chép sử từ Ngã Tư Bảy Hiền
thuongcangthuquan
Ngã
tư Bảy Hiền là cửa ngõ phía tây-bắc của Sài Gòn từ thời xa xưa. Từ Sài Gòn phải
đi qua ngã tư Bảy Hiền mới đi được Củ Chi, Hậu Nghĩa, Tây Ninh và xa hơn là thủ
đô Phnom Penh của Kampuchia. Trước năm 1975 quân
hay dân muốn đi Phnom Penh tất tất phải đi qua ngã tư Bảy Hiền.
Với
vị trí khá đặc biệt như cách khu Lăng Cha Cả (cửa chính của Phi trường Quân sự
Tân Sơn Nhứt và cửa chính của Bộ Tổng Tham Mưu Quân đội VNCH) chỉ chưa đầy hai
cây số về hướng bắc, cách cổng trại Hoàng Hoa Thám của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù
chưa đầy một cây số về hướng tây, đi về trung tâm Sài Gòn hướng đông (chợ Bến
Thành) và trung tâm Chợ Lớn ở hướng nam chưa đầy sáu cây số… thì về mặt chiến
lược trong các năm chiến tranh 1954-1975, ngã tư Bảy Hiền mới thực sự là một vị
trí đía lý trọng yếu mà các bên tham chiến đều đặc biệt quan tâm so với các cửa
ngõ khác của Sài Gòn.
Từ ngã tư Bảy Hiền theo đường Võ Tánh để đi về Lăng Cha Cả, theo đường Nguyễn văn Thoại để đi về Chợ Lớn. Trục Tây Bắc – Đông Nam là đường Lê Văn Duyệt nối thẳng về trung tâm Sài Gòn sau khi đi qua Ông Tạ, Hòa Hưng, Công trường Dân Chủ.
Phân bố dân cư trong các năm 1954-1975 khá đặc biệt. Khu vực mặt tiền dọc theo đường Lê Văn Duyệt là người Bắc TCG giáo di cư. Họ sống dài dài từ Tân Việt xuống Bảy Hiền, Ông Tạ, Hòa Hưng… lan qua khu Lăng Cha Cả.
nghĩa trang của Pháp gẩn ngã tư Bãy Hiền |
Khu người miền Trung chạy loạn vào Sài Gòn cùng với người nam theo Phật giáo bắc tông hay nam tông thường nằm khu phía trong có các hẽm chằng chịt. Đây là các vùng thường có các cơ sở VC nằm vùng trước năm 1975. Khu dệt Bảy Hiền là khu căn cứ VC nội thành trước năm 1975.
Các cơ sở của Quân đội VNCH nhằm phục vụ chiến tranh tại khu vực ngã tư Bảy Hiền được bố trí khá chằng chịt trong thời gian 1954-1975. Dọc đường Võ Tánh từ Bảy Hiền lên Lăng Cha Cả có bót cảnh sát thường và trại cảnh sát dã chiến, có đài phát thanh quân đội Hàn Quốc. Có khu vực phòng thủ không quân Mã Tây, có cổng trại Phi Long (có lăng mộ của Cha Cả) và cổng chính Bộ Tổng Tham Mưu.
Từ
Bảy Hiền lên Chợ Lớn theo đường Nguyễn Văn Thoại về
phía tay phải là các cơ sở hậu cần và giải trí cho quân đội Mỹ
như hãng thầu quân đội RMK, hãng thầu Pacific, cơ sở sửa chữa container của
hãng tàu biển SeaLand… Phía tay trái là trại lính yểm trợ cho Sư Đoàn Nhảy Dù, khu trung tâm truyền tin quân sự.
Bảy Hiền 1972 |
Một
địa điểm mà chúng tôi muốn nêu lên trong bài này là trường Đắc Lộ. Từ nơi này
trong một khoảng đời dài tuổi ấu thơ còn đi học chúng tôi đã chứng kiến những sự
kiện xảy ra với ngã tư Bảy Hiền. Trèo tường ngồi vắt vẻo để xem lính nhảy dù ra
trận, xem biểu tình, xem mật vụ rượt Việt Cộng nằm vùng… là chương trình
liveshow thường xuyên của mấy ông học trò, mấy ông tu sinh Đắc Lộ học ít, cúp
cua nhiều. Mấy chục năm sau ngồi uống cà phê tán dóc, những liveshow ấy được
thêm muối, ớt, đường, bột ngọt… thành “ký ức những ngày thơ”. Những sử “da” cà
phê tán láo như chúng tôi bây giờ đã sáu bảy mươi tuổi, có ông bị Alzheimer,
nên sử liệu bị xáo trộn là điều chắc chắn.
Nhà
thờ và tu hội Đắc Lộ được sáng lập năm 1957 do cha Giuse Vũ Khánh Tường
(1925-1980) sau khi ông học từ Pháp trở về. Cha Tường có thời gian làm hiệu trưởng
Trung học Nguyễn Bá Tòng trước khi tách ra riêng. Tu hội Đắc Lộ nằm tại số 31, ấp
Tân Hiệp, xã Tân Sơn Nhì, Tân Bình, Gia Định.
Trước
năm 1975, hoạt động chính của tu hội Đắc Lộ là mở trường dạy học có tên là trường
tư thục Đắc Lộ.
Trường
nằm trên con đường huyết mạch nối Sài Gòn với Củ Chi, Hậu Nghĩa, Tây Ninh và
Kampuchia, lại kế bên căn cứ không quân Tân Sơn Nhứt và đối diện bộ chỉ huy sư
đoàn nhảy dù của quân đội VNCH trước năm 1975… nên không biết may mắn hay bất hạnh
những người sáng lập Đắc Lộ và những tu sinh, học sinh của trường (các sử “da”)
đã chứng kiến hàng loạt các sự kiện quan trọng của Sài Gòn trong suốt thời gian
khói lửa 1954-1975.
trại Hoàng Hoa Thám |
Bảy
Hiền cũng là nơi có đối kháng lương-giáo khá cao, một bên ủng hộ chế độ VNCH
(người TCG di cư), một bên chống lại (người trung nhập cư). Bảy Hiền chứng kiến
những thương vong dữ dội trong chiến tranh trong các năm 1966, 1967, 1968,
1970, 1971, 1972, 1975… qua những xe chở quan tài xuất phát từ cổng trại lính
Hoàng Hoa Thám.
ngã tư Bảy Hiền 1972 |
(1)-
Cuộc tảo thanh lính Bình Xuyên của Bảy Viễn khi ông Diệm mới về nước chấp chính
được lính dù hậu thuẫn mạnh với các sĩ quan nhảy dù thời ấy như Nguyễn Khánh,
Nguyễn Chánh Thi, Đỗ Cao Trí, Cao văn Viên.
(2)-
Hai cuộc đảo chính ông Ngô Đình Diệm năm 1960 và 1963 đều có lính nhảy dù tham
gia như một thành phần chủ chốt của quân đảo chính. Lính nhảy dù thường xuất
phát từ cổng trại Hoàng Hoa Thám theo đường Lê văn Duyệt đi lên ngã tư Bảy Hiền,
Hòa Hưng… vườn Tao Đàn và vào dinh Độc Lập.
(4)-
Cũng năm 1963-1967 những cuộc biểu dương lực lượng ủng hộ chính phủ của người
TCG di cư thường xuất phát từ khu vực nhà thờ Tân Việt, đi dần lên Bảy Hiền,
Ông Tạ, Lăng Cha Cả… để đối kháng với phong trào ủng hộ Phật giáo miền Trung.
Thường các người tham gia tập trung tại nhà thờ Tân Việt đi qua ngã tư Bảy Hiền,
Lăng Cha Cả… kéo đến trước Bộ Tổng Tham Mưu.
(5)- Mậu Thân đợt một và đợt hai tấn công vào phi truờng Tân Sơn Nhứt và Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù. Đợt hai kéo dài cả tuần lễ rất ác liệt tại ngã tư Bảy Hiền,
nhà thờ Đắc Lộ, chợ Bảy Hiền. VC tham gia trận đánh lớn
này đa số kéo từ Long An lên. Tướng Lưu Kim Cương chỉ huy phi trường Tân Sơn Nhứt
bị bắn chết tại vòng rào khu Mã Tây.
Hai
tác phẩm văn học nghệ thuật lớn phản ánh những trận đánh tại khu vực này năm Mậu
Thân là “Dáng đứng Việt nam” của nhà thơ Lê Anh Xuân và “Cho một người năm xuống”
của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
(6)-
Trận Hạ Lào (Lam Sơn 719). Lính Sư đoàn Nhảy Dù thiệt hại nặng nhất so với các
binh chủng khác của quân đội VNCH.
(7)-
Mùa hè đỏ lửa năm 1972 do tham chiến cả hai mặt trận An Lộc (Bình Long) và Quảng
Trị, Sư đoàn Nhảy Dù coi như bị tiêu hao nặng. Số binh sĩ và hạ sĩ quan Sư đoàn
Nhảy Dù sống tại khu Bảy Hiền, Ông Tạ, Hòa Hưng… rất nhiều, nên mùa hè năm 1972
là một năm tang tóc với người TCG ở đây, gần như nhà nào cũng có tang.
Các
sử “da” tán thêm rằng: Trong sự sụp đổ chóng vánh của quân đội và chế độ VNCH
có trách nhiệm lớn lao của lính nhảy dù.
Tính
tới đầu năm 1975 các tướng lĩnh nhảy dù nắm hết quyền lực của quân đội VNCH. Tổng
tham mưu trưởng là Cao Văn Viên, tư lệnh các quân đoàn 1,2,3,4 là tướng Ngô
Quang Trưởng (khu 1), tướng Phạm văn Phú (khu 2), tướng Dư Quốc Đống (khu 3),
tướng Nguyễn Khoa Nam (khu 4). Sau khi thất thủ Phước Long đầu năm 1975, tướng
Đống (nguyên Tư lệnh Sư đoàn Dù) mới chịu về hưu. Các ông Viên, Trưởng, Phú, Đống,
Khoa Nam đều là sĩ quan cao cấp của Sư Đoàn Nhảy Dù trước đây.
Lính
nhảy dù thiện chiến, tinh nhuệ… nhưng chỉ tác chiến giỏi khi có đầy đủ vũ khí
và hậu cần yểm trợ. Năm 1973 khi người Mỹ rút quân, các yểm trợ từ phi cơ, pháo
binh, hậu cần cho lính nhảy dù giảm hẵn… cũng là lúc lực lượng này suy thoái
nhanh chóng, hiệu quả tác chiến không còn cao. Tướng Lê Quang Lưỡng có lần than
rằng: Quân tôi đã yếu và ít, xẻ ra khắp các nơi, chúng tôi đánh đấm làm sao được?
Khi
về nắm các chức vụ chỉ huy cao cấp trong quân đội VNCH, cách tác chiến chính
quy kiểu lính nhảy dù với đầy đủ vũ khí và hậu cần như trước không còn, các tướng
lĩnh xuất thân từ Sư Đoàn Nhảy Dù ra mệnh lệnh chỉ huy cho các đơn vị bộ binh
khác không còn hiệu quả được nữa… việc thất bại chóng vánh là đương nhiên.
Với
lại vào hai tháng cuối của chiến tranh 1954-1975 hỏa lực của phía Hà Nội vượt
trội, trong khi rất nhiều đơn vị quân đội VNCH không còn tiếp liệu chiến đấu, kể
cả đạn nhỏ để tự vệ.
Bốn mươi năm rồi… chuyện chỉ có vậy. Xin đừng ném đá. Hết cà phê rồi, về nấu cơm trưa kẻo vợ mắng cho! Ngày 12 tháng 03 năm 2015.
không ảnh ngã tư Bảy Hiền ================================================================================= |
No comments:
Post a Comment