ý kiến về hai chữ GIAO CHỈ
Tôn Thất Tuệ
***Quelques Observations au Sujet du Sens des Mots Chinois Giao Chỉ par Abel des Michels, Paris 1889***
Chúng
tôi đã hân hạnh giới thiệu luận văn về ngôn ngữ VN từ thượng cổ của Abel des
Michels (1833-1910). Tác giả ADM thông thạo Hán tự đã viết bằng tiếng Tàu và là
tác giả nhiều sách viết bằng tiếng Việt, người đầu tiên dịch Kiều. Luận văn hôm
nay của ADM gần 20 trang bằng tiếng Pháp và các chữ Hán đọc theo quan thoại,
chúng tôi tìm mọi cách đọc ra âm Hán Việt, dễ chịu hơn.
Người
Âu Châu, mấy trăm năm rồi, đã không hiểu Hán Tự và dịch Giao Chỉ 交趾 là (sắc dân có)
hai ngón chân cái tách rất xa với ngón nhỏ kế, hai ngón chân cái nầy chĩa vào
nhau, giao nhau. Pieds bifurqués.
ADM
cho biết mới nhất cuối thế kỷ 19, Aubaret, khi dịch Gia Định Thành Thông Chí của
Trịnh Hoài Đức cũng nói như vậy trong bản phụ đính. ADM đã từ trần năm 1910 để
không biết rằng người Việt, từ học giả cho đến bình dân đều tin theo như vậy, tổ
tiên người Việt có hai ngón chân cái chĩa vào nhau.
ADM
cho rằng khắp vùng Đông Dương ngay trong những sắc dân ít pha trộn nhất không
ai có hai ngón chân chĩa vào nhau, huống hồ là một khối lớn; như vậy làm sao
đi? Đó là nói hai ngón cái hai chân. Về một chân – thì chữ ‘giao’ 交 có nghĩa ngược lại
với tách rời nhau, chia thành hai ngánh; trái lại giao là hợp với nhau. Người
Pháp hiểu ngược nên nói “pied bifurqué” (bifurquer: đổi hướng, tách thành hai
ngánh). Khoảng cách giữa ngón cái và ngón thứ là dấu hiệu tự nhiên, không có gì
trầm trọng để thành một dị tướng thân thể, irrégularité anatomique; và thường xẩy
ra ở các xứ mang dép có quay móc vào. Khi đi chân đất, ngón cái có khuynh hướng
phát triển nhiều hơn và hướng ngoại với một góc độ rất nhỏ, ngõ hầu tăng diện
tích bàn chân để cùng chia sức nặng thân thể và các thứ mang theo.
ADM
đã đọc rất nhiều, nhiều sách xưa của VN và của Tàu, không có chỗ nào nêu một yếu
tố hình tướng (anatomie) về danh tự Giao Chỉ, Giao Châu, Lạc Việt, Việt Thường,
Bách Việt, Nam Giao.
[Từ
đây đến cuối là bản dịch phần còn lại của luận văn].
Mối
nghi của tôi được giải trừ nhờ từ điển Anh Hoa của Wells Williams. Nhà bác học
Anh Quốc không bàn luận chữ “chỉ” theo lối viết 趾 có bộ ‘túc’ 足, ngón chân, toe /
orteil; Williams dùng chữ 阯 với bộ ấp⻏ về đất, địa
điểm, có nghĩa là nền móng hay chân tường (the base of a wall). Chữ nầy có thể
thay bộ ấp bởi bộ thổ 土 là 址, có nghĩa như
nhau: nền móng của ngôi nhà, giới hạn một lô đất, căn bản, quê nhà (foundation,
limit of a lot, fundamental, one’s country).
Không
chỉ chừng đó thôi. Nay trở lại chữ 趾, nó còn có nghĩa
ngưng, chận (to stop), nền móng (foundation). Đồng thời nó có nghĩa như chữ ‘chỉ’
đơn độc 止, bị chận ở cuối giới hạn, cư ngụ, bị ngăn
chận (to be stopped, as by the edge of a lot of land, to dwell, hindered).
Giao
Chỉ dù viết theo sử gia Mã Đoan Lâm triều Tống và một số tác giả khác - 交趾- hay viết theo
Wells Williams - 交阯 - chữ “chỉ” có nhiều nghĩa nhưng không
nghĩa nào liên quan đến ngón chân cái.
1.-
止
– ngưng, ngăn chận.
2.-
趾/
址
- móng tường
3.-
止
/ 趾
/ 址
– giới hạn lô đất
4.-
址/
阯
– xứ sở, quê hương.
Mặt
khác, chữ ‘’giao’’ 交 có nghĩa là hiệp nhất, kết nối. Phải
chăng hai chữ ‘giao và chỉ’ gộp vào nhau để muốn nói một điểm, một khu vực biên
giới giữa hai quốc gia, là một giới hạn chung, là điểm dù là binh đoàn hai nước
hay cá nhân phải ngừng chân nếu không được phép qua biên giới. Đó là vùng giáp
tuyến, ai lo canh nấy để duy trì giới hạn chung.
“Chỉ”
là chân tường, một trong bốn nghĩa nêu trên gợi lên ẩn dụ cho rằng núi đồi tách
biệt Trung Hoa và vùng đất sống của tổ tiên người Việt là một trường thành vĩ đại; cũng có thể đã có bức thành nhân tạo do người Tàu hay Việt đắp nên. Ý niệm
xây thành đã có từ đời Tần Thủy Hoàng. Người Việt trong lịch sử gần hơn đã xây
Lũy Thầy chia cắt Đàng Trong và Đàng Ngoài thời Trịnh Nguyễn phân tranh; biết
đâu xưa kia người Việt đã làm như vậy để chận Bắc xâm.
Lại
thêm nữa, những danh xưng Nam Việt, Việt Nam, Việt Thường, theo nghĩa đen là đi
từ hướng nam, miền Nam phải vượt qua, nơi người băng qua thường xuyên.
Nếu
Giao Chỉ là một hình thái đặc biệt của giống Việt lấy làm quốc hiệu thì nó phải
được nhắc nhở thường xuyên trong sử quốc gia, trong sử của Tàu. Nhưng sự việc
không có vậy.
Chữ
‘’giao’’ 交 được duy trì; chữ ‘’chỉ’’ 趾 lâu lâu có nói tới
nhưng không quan trọng. ‘Đông Tây Dương Khảo’ viết: Giao Chỉ là Nam Giao xưa
kia. Nhà Tần đổi thành Tượng Quận; nhà Hán xóa bỏ Nam Việt, chia thành chín quận
mà Giao Chỉ là một quận. Thời Quang Vũ, một người đàn bà tên Trưng Trắc nổi dậy;
Mã Viện đánh tan và đổi quốc hiệu thành Giao Châu; nhà Tùy lấy lại tên cũ là
Giao Chỉ Quận.
Tác
giả Tàu nầy nói đến Nam Giao xưa; Giao Chỉ xuất hiện về sau và không nói đến
nét đặc thù thân thể của người Việt. Sách không nói: xứ sở của người Giao Chỉ,
chỉ nói trỗng “Giao Chỉ’’, một địa danh.
Từ
điển Khang Hy trích ‘Tiền Hán Địa Dư Chí’ xem Giao Chỉ chỉ là một quận của Giao
Châu. Ở đấy một lần nữa cho thấy “giao” đã dùng trước từ lâu so với ‘’chỉ’’.
‘Thông
Giám Lãm Yếu’ viết: Người Việt Thường sinh sống phía Nam Giao Chỉ. ‘Thiếu Trưng
Thông Giám’ ghi nhận như vậy nhưng nói rõ thêm Giao Chỉ là một phần lãnh thổ của
Nam Giao. Nếu Giao Chỉ là tên một sắc dân thì danh xưng nầy đã phải được nêu ra
trong Sử Kinh. Trái lại cổ sử Trung Hoa không biết đến, không một lần đề cập. Sử
Kinh chép vua Nghiêu ra lệnh cho người em thứ ba lập nghiệp ở Nam Giao.
Nam
Giao có nghĩa là nơi gặp gỡ phía Nam, có thể suy diễn còn thêm nhiều chỗ giao
tiếp khác, những giới hạn khác. Như vậy có thể rằng dân Giao Chỉ được gọi tên
theo tên của nơi mình sinh sống, chứ nơi nầy không mang tên của những người đến
lập cư.
Nhà
bác học Wells Williams giải thích rằng ‘’giao” mang ý nghĩa không chia cách vì
dân chúng trong khu vực nầy đàn ông đàn bà cùng tắm chung trong dòng sông; dân
chúng sống giao hòa yên vui; không động chạm gì chuyện các ngón chân to ngón
chân nhỏ chĩa chéo lung tung.
Việc
giải thích sai khác danh tự ‘giao chỉ’ thành hai ngón chân chĩa ra ngoài và
giao nhau tuy không đúng về cơ thể học đã ăn sâu mấy thế kỷ. Chẳng khác trường
hợp gọi tên Tân Lục Địa là America. Sử sách tin rằng danh tự America là mượn
tên của thuyền trưởng Amerigo / Abergigo Vespucci. Nhưng nhà địa chất học Jules
Manou đưa ra một minh chứng phá hủy huyền thuyết ấy.
Tại
Honduras, một ngọn núi tên là America / Ameriga có rất nhiều đá quý. Dân hải
du Tây Ban Nha đã đến thu lượm rầt nhiều quý thạch đem về làm của giàu sang.
Các thủy thủ Âu Châu tung tin nầy và từ đó người ta gọi tân lục địa Columbus
khám phá là America.
Năm 1551, Hylacomilus đưa tên Amérique lần đầu tiên trong tuyển tập địa dư “Cosmologie” xuất bản tại Saint Dié, Pháp. Nhà tuyển tập nầy đã nhầm với tên Abergigo Vespucci, tác giả nhiều phiêu lưu ký ở lục địa mới nầy.-
Xuất xứ: Quelques Observations ...
=================================================================
No comments:
Post a Comment