Lạc Việt tàu, Lạc Việt ta
The Lạc-Việt,
the Vietnamese, and the Zhuang
Hong Hai Dinh and Liam C. Kelley, TTT dịch
Tổng quát trên thế giới ngày nay, thế kỷ 21 là thời đại quốc tế và tin học, ai cũng cho là đúng rằng dân chúng và văn hóa của ngàn năm đầu tiên trước TC không quan trọng và không lấy gì đáng tin. Nhưng thu nhỏ nhãn giới ở VN và Tàu thì nhận định nầy sai lạc, vì hai xã hội nầy chú tâm đặc biệt và sâu sắc dùng quá khứ xa xôi làm phương tiện tạo dựng và củng cố bản chất (identity, căn cước) trong thời đại hiện kim. Một số người cho rằng sự móc nối xã hội hiện tại và quá khứ xa không gì khác hơn là công việc của các chính quyền độc tài nhằm duy trì tinh thần quốc gia. Nhưng hành vi nầy ở VN và Tàu thì phức tạp hơn nhiều, căn cứ vào sự kiện là các học giả hai nơi khi quán xét bản sắc riêng lại dùng chung một nguồn tài liệu.
Bài viết nầy phân tích hiện tượng nói trên và xem xét vai trò của Lạc Việt (Luoyeu) trong cố gắng của hai nước cả một thế kỷ trong mục đích tạo dựng một căn cước cho người Việt ở VN và cho nhóm thiểu số Zhuang (Tráng) ở bên Tàu. Khi dùng chung một nguồn tin tức với hai mục tiêu khác nhau, học giả VN và Tàu đã thay đổi ý nghĩa của danh từ nhân chủng học (ethnonym) 'Lạc Việt' theo nhu cầu riêng.
Nguyên thủy là một
tên ngoại nhập (exonym) mà người Hán đã dùng 2.000 năm trước để chỉ những cộng
đồng sống trong vùng Hoa Nam, danh xưng Lạc Việt ngày nay được các tác giả VN
và Tàu dùng như tên tự xưng (autonym) để chỉ tiền nhân tổ tông người VN và của
người Tráng (Zhuang). Sự biến dạng từ một danh xưng ngoại nhập đến danh hiệu tự
xưng đã xẩy ra nhiều lần, nhiều lúc ở hai nước nầy. Trong trường hợp VN, cố gắng đẩy
mạnh củng cố ý thức về một căn cước quốc gia bằng cách nối kết người Việt với Lạc
Việt trong hai thập niên 1950 và 1960. Kết quả ngày nay ai cũng xem sự nối kết
nầy đương nhiên như vậy.
Trong trường hợp Tàu, thì 15 hay 20 năm nay mới có người ra công kết nối người Tráng và Lạc Việt xưa. Hiện thời chưa thể lượng định chính xác kết quả nhưng dự đoán rồi ra sự kết nối người Tráng và Lạc Việt xưa sẽ được chấp nhận như đương nhiên là vậy, không khác trường hợp của VN. Cố gắng nầy của Tàu đưa đến nhiều câu hỏi về hậu ý của Tàu trong hành động nầy, nhất là cách chọn thời điểm.
Với tư cách nghiên cứu lịch sử, chúng tôi cố sức trình bày cách thức VN và Tàu quan niệm giống nòi và sự kế tục từ Lạc Việt / Luoyue xa xưa. Cả hai bên đều có những tầm nhìn vượt qua thời gian và không gian, và xuyên qua các học giả từng vùng tạo ra các ảnh hưởng khác trong người Việt và người Tàu.
Lạc
Việt, tên ngoại nhập và tên tự xưng
Trong
các sử liệu tiền tân thời (trước khi giao tiếp với Tây Phương) của VN và Tàu,
hai chữ Lạc Việt / Luoyue [駱越 / 雒] được dùng để chỉ
nhóm người Việt / Yue 越 thuộc một khối người rộng lớn hơn gọi là
Bách Việt / Bai Yue 百粵/越. Trong sử Tàu, chữ
Việt / Yue 越/粵 là một tộc danh
(ethnonym) dùng để chỉ tổng thể các cộng đồng khác biệt cư ngụ trong vùng Hoa
Nam hiện thời và các xứ phía bắc của Đông Nam Á và phân thành những nhóm nhỏ
như Lạc Việt, Âu Việt 甌越, Mân Việt 閩越. Danh từ Bách Việt
xuất hiện lần đầu tiên trong Lã Thị Xuân Thu 吕氏春秋,
đúc kết chừng năm 239 trước TC, ở nước Tần sau Chiến Quốc Đông Chu. Nó xuất hiện
nhiều lần hơn, trong sách sử của Hán Triều, nhưng không phải là danh tự duy nhất
để chỉ các cộng đồng sống ở Hoa Nam; sách còn dùng những chữ khác như man 蠻 và di 夷. Nhưng tộc danh
rõ rệt hơn, cá biệt hơn là Lạc Việt tiên khởi xuất hiện trong Hán Sử 漢書 trong chương Cổ
Quyên Chi Truyền 賈捐之傳, tiểu sử Cổ Quyên. Chương nầy nói rằng
người Lạc Việt có tục cha con đều tắm chung trong cùng một dòng sông. Tuy nhiên
không rõ Lạc Việt là một vùng, một tiểu quốc, một nhóm người cùng chủng tộc hay
cùng văn hóa.
Nhưng
có điều chắc là Lạc Việt là một danh tự ngoại nhập (exonym) để chỉ nhóm người
không thuộc Hán tộc, sống quanh biên giới phía nam của đế quốc thuộc Hán triều.
Bao nhiêu thế kỷ sau cho đến thế kỷ 20, học giả VN và Tàu bắt đầu ghép cho danh
xưng Lạc Việt một qui chế tự tại tự xuất. Học giả Tàu lập luận rằng Lạc Việt là tổ
tiên của cộng đồng chủng tộc Tráng hiện sống trong Vùng Tự Trị Tráng ở Quảng
Tây, các tỉnh Vân Nam, Quý Châu, Quảng Đông, Hồ Nam và một số ít ở châu thổ Hồng
Hà.
Trong
lúc ấy học giả VN lập luận rằng Lạc Việt là tổ tiên người Việt, (gọi là người
kinh), chiếm đại đa số dân cư VN.
Thế nhưng không xã hội nào trưng ra bằng chứng Lạc Việt đã là danh hiệu tự xưng của nhóm dân cư được xem là tổ tiên của người Việt hay người Tráng. Tuy vậy, họ vẫn tiếp tục việc nầy. Ví dụ học giả Trần Trí Dõi, một mặt cho rằng người Việt là con cháu của Lạc Việt, một mặt nói rằng danh tự Lạc Việt người VN chỉ dùng để chỉ tổ tiên lịch sử của họ nói trong sử Tàu như tập Hán Sử, chứ không phải là chính họ trong tình trạng hiện tại. Theo ông, ý nghĩa nguyên sơ của danh tự nầy đã mất, và chừng từ thế kỷ 13 đến thế kỷ 15, nó trở lui trong ngôn ngữ VN, có nghĩa là tập thể tổ tiên xưa của người Việt. Mãi đến thế kỷ 20, học giả VN mới xem Lạc Việt là tổ tiên xa của họ, trong khi cần đến gần một thế kỷ nữa, thế kỷ 21, người Tàu mới nại rằng Lạc Việt, Luoyue là tổ tiên của người Tráng. Dẫu sao khó lòng mà nói hai lập trường nầy đúng sai thế nào.
Theo sự phân loại
ngữ học, ngôn ngữ người Tráng thuộc nhóm Kam-Tai trong đại loại Tai-Kadai. Người
nói tiếng Tai-Kadai ngày nay ở từ Đông Nam Trung Hoa cho đến tiểu bang Assam Đông Bắc Ấn
gồm các sắc dân Tày, Thái, Nùng, Lào và Lồ sống trên lãnh thổ VN. Trong lúc ấy,
Việt ngữ thuộc nhóm Mường trong đại loại Á Úc (Austroasiatic).
Thực
tế, rất khó xẩy ra sự kiện các cá nhân nói các thứ tiếng khác biệt là hậu duệ
có chung tổ tiên. Vài học giả Tây Phương nghĩ rằng người Hán cổ đại dùng danh
xưng Lạc Việt để chỉ các nhóm người nói những ngôn ngữ khác nhau và có thể có
vài điểm chung về văn hóa, chứ không phải một nhóm sắc tộc có đặc tính rõ rệt
và nói cùng một thứ tiếng. Nếu đúng như thế nầy thì Lạc Việt – như một nhóm văn
hóa – có thể là tổ tiên vừa là của người Việt vừa là của người Tráng. Nhưng học
giả VN và TH không nhìn Lạc Việt theo lối nầy.
Họ nhìn Lạc Việt như một sắc tộc riêng biệt trong quá khứ và có liên hệ mật thiết với một nhóm sắc tộc riêng biệt trong hiện tại. Nhóm người riêng biệt hiện tại là công đồng Việt hay cộng đồng Tráng.
Một điểm mà các học
giả tuy khác quốc tịch đều đồng ý là danh tự Lạc Việt / luoyue không từ nguồn gốc
Tàu. Học giả Vũ Thế Ngọc lập luận rằng “lạc” là tiếng Việt giống như chữ “nước”,
có nơi đọc là “nác”. Nhà ngữ học TH Liang Tingwang cho rằng Lạc Việt do chữ của
người Tráng là “roegvet” hay “loegvet”. Tại Quảng Tây có thị trấn tên Lowo (陸斡鎮 Lục Oát Trấn) mà
người Tráng đọc là “Roegvet” hoặc “Loegvet,”, Lạc Việt từ đó mà ra, ông nói rằng
nó có nghĩa là đào đất, (oạt điền 挖田), cũng có nghĩa
là loài chim đào đất (oạt điền chi điểu 挖田之鳥). Con chim nầy là
vật tổ của Lạc Việt.
Nhà
ngữ học Pháp Michel Ferlus thì nghĩ khác. Theo ông, tộc danh Lạc Việt gồm hai
thành tố, hai thành tố nầy là chuyển ngữ phát âm của hai chữ tại chỗ, địa
phương. Hai chữ nầy còn lưu dấu trong các ngôn ngữ thuộc hai đại loại Á Úc và
Tai-Kadai. Theo ông, Việt, yue do chữ wat mà ra. Wat có nghĩa là đất hình tròn
quanh một khu định cư. Trong lúc ấy lạc do chữ rak hay p.rak có ghĩa là người,
dân chúng. Chữ nầy còn có nghĩa môn (củ môn), từ đó có thể đoán là nhóm người
cùng trồng củ môn, dần dần biến nghĩa thành một khu vực có người sinh sống. Nhiều
người phê bình gay gắt phương pháp luận nầy, nhưng ý kiến của Ferlus gần với ý
nghĩa trong Hán Sử, người Tàu thuộc giống Hán muốn nói Lạc Việt gồm một tập hợp
dân chúng có nhiều nguồn gốc sắc tộc nhưng có những nét văn hóa và sinh hoạt xã
hội giống nhau.
Tiếp đến chúng ta gặp vấn nạn: trong số tập hợp những chủng tộc ấy, ai là Lạc Việt, ai là Việt nầy Việt kia? Về phương pháp luận, lấy gì mà nói chữ nầy chữ kia được dùng để gọi một cộng đồng người. Ferlus dùng phương tiện phát âm (phonetic) nhưng không nên loại bỏ phương pháp dùng ý nghĩa. Tùy theo cách viết, “lạc” là con ngựa trắng có bờm đen (駱) hay con chim cú con (雒); trong lúc ấy “việt /yue (越) nghĩa là quá mức, qua khỏi bờ cuối. Thật khó giải thích vì sao các chữ ấy đi cùng nhau, mang ý nghĩa gì.
Dù theo nguyên gốc
nghĩa gì, không có bằng chứng rằng xưa thời cổ đại, người Việt và người Tráng tự
nhận mình là Lạc Việt /Luoyue. Phía người Tráng, họ không có truyền thống dùng
ký tự mà viết sử. Nhưng người Việt thì dùng sử ký rất sớm. Tuy vậy, cho đến giữa
hai thế kỷ 14 và 15, sử VN không có chỗ nào dùng danh từ riêng Lạc Việt. Thay
vào đó, sử VN gọi những trú nhân đầu tiên ở châu thổ Hồng Hà là “Lạc dân” 雒民, dựa theo sử ký
xưa của Tàu.
Ví
dụ, Li Daoyuan (chết năm 527), tác giả Thủy Kinh Chú 水經注, trích dẫn một
tác phẩm đã soạn từ trước Giao Châu Ngoại Vực Ký 交州外域記 mô tả các điều kiện
sinh sống tại đây trước khi người Hán đến đô hộ hoàn toàn. Trích: Trong thời
xưa, trước khi Giao Chỉ có quận huyện, khu vực nầy gồm các cánh đồng “lạc”. Những
cánh đồng theo nhịp thủy triều lên xuống. Dân chúng khai thông những cánh đồng
nầy để trồng trọt, và họ được gọi là người Lạc, dân Lạc. Lạc Công, Lạc Hầu được
bổ nhiệm cai quản các quận huyện; nhiều nơi còn có thêm Lạc Tướng. Lạc tướng
mang quân tước đồng bằng dung vải màu lục. Sử gia VN Lê Tắc (1263-1342) trích lại
những dữ kiện nầy trong cuốn An Nam Chí Lược 安南志略 khi nói về những
trú dân đầu tiên trong châu thổ Hồng Hà. Lê Tắc không nói những trú dân nầy là
tổ tiên người Việt, ông chỉ mô tả điều kiện sinh hoạt trong vùng nhưng người đọc
có khuynh hướng cho đó là tổ tiên người Việt trong những thế hệ kế tiếp đến
ngày nay.
Đào Duy Anh (1904-1988) là sử gia góp công nhiều nhất trong việc phát triển quảng diễn ý niệm rằng Lạc Việt là tổ tiên người Việt hiện thời. Ông đã đề xướng quan niệm nầy từ thập niên 1940 trong cuốn Nguồn Gốc Dân Tộc Việt. Về phía Tàu, ý niệm Lạc Việt là tổ tiên của người Tráng mới được khai triển gần đây không quá 20 năm.
Người
Pháp bàn về nguồn gốc người Việt
Song
song với việc chính quyền Pháp chiếm toàn cõi VN vào thế kỷ 19, các học giả
Pháp bắt đầu ngay công việc tìm hiểu dân cư VN là ai, ra làm sao và có nguồn gốc
thế nào. Lúc ấy danh từ “Việt” chưa xuất hiện trong ngôn ngữ (viết và nói). Học
giả Pháp gọi người mình là annamite, lập tự theo danh từ người Tàu gọi
An Nam là vương quốc VN. Đồng thời, nhóm ưu tú cai trị xứ mình trong triều Nguyễn
lại dùng danh từ “hán” để chỉ thần dân trong vương quốc.
Tiếp
đến từ những năm đầu tiên của thế kỳ 20, học giả VN tiếp xúc với Tây Phương và
hiểu quan niệm Tây phương về “quốc gia, dân tộc”, họ gọi người mình là Việt.
Tuy bây giờ là một danh từ chắc chắn để chỉ dân chúng trên quốc thổ nầy, “Việt”
chưa thành một thực tại ngôn ngữ trong thế kỷ 19.
Trong
khi quan niệm quốc gia, giống nòi, là những đề tài sôi sục ở Âu Châu, giới ưu
việt cai trị ở VN chú trọng đến phả hệ chính trị, kết nối triều đại đương thời
vào chuổi kế nghiệp chính thống từ một hoàng đế thần thoại là Thần Nông. Thân
thế của Thần Nông và các vua kế nghiệp được đề cập trong Đại Việt Sử Ký Toàn
Thư, thế kỷ 15. Thời điểm nầy cách xa mấy ngàn năm, tính từ thời gian giả định
Thần Nông có thật.
Sự
cách biệt thời gian nầy đã phá bỏ tính chất khả tín của sử Việt. Học giả Pháp
phải đi tìm trong sử liệu cổ đại của Tàu. Trong khi làm việc nầy, họ cũng nêu
lên những viễn tượng mới, những nhãn quan mới. Sử Tàu nêu các danh từ riêng như
Mân Việt 閩越, Âu Việt 甌越, Ðông Âu 東甌, Tây Âu 西甌 và Lạc Việt. Những
danh tự ấy chỉ những khu vực hay dân chúng sống trong đó. Vùng nầy chạy từ
Giang Trấn bây giờ xuống Bắc Việt. Hai chữ Âu và Việt được dùng với các chữ
khác để phân biệt Âu nào, Việt nào. Các nhà nghiên cứu cho rằng Lạc Việt sống gần
châu thổ Hồng Hà.
Nhắc lại, sử Tàu có ghi Bách Việt, tổng thể những nhóm người sống ở Hoa Nam. Do đó Việt như một mẫu số chung. Căn cứ vào các sử liệu nầy, hai học giả Édouard Chavannes (1865–1918) và Léonard Aurousseau (1888–1929) đưa ra lý thuyết cho rằng trong những thế kỷ trước TC, các nhóm dân Việt từ từ di chuyển từ châu thổ Dương Tử đến châu thổ Hồng Hà. Trên đường di dân nầy, họ hình thành những nhóm nhỏ chi phân, trong đó nhóm Lạc Việt xuống phía nam sâu nhất trong các nhóm. Aurousseau tìm thấy một danh từ riêng liên hệ đến tổ tiên Lạc Việt, thuộc gia đình cai trị trong vùng bây giờ là tỉnh Phúc Kiến, vương quốc Mân Việt. Thế kỷ thứ hai trước TC, Sử Ký Tư Mã Thiên kê tên gia đình quyền thế xứ Mân Việt là Sô 騶. Gần 500 năm sau, học giả Từ Quảng 徐廣 bình chú sách của Tư Mã Thiên đã viết rằng Sô 騶 đôi khi viết thành Lạc/Luo 駱. Aurousseau, cho đó đã đủ bằng chứng cho thấy những người cai trị bà con với vua chúa Mân Việt tuy đã định cư ở châu thổ Hồng Hà. Học giả Âu Châu xem xét các trống đồng khai quật trong châu thổ Hồng Hà thì thấy hình người đứng trong thuyền, đội mão có lông chim, để nói rằng vật tổ Lạc Việt là một con chim. Tác giả Claudius Madrolle cho rằng hình người trên thuyền muốn nói rằng người Lạc Việt có khả năng đi biển và dùng đường biển di dân từ Phúc Kiến đến Bắc Việt, họ bà con với người Mân ở Phúc Kiến.
Lạc
Việt của Đào Duy Anh (ĐDA)
Các
học giả nêu trên tuy tin ở sự liên hệ gia tộc giữa Bắc Việt và Phúc Kiến, qua
chữ ‘’lạc’’, họ không dùng hai chữ Lạc Việt để chỉ tổ tiên người Việt hiện nay.
Nhưng từ thập niên 1940, ĐDA đề xướng tên mới đầy đủ là Lạc Việt trong mục đích
tìm kiếm tổ tiên người VN.
Căn
cứ kết quả nghiên cứu của các tác giả Pháp, ĐDA đưa ra một diễn trình
(scenario) như sau. Người Lạc Việt xưa là những ngư dân đã theo gió mùa đi thuyền
từ quê quán, Phúc Kiến bây giờ, xuống phía nam đến chỗ bây giờ là VN. Trên các
cuộc thủy hành họ quan sát hướng bay của một loài chim gọi là Lạc. Họ dùng chim
Lạc làm vật tổ, đội mão có lông chim, khắc hình chim vào trống đồng, vẽ hình
chim lên thuyền.
Tuy
ĐDA bị hạ bệ qua vụ Nhân Văn Giai Phẩm, chính quyền đã dùng lý thuyết của ông
làm lý thuyết chính thức về lịch sử: Lạc Việt là tổ tiên của người Việt hiện
nay. Lời minh định nầy của ông được ghi rõ trong sách giáo khoa hay bất cứ sách
nào do chính quyền cấp phép.
Các
nhà phê bình không dám đụng tới lý thuyết nầy, họ chỉ phê bình ĐDA những điều
ngoài rìa khi ông viết về luận thuyết nầy. Họ không đồng ý với ĐDA rằng chim lạc
là vật tổ; vì sách Tàu nhiều khi viết lạc là con ngựa trắng có bờm đen.
Cũng ở ngoài rìa, vài học giả không đồng ý với ĐDA khi ĐDA hiểu chữ lạc như một chữ Tàu. Theo họ, lạc là tiếng việt, biến thiên từ chữ nước đọc là nác. Thủy Kinh Chú nêu trên cho thấy vùng đất mới theo thủy triều lên xuống, nước là yếu tố chính trong các sinh hoạt, người sống trong vùng là người nước, người nác sau thành Lạc. Đó là ý kiến của hai ông Nguyễn Kim Thản và Vương Lộc viết năm 1974.
Tính từ lập luận của
Aurousseau và Madrolle và sự biến chế tổng hợp của ĐDA, lý thuyết cho rằng Lạc
Việt là tổ tiên người Việt tương đối mới, ý chính cuối thế kỷ 19, tổng hợp tô
điểm từ thập niên 1940. Nhưng thời gian đó vẫn dài, dài hơn, xưa hơn cố gắng
minh chứng Luoyue / Lạc Việt là tổ tiên người Tráng ở Quảng Tây, TH.
Cũng giống như ĐDA lên tiếng đầu tiên, một học giả Tráng phất cờ đầu tiên; chúng tôi muốn nói 黃現璠 Hoàng Hiện Phan.
Pháp
và nguồn gốc Tráng
Có
sự trùng hợp kỳ thú. Nếu Aurousseau và Madrolle đã ảnh hưởng quyết định trong
việc xây dựng lý thuyết Lạc Việt là tổ tiên người Việt, lý thuyết Lạc Việt là tổ
tiên người Tráng cũng bắt nguồn từ một người Pháp khác.
Nhiều
nhà Hoa học Pháp đã ảnh hưởng giới trí thức Tàu. Nhưng trong vụ tổ tiên người
Tráng, Albert Étienne Jean-Baptiste Terrien de Lacouperie (1844–1894) vô cùng
quan trọng. Trong loạt bài viết xuất bản trong hai thập niên 1880 và 1890, nhà
Hoa học nầy (sinologist) đã khai triển một phương cách mới để giải thích và tìm
hiểu lịch sử TH. Lacouperie đối kháng quan điểm của thời ông cho rằng văn minh
TH phát triển riêng rẻ, tự nó hình thành, độc lập đối với các vùng khác trên thế
giới. Theo ông, từ thời xưa, rất xưa nhiều bộ lạc từ Lưỡng Hà Địa (Mesopotamy)
đã di dân vào Tàu và hòa lẫn với dân địa phương kém văn minh hơn. Một trong những
nhóm đó là tổ tiên của sắc dân Tráng tại Quảng Tây.
Học
thuật Âu Châu xác nhận sự hiện diện một “gia đình” ngôn ngữ chung gồm Thái Lào
Shan (Miến Điện) và nhóm Tai-Kadai. Lacouperie là một trong những người đi đầu
trong cuộc nghiên cứu nầy. Ông cho rằng những người nói các thứ tiếng ấy là trú
dân đầu tiên trên đất TH đã hòa hợp chung sống với người mới tới từ Tây Á đem
theo bền văn minh Babylone, hai chục thế kỷ trước TC. Nhiều học giả Âu Mỹ theo
chân Lacouperie. Những ý kiến nầy khác với những gì được ghi vào sử Tàu nhưng từ
đầu thế kỷ 20 được các học giả tân thời chấp nhận. Hoàn cảnh mới là sự chống đối
nhà Mãn Thanh giúp cho trào lưu tư tưởng nầy sống động hơn.
Vì
nhiều lý do, kết quả nghiên cứu của Lacouperie không được chú ý. Tuy nhiên qua
ông và đồng nghiệp, trí thức TH làm quen với các quan niệm Tây phương về dân tộc,
quốc gia, giống nòi và họ có nhãn quan mới về xứ sở. Ví dụ, thập niên 1930, sử
gia Từ Tùng Thạch 徐松 石(1900–1999) đã cố
liên kết các địa danh xưa ở Hoa Nam với những tiếng trong ngôn ngữ hàng ngày của
dân chúng trong vùng; và cho thấy các địa danh ở Quảng Tây là tiếng Tráng, có
nghĩa người Tráng là một trong những nhóm đầu tiên nhập cư vào đấy. Năm 1959
nhà nhân chủng học Phi Hiếu Thông 费孝通 (1910–2005), đi
theo lý thuyết nhập cư của Chavannes và Aurousseau, lập luận rằng người Tráng
là một thành phần trong cuộc di dân của các nhóm Việt trong ngàn năm đầu trước
TC từ tỉnh Giang Châu đến Quảng Tây. Cùng năm, học giả Túc Quan Xương 粟冠昌 (1923–2007) đưa
ra ý kiến khác rằng người Tráng là hợp chủng của người địa phương và dân mới đến
từ tỉnh Tứ Xuyên. Phi Hiếu Thông và Túc Quan Xương ấn hành những luận văn vào một
thời kỳ trọng yếu cần sự hiểu biết về sắc tộc Tráng. Vì một lý do phức tạp khó
nói ở đây, năm 1950 đảng CS Tàu quyết định thành lập khu tự trị Quảng Tây cho
người Tráng. Đây là một phần trong một chính sách rộng lớn hơn cho các sắc tộc
quyền tự trị giới hạn. Nhưng trong trường hợp Tráng, tiến trình phức tạp hơn vì
trước 1950 chưa thấy xuất hiện một ý thức rõ rệt về bản chất căn cước của một sắc
dân gọi là Tráng. Song song với việc thành lập khu tự trị Tráng, xuất hiện nhu
cầu hiểu biết về sắc tộc Tráng để dạy người Hán và người Tráng về lịch sử lâu
năm của nhóm thiểu số nầy. Túc Quan Xương và Phi Hiếu Thông đóng góp vào sự kiến
tạo một ý niệm quốc gia. Nhưng đóng góp quan trọng nhất là của Hoàng Hiện Phan 黃現璠 (1899–1982). Ông
là người Tráng đầu tiên học xong đại học bên Tàu, ông học ở đại học Bắc Kinh và
Đại Học Hoàng Gia Nhật. 1957, ông xuất bản một cuốn sử về sắc tộc Tráng. Ông lập
luận rằng trong ngàn năm đầu trước TC người Tráng thành lập vương quốc Tây Âu 西甌, danh hiệu nầy có
ghi trong sử ký thời kỳ đầu của TH. Khi gọi tập hợp dân cư nầy là một vương quốc,
Hoàng Hiện Phan đi ngược với lối giải thích chính thống về lịch sử Tàu theo
Marxist, theo đó mọi xã hội phải qua giai đoạn nô lệ trước khi vào giai đoạn
phong kiến, sau đó xã hội thiểu số mới ra đời. Đặc biệt Hoàng Hiện Phan nói rằng
Tây Âu đã là một vương quốc, căn cứ vào sự kiện triều đình nhà Tần đã tấn công
Tây Âu; Tây Âu thành một vương quốc có nghĩa đã đi vào giai đoạn phong kiến.
Giống
như ĐDA bị hạ bệ thời Nhân Văn Giai Phẩm, Hoàng Hiện Phan bị phê bình ráo riết
bị liệt vào thành phần hữu khuynh, cổ suý chủ nghĩa quốc gia địa phương. Như
trường hợp ĐDA bị hạ bệ mà lý thuyết Lạc Việt là tổ tông người Việt được làm lý
thuyết chính thức, Hoàng Hiện Phan bị phê bình kết án hữu khuynh, nhưng lý thuyết
liên hệ kế tục giữa Tráng và Tây Âu được chính quyền công nhận.
Tiểu
bang địa phương Tráng
Trong
hơn 10 năm qua TH cố sức nối kết người Tráng với Lạc Việt. Hơn nữa học giả TH
dùng lý thuyết khảo cổ để cho Lạc Việt tính chất quan yếu trong tiền sử của khu
vực. Lý thuyết khảo cổ là con đẻ của học giả quá vãng Tô Bỉnh Kỳ 苏秉琦
(1909–1997), lý thuyết gia hàng đầu hậu bán thế kỷ 20. Trong tiền bán thế kỷ
20, học giả TH chủ trương rằng “văn minh TH” khởi xuất từ thung lũng Hoàng Hà rồi
phân bủa ra ngoài. Nhưng trong thập niên 1970, những phát giác khảo cổ quanh
vùng được gọi là trung tâm văn minh làm cho giới học thuật phải suy nghĩ lại về
những phát triển vào thời kỳ đầu của các xã hội phức tạp trong khu vực. Tô Bỉnh
Kỳ lãnh nhiệm vụ nầy. Năm 1981, ông đưa ra quan niệm hệ thống khu vực và mô
hình văn hóa địa phương (khu hệ loại hình 區系類型) để giải thích những
chứng cớ về sự phát triển xã hội gần kề hay trùng hợp (coterminous) của những
khu vực tách lìa nhau nhưng tương tác trong thời gian và về sau tạo thành một
đơn vị văn hóa rộng lớn hơn.
Quan
niệm nầy được chấp nhận bởi các nhà khảo cổ, và phản ảnh quan điểm chính thức của
Nhà Nước về sự cấu hợp sắc tộc của Trung Hoa, như một thực thể duy nhất gồm nhiều
thành tố (đa nguyên nhất thể 多元一體). Khi quán xét sự phát triển từng vùng,
Tô Bỉnh Kỳ mở rộng quan niệm cho rằng các khu vực trải qua các giai đoạn rõ rệt
trong sự phát triển xã hội và chính trị từ cố quốc 古國 đến phương quốc 方國) rồi đến đế quốc 帝 國. Giai đoạn cuối
là kết nạp chung vào đế quốc Tàu.
Dựa
vào lý thuyết nầy, vài học giả cho rằng người Lạc Việt sống trong một quốc gia
nhà nước, một thực thể chính trị phức tạp hơn quốc gia cũ, và một giai đoạn
phát triển trong tiến trình lịch sử rộng lớn hơn, hầu bước qua khỏi thung lũng
Hoàng Hà và thể nhập vào đế quốc Tàu. Đồng thời họ chủ xướng Lạc Việt là tổ
tiên của người Tráng.
Những
học giả ngày nay đi vào vết chân của Hoàng Hiện Phan, tuy Hoàng Hiện Phan đã thất
sủng và bị kết án chủ trương quốc gia địa phương. Họ dùng biện chứng lịch sử mà
nói rằng cộng đồng Tráng không tách rời đế quốc Tàu, và chứng minh cộng đồng
Tráng phát triển theo qui luật Marxist. Đi từ xã hội nô lệ, qua phong kiến rồi
nhập vào đế quốc Tàu, theo quan điểm chính thức của chính quyền và quan niệm khảo
cổ của Tô Bỉnh Kỳ. Nhưng khảo cổ thực sự tại Quảng Tây không thể giúp ai xác nhận
khu vực nầy là một quốc gia nô lệ trước khi giao tiếp với nhà Tần. Kết quả khai
quật cho thấy khu vực không phải là một trung tâm tâp hợp dân chúng. Tuy vậy,
quyết định tuyên bố những cổ vật khảo cổ và các địa điểm khai quật thuộc vào một
quốc gia địa phương duy nhất và gọi đó một thực thể chính trị đơn thuần đem lại
nhiều di lụy chính trị. Vương quốc Tây Âu mà Hoàng Hiện Phan kết nối vào sắc
dân Tráng nay được xem là một tiểu bang địa phương, danh từ Lạc Việt / Luoyue
được dùng để chỉ những cổ vật khảo cổ vùng Quảng Tây và nền văn hóa của thị hội
Tráng.
Học giả Tàu thừa biết ĐDA đã kết nối Lạc Việt với chính người Việt đang sống ngày nay và họ đã chỉ trích nhiều nơi nhiều lần. Như vậy, học giả TH hẳn có dự mưu, dự tính khi xem Lạc Việt là một tiểu bang, một tiểu quốc theo vùng. Thật vậy, Liang Tingwang đã đưa ra lời đe dọa không rõ rệt trong lời tựa cuốn sách nhan đề: Nghiên Cứu về tiểu quốc cấp vùng Lạc Việt xuất bản 2017. Với những danh từ sử học liên quan các vùng rộng lớn là Hoa Nam, Bắc Việt, Nam Hải 南海 và Lĩnh Nam嶺南, Liang Tingwang xác quyết rằng: “căn cứ vào truyền thuyết dân gian, Nam Hải được phát triển bởi chính vua của họ là đệ nhất cá hoàng đế 第一個皇帝 và hoàng đế Tần đầu tiên đã chiếm Lĩnh Nam. Liang nói tiếp: Tuy nhiên sử liệu đã minh chứng rằng về chính trị ở Hoa Nam trong thời Thương Chu, tổ tiên những người nói tiếng Quảng Đông, theo lệnh của vương triều trung ương, đã thành lập hai tiểu quốc địa phương cấp vùng là Tây Âu và Lạc Việt, phát triển và cai quản Lĩnh Nam và Nam Hải và mở đường tơ lụa trên biển. Một quá khứ rực rỡ như vậy, ai cho phép, ai được phép, hủy diệt nó?
Những ghi nhận trên
đây về sắc dân Tráng và Lạc Việt cung cấp cái nhìn sơ sài về những vấn đề đang
thảo luận trên báo chí TH. Cần thêm nhiều nghiên cứu khác để độc giả có thể nhận
định chính xác.
Hiện
tại một số học giả TH - hy vọng - vẫn âm thầm nghiên cứu nhưng bên ngoài thì
báo chí TH đang thương mãi hóa câu chuyện Lạc Việt trong mục đích kinh tế như
du lịch, bán sản phẩm địa phương. Như vậy chuyện Lạc Việt không còn nằm trong
lãnh vực sử; chưa kể những ý định chính trị của Bắc Kinh lẫn địa phương Quảng
Tây chưa rõ. Cũng vậy, tác phẩm của ĐDA và những nghiên cứu khác của các đồng
nghiệp đã được định hướng trong mục đích thời đại, tương đối rõ ràng thì
không ai cấm dùng vấn để tổ tiên người Tráng vào các mục đích khác biệt.
Lạc
Việt ở VN là vấn đề chung bao trùm cả một quốc gia. Trong lúc đó, câu chuyện
người Tráng liên quan một phần nhỏ lãnh thổ Tàu và một trong nhiều sắc tộc.
Nhưng vấn đề không thể xuất hiện một cách riêng rẻ. Lạc Việt không đơn thuần là
chuyên nghiên cứu cổ sử, nó trở thành sôi động trong vùng chính địa Đông Á.
No comments:
Post a Comment