PG đến với Tây Phương
A
BUDDHIST ANTHOLOGY
Manas
Journal, May 11, 1983*** TTT dịch
Ít nhất trong hai thế kỷ vừa qua, các học giả Tây Phương – cùng những giới khác như là kẻ đi xâm chiến, hành chánh gia, doanh nhân, và giáo sĩ – đã xem xét hay nghiên cứu các tôn giáo Đông Phương, và dần dần biết thêm vấn đề nầy nhiều hơn trong mấy chục năm rồi. Ngày nay (1983), người Tây Phương có thể đọc những điều học giả Đông Phương nhận định về tôn giáo Tây Phương có suy nghĩ sâu sắc và nghiên cứu đầy đủ, không hời hợt.
Minh
chứng điều nầy, chúng ta có thể dùng công trình của Sarvepalli Radhakrishman,
người trong nhiều năm đứng đầu chi vụ tôn giáo và triết học Đông Phương của đại
học Oxford, những bài viết về triết học Ấn Độ được nhiều người dùng làm tham khảo
nghiên cứu. Khi Ấn độc lập ông làm đại sứ tại Nga rồi về nước làm phó tổng thống.
Trong
một bài thuyết trình ở đại học McGill (xuất bản dưới nhan đề Đông và Tây,
1956) ông nói:
“Không
một dân tộc nào, một nhóm người nào, được độc quyền phát triển nền văn minh
nhân loại. Chúng ta phải công nhận và hoan nghênh những thành quả của mọi quốc
gia để tiến đến tình huynh đệ phổ quát. Đặc biệt trong vấn đề tôn giáo, chúng
ta phải tìm hiểu sâu rộng công trình của các hiền giả của các nước khác, của
các thời đại khác nhau.
Hòa
bình không phải đơn thuần là không có chiến tranh. Hòa bình là một cảm thức
tương ái mạnh mẽ, là sự ghi nhận chân thành các ý nghĩa và giá trị của kẻ khác.
Chúng
ta không những muốn có sự ngồi chung Đông Tây mà còn cần có sự gặp gỡ tinh thần
của đôi bên và sự hòa nhịp thương mến.”
Khi
những dòng nầy được viết ra ba mươi năm trước, thế giới chỉ có chút ít hòa
bình. Ngày ngày báo chí đầy rẫy tin tức chiến tranh lớn, chiến tranh nhỏ, xung
đột, đe dọa.
Tuy
nhiên, ở một mức độ khác trong mối giao tiếp người và người, một sự gặp gỡ giữa
các tư tưởng và hòa đồng tình thương đã bắt đầu, vào lúc (Tây phương) đang mất ảnh
hưởng của các tôn giáo truyền thống của tiền nhân. Nói khác, đã có thời gian
thuận lợi để làm tái sinh những suy tư về tôn giáo-triết lý.
Sự
đóng góp lớn lao cho việc thay đổi Tây Phương là Phật Giáo (Zen) ở Mỹ Châu và Âu
Châu, đặc biệt ở Mỹ. Mức độ ảnh hưởng đã được lượng định bởi Thomas Merton, một
giáo sĩ TCG La Mã ít hôm trước khi ông chết vì tai nạn. Ông nói: Zen và TCG là
tương lai. Câu nầy được trích dẫn bởi Frederick Franck trong The Buddha Eye
(NXB Crossroad, 1982).
Tuyển
chọn và hiệu đính bởi Planck, tuyển tập nầy gồm các bài nghiên cứu của
Nhật thuộc trường phái tư tưởng Kyoto, chủ xướng sự gặp gỡ Đông Tây vượt trên
những dị biệt. Các triết gia xứ Phù Tang đã thông suốt văn chương triết lý Tây
Phương và thường nêu các sự song hành giữa triết học Âu Châu và giáo lý PG.
Bàn
về điều gọi là “ý nghĩa lịch sử” của PG, Nishtani Keiji đề cập sự khác biệt giữa
các phong trào chính trị ý thức hệ và mục tiêu của PG. Ông nói:
“Dĩ
nhiên, “chuyển hóa xã hội” không bao hàm rằng PG có một lý thuyết xã hội riêng cho
chính mình hay đề xướng cách mạng xã hội, vì lẽ PG không phải là “một phong trào
chính trị”. PG làm chuyển hóa sâu rộng nội tâm và giúp phát triển con người căn
bản thăng hoa đến chỗ đẹp nhất như hoa nở chưa từng thấy. Nói gọn, PG tác động
như một nguyên động lực trong xã hội bằng cách cống hiến những phương cách để con
người tự chuyển hóa đến chỗ tốt đẹp. Như vậy, PG đã gây một ảnh hưởng sâu đậm,
tuy bên ngoài trông như một ảnh hưởng gián tiếp”.
Trong
lần phát biểu ý kiến tại New York năm 1949, học giả Hồ Thích, lúc ấy là đại sứ
Trung Hoa Dân Quốc ở HK, nói rằng:
“một
sự kiện lịch sử ai cũng biết là Ấn Độ đã xâm chiếm và thống trị nước Tàu về văn
hóa hai mươi thế kỷ rồi mà không cần phải đưa một người lính qua biên giới. cuộc
chinh phục nầy không do Ấn Độ áp đặt trên đầu lân quốc. Nhưng đó là hệ quả do
phía người Tàu đã tình nguyện tìm tòi, tình nguyện học, tình nguyện hành hương
và tình nguyện chấp nhận.
"Lời
giải thích chính đáng là PG đã thỏa mãn những nhu cầu mà người Tàu lúc ấy cảm
nhận rõ rệt là cấp thiết. Trung Hoa cổ đại chỉ có quan niệm đơn giản về sự đền
bù từ hành vi thiện ác nhưng Ấn đã cho chúng tôi quan niệm về nghiệp, tức là
quan niệm nhân quả xuyên qua sự hiện hữu quá khứ, hiện tại và tương lai”.
Hồ Thích
Trong
việc nầy, chẳng có một quan niệm siêu hình trừu tượng nào: ai dùng bạo lực sẽ
khổ đau vì bạo lực. Không có một người theo PG chân chính mà tham gia hay dấy
lên chiến tranh. Gandhi chính là một Phật giáo đồ, ông đã tái tạo sự kính nễ
dành cho Ấn Độ, làm hãnh diện những đứa con của tổ quốc Ấn.
Trở
lại triết gia Nishitani Keiji nêu trên, ông nói thêm:
“Ngày
nay người ta có khuynh hướng cho rằng chuyển hóa xã hội là một chuyện, chuyển
hóa con người là chuyện khác; và phải chuyển hóa xã hội trước. Nhưng trong thực
tế, hai việc nầy không thể tách rời một cách đơn giản như thế. Nhiều người tiến
bộ ở Nhật quả quyết rằng cuộc khủng hoảng hiện nay từ bom nguyên tử là kết quả
của chủ nghĩa tư bản tân thời, hay độc quyền tư bản đế quốc; những chủ trương ấy
đã ngăng chận diễn biến tất nhiên của lịch sử. Theo các thành phần nầy, phương
cách duy nhất để giải quyết khủng hoảng nầy là cách mạng xã hội. Khủng hoảng nầy
không hoàn toàn một mình do chủ nghĩa tư bản; khư khư đòi cách mạng xã hội là tối
thượng và không còn gì hơn, chính điều đó đã góp phần lớn tạo ra khó khăn hiện
nay.
"Thủ
tướng Nga Malenkov tuyên bố vũ khí hạch nhân sẽ tiêu diệt khối tư bản lẫn khối
Xô Viết và nền văn minh nhân loại; sau đó ông bị mất chức. Tờ báo chính thức của
đảng Pravda chỉ trích rằng lời tuyên bố ấy hoàn toàn sai lạc về ý thức hệ. Lập
luận chính thức từ nay sẽ là: trong chiến tranh hạch nhân, chỉ có Tây Phương bị
tiêu diệt, và Liên Sô sống còn”.
Đã
nói đến mức đó thì còn chi là vấn đề chuyển hóa xã hội hầu giải quyết khủng hoảng
nguyên tử. Điều đó cũng cho thấy rõ sự khác biệt giữa sự chuyển hóa chính trị
và chuyển hóa con người. Nhưng khi hầu như không thể giải quyết những vấn đề quốc
tế, các xung đột nói chung, tại sao chúng ta không đi bằng đầu múi dây kia là sự
chuyển hóa con người.
Ngã
là đề tài chính xuyên qua tuyển tập nầy và trở thành đề tài thiết yếu trong
giai đoạn chuyển tiếp nầy. Ở Tây Phương, các điều tin tưởng cũ đã phai mờ hay
biến mất; các quan niệm khoa học đang bị soát xét lại bởi chính các nhà khoa học.
Không ai nắm được cái gì gọi là chắc nịch. Cho nên quan niệm sinh thành, diễn
biến nội tâm gây nhiều chú ý ở Tây Phương.
Triết
gia Abe Masao đã giảng một bài kệ đại thừa, tóm lược như sau.
Câu
một và câu hai nói về niềm vui được sinh làm kiếp người sau bao đợt luân hồi.
Câu ba và bốn tri ân về cơ duyên gặp giáo lý của Phật, ít ai được cơ hội nầy.
Hai câu cuối nguyện rằng chừng nào còn làm kiếp người thì có thể và phải nuôi
dưỡng Phật tính bẩm sinh bằng cách làm theo lời Phật dạy để ra khỏi luân hồi.
Do đó, PG quán xét và bảo vệ tính cách tích cực của sự hiện sinh, của đời sống.
Nói khác, PG có trọng tâm là con người.
Nhưng
con người phải từ bỏ ngã chấp để đến mức hoàn vũ tức là đến chân ngã, đó là lúc
giác ngộ để biết rằng vạn hữu đều vô thường. Sự cứu rỗi của PG không có gì khác
hơn là sự thức tĩnh, là giác ngộ, nhờ bỏ ngã chấp mà thấy vũ trụ uyên nguyên, giải
thoát khỏi cái tôi ích kỷ, khỏi sự mê chấp vô lý; nhưng không lìa đời mà hành động
một cách tích cực và sáng tạo trên thế giới và trong lòng nhân loại.-
Phụ họa của người dịch
Virgil
Georghiu, trong Giờ thứ 25 nói rằng khi Tây Phương sụp đổ, Tây Phương sẽ
được cứu vớt bởi ánh sáng từ Đông Phương. Lập tức ông minh định Nga Sô không phải
là Đông Phương vì Nga Sô cũng là sản phẩm của Tây Phương. Lý do phân định là vì
ngôn ngữ thời ấy gọi Nga Sô là East là Đông, đối nghịch với Tây Phương là West.
Nói theo Georghiu, nước Tàu theo CS cũng không được xếp là Đông Phương, tuy
China trong lịch sử hầu như là cái dù che cho cái gọi Đông Phương. Thế mới khổ
chơ. Nhà văn Võ Hương An vừa chuyển cho chúng tôi bài nói về truyền thống văn
hóa Trung Hoa được duy trì và phát triển bởi Đài Loan.
Về
ý kiến của Gheorghiu, trước đây khá lâu, 1919, Edmond Holmes đã nói điều gần giống
trong cuốn The Creeds of Buddha, các tư tưởng lớn gặp nhau, không sao.
Ý
kiến của Hồ Thích có phần hơi quá, nhưng ông là người Tàu nên không ai bắt bẻ.
Các nhà dịch thuật Trung Hoa rất tài tình đã chuyển một ngôn ngữ nhiều tưởng tượng
đa âm lê thê qua một ngôn ngữ độc âm, chính xác, cô đọng. Họ đã phải dùng những
danh từ hiện có mang phần nào giông giống hao hao điều muốn nói trong kinh Phật
rồi dần dần biến thành những thuật ngữ. Có một cuốn sách nhiều chi tiết, tôi
quên nhan để và tác giả ỷ y vào internet thì tìm không ra để mua từ Amazon. Thiền
của Tàu là Chan, là một dung hợp tuyệt vời giữa PG và Lão Giáo; từ Chan qua Zen
của Nhật để đưa ra thế giới.
=================================================================
Huế 1931 - cô Nguyễn Thị Cẩm Hà - (Mệ Bông)
ái nữ của bà Chúa Nhất tức Công chúa Mỹ Lương (chị vua Thành Thái)
======================================================
No comments:
Post a Comment