nam quân rút bỏ, tan rả mau chóng. Những người
không am hiểu tình hình chính trị quốc tế thì ngỡ ngàng, ngạc nhiên, không tin
được về sự thực đang xẫy ra trên đất nước nầy.
Dân miền
Nam đua nhau bỏ chạy ra biển, chưa biết sẽ trôi nổi về đâu, cũng chưa biết sẽ
đi nơi nào, làm gì mà sống, sống có được hay không. Không cần biết. Cứ chạy trốn
đã. Những người nầy, đã có một ít hiểu biết hoặc kinh nghiệm sống với cộng sản,
nên liều chết ra khơi. Mấy cụ già miền Nam vuốt râu nói: “Cộng sản cũng là
người Việt Nam mình với nhau, việc chi mà sợ? Cọp nó còn chưa ăn con, huống hồ
chi họ với mình cùng tổ tiên, cùng giòng giống. Miền Bắc hay miền Nam đều là
anh em với nhau cả mà. Chạy đi đâu làm chi cho mệt.”
Những người trong
chính quyền miền Bắc chắc cũng không hiểu nổi, tại sao nhân dân miền Nam sắp được
“giải phóng”, sắp được sung sướng, sao mà lại bỏ chạy. E rằng, họ bị Mỹ Ngụy
tuyên truyền đầu độc, nên dại dột dong thuyền ra khơi. Họ cho rằng, những người
bỏ trốn họ, là loại trây lười, sợ lao động, sợ khổ.
Trong những ngày cuối
cùng của cuộc chiến tranh sắp tàn. Bạn của Tâm hối hả đến tận nhà lo lắng nói:
“Anh
sửa soạn hai bộ áo quần. Đem theo một ít thức ăn khô, một chai nước. Tôi đã ghi
danh cho anh được xuống xà lan ở Tân Cảng, và sẽ được kéo ra khơi hôm nay hoặc
ngày mai.”
Tâm
trầm ngâm:
“Không
đi đâu cả. Tôi sinh ra trên quê hương nầy, và sẽ sống và chết với quê hương.”
“Anh
chấp nhận sống với cộng sản?”
“Anh
chưa hiểu ý tôi. Nếu phải chọn tự do và cộng sản, thì tôi sẽ chiến đấu để bảo vệ
một chính thể tự do. Nhưng nếu phải chọn quê hương và một nơi vô định khác, thì
tôi chọn quê hương. Đất nước mình đã chịu chiến tranh tàn phá ba mươi năm nay.
Tan tác, đổ vở quá nhiều. Bây giờ là lúc toàn dân cần góp tay xậy dựng lại quê
hương thân yêu của chúng ta. Tôi đã chuẩn bị tinh thần rồi. Chấp nhận đi tù
vài, ba năm, nếu phải đi đập đá Trường Sơn, thì đá đó cũng để xây dựng đường sá
và nhà cửa cho quê hương nầy. Đi ra ngoài, dù có làm được gì, thì cũng là làm
cho người ta. Tôi chấp nhận mọi gian khổ để đổi lấy cuộc sống còn có quê
hương.”
Người
bạn nhìn Tâm với ánh mắt u buồn:
“Tôi
ước mong sao ý nghĩ của anh là đúng, và sau nầy không ân hận”
Tâm
quả quyết:
“Tôi
sẽ không bao giờ ân hận với chọn lựa nầy. Tôi chọn quê hương.”
Nửa tháng sau ngày
miền Bắc thắng trận, một ông chú của Tâm, là cán bộ có vai vế, từ Hà Nội vào tiếp
thu Sài gòn. Ông ghé lại nhà thăm. Ông nầy đã hăng hái tham gia cuộc kháng chiến
từ thời khởi đầu năm 1945. Trong tình thân gia đình, ông bực bội hỏi:
“Sao
không bỏ chạy, mà giờ nầy còn ở đây? Thế thì khổ đời anh rồi.”
Tâm
ngỡ ngàng, nhưng cũng quả quyết nói:
“Cháu
ở lại, để góp một tay xây dựng lại quê hương đổ vở. Chỉ mong làm một hạt cát nhỏ
trong công cuộc tái thiết đất nước nầy”
Ông
chú cười buồn mà nói:
“Ai
cho anh xây dựng mà hòng? Anh tưởng dễ lắm sao.
“Cháu
không hiểu hết ý của chúRồi anh sẽ hiểu. Anh phải “kinh qua” mới thấm và hiểu.
Chưa thực sự sống trong chế độ, thì dù cho có đọc ngàn cuốn sách, anh cũng còn
mơ hồ và đầy ảo vọng.”
Tâm
mạnh dạn nói mà không sợ ông chú buồn lòng:
“Nếu
cháu không lầm, thì chú cũng đang là một rường cột của chế độ nầy. Với cái vai
vế của chú, thì chú cũng có thể tạo điều kiện cho những người yêu mến quê hương
nầy có cơ hội phục vụ đất nước. Quê hương nầy là của chung, gia sản của tổ tiên
nhiều đời gây dựng lại, không của riêng ai, không của riêng đảng phái nào.”
Ông
chú cười, ánh mắt có vẻ thương xót người cháu, ông nói:
“Không.
Anh nói vậy là chưa hiểu chi về xã hội chủ nghĩa cả. Chú cũng chỉ là một bánh
xe trong guồng máy đang vận hành. Bánh xe nào không hoàn toàn ăn khớp, thì bị
loại ra ngay. Bị vứt bỏ không thương tiếc. Bị chà đạp, bị hành hạ, sống không
được, chết không xong. Anh không có quyền yêu mến quê hương theo tâm ý của anh.
Phải yêu theo lối của người khác vạch ra, hoàn toàn đi trong đường lối đó, nếu
anh muốn sống còn. Tôi xin anh, đừng có nói cái giọng điệu quê hương là gia sản
chung cho ai khác nghe, mà không có lợi cho bản thân anh.”
Tâm
thở dài. Một lúc sau ông chú nói tiếp:
“Điều
cần thiết nhất chú dặn anh, là đừng có dại mà thành thật khai báo lý lịch và tội
lỗi của mình. Anh đã ở miền Nam, thì dù anh có làm gì, hay không làm gì, cũng
có tội với cách mạng cả. Phải tự nhận là có tội, và chỉ nhận những tội khơi
khơi thôi. Chuẩn bị một bản lý lịch cá nhân. Cái gì không lợi thì đừng khai.
Cái gì giấu được thì giấu. Viết càng ngắn, gọn, rõ ràng càng tốt. Khai cho y hệt
nhau, đừng sai chạy. Đó, chú chỉ giúp anh được chừng ấy thôi, anh nhớ cứ làm
theo, thì bớt được vận hạn khó khăn.”
Tâm
chấp nhận đi tù cải tạo với sự bình tĩnh, không chút lo lắng buồn phiền. Anh đã
chuẩn bị trước, và đây là chuyện phải đến. Tâm cũng không có ảo vọng đi “học tập”
một tháng hay hai tuần như thông cáo do chính quyền phổ biến. Nhưng Tâm vẫn
mong rằng, anh nghĩ sai. Anh đã chuẩn bị cho một cuộc đời tù tội lâu dài. Mang
theo những vật dụng thật bền, chắc chắn. Những tuần đầu trong trại cải tạo, Tâm
thấy bạn bè xài phí những vật dụng mang theo, anh nói với các bạn trong một buổi
họp tổ:
“Các
anh nên tiêu xài tiết kiệm lại một chút. Đâu đã chắc một tháng là được về
ngay!”
Các
bạn anh nhao nhao phản đối:
“Cánh
mạng trước sau như một. Anh không tin tưởng chính sách của cách mạng sao? Anh
còn tư tưởng lạc hậu lắm. Cách mạng nói một tháng, là một tháng, không sai chậy
đâu.”
Thấy
tất cả bạn bè đều phản đối dữ dội, và nếu cán bộ quản giáo biết được, hay có
người báo cáo thì bất lợi cho bản thân, Tâm vội vàng cười giả lả:
“Thôi
mà, tôi nói chơi cho vui, mà làm anh em sợ. Nói đùa, anh em bỏ qua đi.”
“Đùa
làm đứng tim người ta. Cách mạng không bao giờ nói sai cả.”
Tâm
biết anh em sợ, không dám nghe nói sự thực. Muốn nuôi ảo tưởng là một tháng sẽ
được tha về, nên phản đối lời khuyên của Tâm.
Sau
ba tuần mà chưa thấy “bài vở và học tập” chi cả. Đám tù lao nhao tiên đoán rằng,
cách mạng sẽ khoan hồng cho về, mà không cần học tập lôi thôi. Đoán rằng, họ sẽ
phát tài liệu cho anh em đọc, vì ai cũng đã có trình độ học vấn khá, không cần
phải giảng dạy. Tâm chỉ cười, và mong sao cái mơ ước hão huyền của anh em đúng
sự thực, chứ trong lòng Tâm, không hề có ảo tưởng nào. Nhiều đêm, khi chín giờ,
đèn điện tắt, có tiếng tắc kè kêu vang dội rất rõ trên đồi cao: “Tắc kè. Tắc
kè.” Anh em diễn dịch ra là có điềm tốt thông báo, nên tắc kè kêu là “Sắp về. Sắp
về.” Có nhiều anh loan tin rằng, mấy đêm nay xem thiên văn, thấy nhiều sao chiếu
đồng quy về hướng Sài gòn, bởi vậy, anh em cũng sắp được tha về nay mai.
Nhiều
tháng sau vẫn chưa được tha về, mà thời gian tù không xác định. Tiếng tắc kè được
diễn dịch lại là “Đếch về. Đếch về.”
Một
người bạn nói với Tâm:
“Cán
bộ luôn luôn nhắc nhở là “yên tâm cải tạo”, làm sao mà yên tâm, khi gia đình
còn lắm việc bộn bề, vợ con không biết sinh sống ra làm sao, ngày ra trại chưa
được xác định. Thì làm sao mà yên tâm cải tạo được?”
Tâm
cười và trả lời:
“Yên
tâm cải tạo. Đúng. Mấy ông cán bộ nói đúng. Yên tâm đi, ngày về còn xa lắm lắm.
Đừng nôn nóng, vô ích. Không yên tâm, thì cũng không được gì. Bận lòng thêm khổ.
Chúng ta bị mắc bẫy rồi, cứ đừng hy vọng, đừng mong ước gì cả. Yên lòng. Nếu có
một ngày nào đó, được kêu tên cho ra về, thì sung sướng lắm. Nếu chưa được về,
cũng đừng mong. Có mong là có bồn chồn, có khổ tâm. Hãy yên tâm đi, yên tâm cải
tạo”
Mấy người bạn Tâm
bây giờ đã bớt ảo tưởng, nhưng vẫn chưa tắt niềm hy vọng. Họ thường tỏ vẻ bực bội
khi nghe các bạn khác đọc các câu thơ:
Bao giờ cọc sắt nở hoa.
Bà Đen hết đá thì ta mới về.
hoặc
Khi
đi vợ mới mang bầu.
Ngày
về con đã bạc đầu như cha.
Nhờ
lời khuyên của ông chú đã từng kinh qua dày dạn trong chế độ, là đừng dại dột
thành thật khai báo, nên Tâm được tha tù, về nhà sớm hơn bạn bè cùng trang lứa,
cũng mất hơn ba năm, gần với thời gian anh đã tiên đoán và chấp nhận.
Trong thời gian nầy,
tình hình lương thực vô cùng khó khăn. Cả nước đều đói vàng mắt, nhà nhà ăn độn
khoai sắn, bo bo, mì sợi. Bụng dạ mọi người khi nào cũng lưng lửng, nhột nhạt,
có kiến bò. Miệng thì luôn thòm thèm. Đời sống thường ngày vô cùng khó khăn. Ít
còn ai đủ dại để tin tưởng vào tương lai tươi sáng hạnh phúc. Không biết ai
bày, mà bọn trẻ con hàng xóm thường ngêu ngao hát bài ca sửa lời: “…tổ quốc ơi,
ăn khoai mì ngán quá, kể từ giải phóng vô đây, ta ăn độn dài dài, kê từ giải
phóng vô đây, ta ăn độn toàn khoai…”
Một lần nghe cuộc
bàn cãi giữa hai ông cậu, ông cậu nhỏ là người đi tập kết ở miền Bắc về, nói với
ông cậu lớn tuổi rằng:
“Anh
chưa ‘giác ngộ cánh mạng’ thì anh đừng nói, đừng bàn luận về xã hội chủ nghĩa.
Phê bình mà chưa biết rõ bản chất, thì đừng nên nói, không có lợi cho anh và
gia đình.”
Ông
cậu lớn tức tối nói:
“Làm
sao mà tôi giác ngộ cách mạng của các người được? Còn bản chất của xã hội chủ
nghĩa, không nói ra, ai cũng biết là cái gì rồi.”
“Anh
có biết giác ngộ cách mạng là gì không? Giác ngộ nghĩa là biết rõ, biết đến nơi
đến chốn, không phải biết lơ mơ như các anh. Biết cái gì? Biết cách mạng vô
cùng nghiêm khắc, tàn bạo, không khoan nhượng. Nghĩa là biết sợ cách mạng trù dập,
sợ bị thanh toán, thủ tiêu, sợ bị giam đói, bị bao vây kinh tế, bao vây tình cảm.
Tóm lại, giác ngộ cách mạng là biết sợ cách mạng, sợ vô cùng, không dám hó hé
chi cả. Cách mạng nói sao, mình nghe vậy, nói theo y như vậy, đừng sai chạy mảy
may, đừng để cái lý trí phán đoán sai đúng xen vào. Người giác ngộ cách mạng sẽ
dễ sống, dễ thở, và an toàn hơn trong cái xã hội chủ nghĩa.”
Ông
cậu lớn nói với giọng chán nản:
“Thế
thì giác ngộ cách mạng là phải biết hèn nhát, nói như vẹt, mềm như bún. Không kể
gì đến sĩ khí, nhân cách nữa sao?”
Ông
cậu ‘cách mạng’ trả lời:
“Hừ,
sĩ khí và nhân cách để làm gì nếu cái bao tử trống không, đói khát hành hạ, vợ
con nheo nhóc, xóm giềng xa lánh, hất hủi mình vì sợ liên lụy?”
Ngừng
một lát, ông nầy nói tiếp:
“Thời
nầy, tốt nhất là bịt tai, nhắm mắt mà sống. Đừng bao giờ nói ý nghĩ trung thực
của mình cho ai nghe. Có lẽ, tốt hơn hết là đừng có ý kiến chi khác với mọi người.
Ai sao mình vậy. Đúng hay sai, thật hay giả, không cần biết đến làm chi. Đó là
thái độ khôn ngoan nhất.”
Ông
cậu lớn tuổi lắc đầu:
“Không
được. Phải can đảm nhìn thẳng vào sự thật, và đừng tự dối lòng để giả tin vào lời
lừa mị láo khoét. Nếu ai cũng dám nhìn thẳng vào sự thực, nói lên sự thực, thì
bọn dối trá sẽ không còn đất sống, và không còn cơ hội ức hiếp, áp bức kẻ hiền
lương. Người miền Bắc và miền Trung khôn ngoan quá, cẩn trọng quá, nên gắng nhịn
nhục để sống còn, bởi vậy nên bị ức chế, bị chà đạp, bị dày xéo, không còn thể
thống chi cả. Chú ra ngoài chợ Sài gòn mà xem, hay chú lên xe đò mà nghe các bà
chửi cho nát mặt, nát mày, có dám bỏ tù hết cả nhân dân miền Nam nầy không? Ban
đầu, các anh ‘cách mạng’ cũng hung hăng, doạ dẫm, định áp đặt chính sách cai trị
hà khắc như cai trị dân miền Bắc lên vùng đất nầy. Nhưng không ai sợ cả, không
ai hùa theo lời nói láo khoét. Mấy anh bị hố. Dân miền Nam không hèn nhát đâu.”
Ông cậu ‘cách mạng’
hạ thấp giọng:
“Nhân
dân miền Nam nầy ăn nói phản động, không có lợi lộc gì cả, mà lại hại đến bản
thân, gia đình. Nói lời phản động, để được cái gì chứ? Anh tưởng chúng tôi đều
ngu muội, mù quáng cả, không nhìn thấy và phân biệt được sự thực và dối trá
sao? Sống theo nếp sống mới thì phải biết ‘nói điều mình không tin, và tin điều
mình không dám nói’ Đó là thái độ khôn ngoan, thức thời.”
Mỗi ngày từ sáng
tinh mơ, loa đã oang oang kêu gọi dân chúng sống theo nếp sống văn minh. Tâm
không biết nếp sống văn minh của xã hội chủ nghĩa ra làm sao, đem hỏi ông một
ông chú ‘cách mạng’ khác. Ông hạ giọng thầm thì:
“Cái
gì người ta thiếu, thì nói nhiều đến cái đó. Văn minh bây giờ là xe chạy bằng
than củi, ăn cơm độn khoai sắn, xới vườn hoa trồng rau khoai rau dền, nuôi heo
trên tầng lầu chung cư, áo quần xám xịt một màu, ăn nói một lời giống nhau y hệt.
Văn minh mà nhà nước ta đang nhắm đến là làm sao cho miền Nam tiến kịp miền Bắc
trong tiêu chuẩn … nghèo đói.”
Tâm
cười: “Các ông bà con đi tập kết về khuyên đừng ăn nói phản động. Thế mà lời của
chú, nghe ra còn phản động hơn ai hết. Thế thì hai mươi mấy năm đi theo cách mạng,
chú đã làm được công trạng gì trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa?”
Nét
mặt ông chú có vẻ tức tối: “Công trạng cái con khỉ. Vì chú không biết a dua,
không hèn nhát nói theo lời lếu láo dối trá của bọn chúng, nên chú bị bao vây,
bị cô lập, bị bỏ đói trong hai mươi năm tập kết ra Nghệ An. Chú kiếm sống bằng
nghề ‘hớt tóc chui’. Cả nước đã đói cho vàng mắt ra, gia đình chú còn đói hơn
ai cả. Con cái không được nhận vào trường, thất học cả đám. Chẳng bị tù rục
xương là may mắn lắm rồi cháu à.”
“Thế
thì xin chú cho cháu một lời khuyên, để sống còn trong xã hội mới nầy.
Ông
chú lắc đầu: “Không còn cách nào để cho các thành phần như cháu sống còn cả.
Ngoại trừ… ngoại trừ bỏ nước ra đi. Chỉ có con đường đó thôi.”
Một năm sau, Tâm đến
được bến bờ tự do sau bao lần suýt bỏ mạng trên biển cả. –
hải tặc
thừa giấy vẽ voi ttt
Tối
qua, sau khi đọc truyện “có hậu” nầy của Tràm Cà Mau, tôi nghe khúc nhạc quen: Unfinished
Symphony. Bỗng nhiên, tôi nghĩ đến một bài hát của cùng “vua giai điệu” Schubert: The Wrong Hotel. Đơn giản:
một người say rượu đi vào một khách sạn sang trọng trọ qua đêm. Thức giấc lúc trời sáng thì thấy mình ngủ trong một nhà
mồ giữa một nghĩa địa rộng lớn với rất nhiều nấm mồ có mái. Tĩnh rượu rồi mà,
nên anh biết mình đã vô một “Wrong hotel”. Lại chuyện “wrong hotel” thiệt. Cách
đây chừng 10 năm, người ta thấy một thiếu nữ lay cửa sắt của một tòa thị chính
Pháp đòi đi ra. Số là trời hè còn sáng nhưng đã gần giờ đóng cửa; người đẹp của
chúng ta là một du khách không rành tiếng Pháp, thấy bản hiệu “hotel de ville”,
tưởng là một hotel nên đi vào nhà vệ sinh ở tiền sãnh (lobby). Trong lúc ấy người
gát gian khóa cửa mà về.
Hai
lần nhầm lẫn nầy giúp chúng ta dễ thấy
thêm thứ “wrong hotel” mà Tràm Cà Mau đang cố diễn tả. Cả một miền Nam say rượu
đang đui (DUI, driving under influence), hiểu ngôn từ theo bụng ta mà không hiểu
bụng người …đã vào những khách sạn thời mới, mỗi nơi một kiểu. Khách sạn của
nhân vật Tâm mang tên “Tắc kè, tắc kè” [sắp về, sắp về, đếch về, đếch về].
Ở một khách sạn khác,
Mỗi
buổi sáng loa dựng đầu em dậy,
cho
em một lời ngọt mà quên đi
thời
cách mạng khô, chẳng có cả ngô khoai.
Em thức sớm bới xách thăm chồng trong rú
và em thấy những vòng concertina sét đỏ
quấn nghẹt đời hàng vạn sinh linh.
Em thức sớm bới xách thăm chồng trong rú
và em thấy những vòng concertina sét đỏ
quấn nghẹt đời hàng vạn sinh linh.
Bức
màn sắt hay màn tre kín quá; phía Nam cứ nghĩ phía Bắc đâu đến nỗi tệ, vì không
bị ép trong một khung suy nghĩ nào, nên có ai nói chi thì cứ cho là “chiến
tranh chính trị, mồm mép thế chân tay”. Cứ nghĩ như ông Khổng, nhân chi sơ tánh
bản thiện; thực tế miền Nam “a á ớ dắc vợ đi chơi”, mà ngoài Bắc thì “tam tự
kinh rình cơm nguội”; hai câu đùa ấy chính là sự học và sự sống đôi bên. Nếu một
bên tỏ ra thật chân tình như Chữ Đồng Tử, lịch sử đã sẽ chứng kiến một cuộc
tình đẹp; nhưng, bất hạnh, đã không như thế; người những tưởng tem phiếu năm
xăng ti mét vải đủ may quần là áo lược dạo phố Sài Gòn.
May
cho Tâm có vài thân nhân không chịu suy nghĩ như điều Lê Diễn Đức viết, cả một
xã hội chịu điều khiển như HCM gõ lon ton cái lon gọi những con cá dưới hồ ngóc
đầu lên nghe lệnh. Họ giúp cháu nhìn sớm hơn để thoát nhanh. “Các anh phải
thành thật, chớ, chúng tôi bấm cái com pu tơ TổngTham Mưu ra là biết anh nào giết
mấy VC, giết bằng súng hay bằng dao. Các anh phải khai biết tiếng Anh để CM biết
mà đưa đến các cơ quan cần đến; các anh phải kê rõ tên tổ tiên ba đời, chứ
không phải là loại vô gia đình mà các anh đã nói xấu cho CM là tam vô”. (Biết
tiếng Anh là có liên lạc với Mỵ, biết tên ông bà không phải là nông dân). Cách
thức phân loại nầy tương đối nhân đạo hơn người anh em Khmer Rouge của Pol Pot,
đồng môn của HCM dưới trướng của Mao. A lê, trèo lên cây. Không trèo được là
dân trí thức, thành phố đem ra bùm ngay tại chỗ. Hai anh lính gát cỗng Cục An
Ninh Quân Đội, một anh khai là lính canh được cho đi học ba ngày; một anh khai
rất đúng sơ đồ tổ chức là an ninh ngoại vi thì mạt kiếp ở thượng du BV vì làm
tình báo quốc tế.
Tình
cờ ba hôm trước tôi học thêm một chữ rất mơ hồ cả trăm năm nay chưa có một nội
dung được đồng ý chung. Pataphysic, làm biếng, rút gọn từ patametaphysic, siêu
siêu hình, nói thiệt đa, tui sẽ đưa link cho xem. E tui sẽ vô hội những nhà triết-triết
học nầy mà lấy cờ thắng cho nước Nam. Bọn cải tạo rất bố láo, nghe bộ đội nói
những điều pataphysic thì dám nói để giải sầu sau những buổi nói dai, nói dài,
nói dốt. Pataphysic chớ bộ. Lấy ống tre lên núi Ba Vì xọt xuống đất, dầu chảy
bán không kịp cho Mỹ. Ná thun bắn hạ B52. 18 viên đạn bắn vô mắt mà vẫn đủ sức
tiến lên giết cả chục thằng địch. Cả ngàn chuyện anh hùng có dư. Đã viết vào sách
giáo khoa dạy ở các trường.
Mà
nầy, mấy anh ngụy theo hơi mà làm pata thì chỉ có chết thôi. Không được vẽ bác
Hồ ngó nghiêng, thất lễ. Có anh đại úy lên sân khấu trả bài: sau khi học tập
tốt, chúng tôi sẽ cùng CM đi giải phóng cả thế giới. U chu choa, bốn cái nón cối
một lần nhảy lên nắm đầu kéo xuống. Chính trị viên nghiêm nghị huấn thị: không
được có cái suy nghĩ đó, coi chừng biệt giam. Chúng tôi mới đi làm CM thế giới,
các anh là cái quái gì, đã đeo chân đế quốc mà dám nói thế”.
Muốn
đem thân làm bia đỡ đạn mà cũng không được, huống gì muốn làm bộ trưởng như vô
số người ước mơ. Lại nghĩ đến Arthur Koestler, con người là số không, chữ “nhân ngã” là một ảo tưởng văn phạm, là zero; nhà nước là cực đại.
Không
còn gì nữa, ta chẳng là gì, người chẳng là chi thì chỉ có đi, trốn thoát mà thôi. Tam thập lục kế, tẩu
nhi thượng sách. Người lính cũ tên Tâm lần nầy không vào trọ một 'wrong hotel' mà
đến một vườn cây bóng mát; như xưa kia Kha Luân Bố đến bờ thì quỳ xuống hôn đất
và cảm ơn các Đấng linh thiêng đã phù hộ.
No comments:
Post a Comment