Sầu Ai Lao & Tây Tiến
Tôn Thất Tuệ giới thiệu
Sầu Ai Lao
Đỗ Hữu
Đã
lâu trăng cứ vàng hiu hắt
Mây
cứ sầu tuôn núi võ vàng
Lá
vẫn phai chàm trên sắc áo
Mưa nguồn thác đổ đá mù sương.
Giữa ngày lạc lõng trên rừng rậm
Với nắng bâng khuâng mây thuở nào
Với núi xanh lơ chiều tím nhạt
Mây
trời bàng bạc sầu Ai Lao.
Lưng đèo quán gió mờ hun hút
Thôn
bản nằm trơ dưới nắng chiều
Tai
vẫn nghe đều dòng thác đổ
Người ơi, thương nhớ biết bao nhiêu!
Ở đây hơi đá chiều vây khắp
Khép
chặt mình tôi giữa núi rừng
Buồn quá ngày đi đêm trở
lại
Hoàng
hôn hoa bản phấn rưng rưng.
Người có theo tôi lên dốc
nắng
Nhìn
xem hoa rải sắc trên đường
Chiều nay gió thổi buồn ghê lắm
Lá
đổ sau chân một lối vàng.---
Trà
Đỗ Hữu thì ai cũng biết là danh tiếng vùng Lâm Đồng Bảo Lộc. Xe đò luôn ghé vào
tiệm Đỗ Hữu cho khách nghỉ ngơi và mua trà như ai đi Huế cũng mua mè xửng.
Nhưng thi sĩ Đỗ Hữu thì không biết ông là ai, thi phẩm của ông cũng không ai biết.
Tôi gặp bài thơ nầy trên tạp chí Tân Văn, chủ nhiệm là Hoàng Dược Thảo.
Trong
tập số 8 tháng 3-2008 Trần Trung Thuần tóm lược một bài báo của người khác trên
internet với hai bài thơ duy nhất của Đỗ Hữu mà chính ông cũng không biết gì về
thi sĩ nầy. Huỳnh Ngọc Chiến tìm gặp chúng trong một cuốn sách giáo khoa của
Bùi Giáng soạn cho học sinh thi tú tài thời VNCH:Vài Nhận Xét Về Bà Huyện Thanh Quan (nxb Tân Việt Saigon 1957). Cả
hai ông Chiến và Thuần đều không nói Bùi Giáng có biết gì về Đỗ Hữu hay không.
Họ
đồng ý với nhau là khen Bùi Giáng có tâm hồn khoáng đạt, không “văn mình”, trái
lại lòng yêu thơ đã làm cho Bùi Giáng quí trọng những bài thơ hay của bất cứ ai,
thời nào, chỗ nào. Rất tiếc ông Chiến không cho biết nhận xét của Bùi Giáng,
hay nói về quan niệm thi ca của Bùi Giáng thế nào khi đưa hai bài của Đỗ Hữu
làm minh chứng. Đây bài thứ hai của cùng tác giả.
Chiều Việt
Bắc
Đỗ Hữu
Nắng xuống phương nào người thấy không?
Mà
đây chiều tím rụng song song
Vàng
tuôn mấy lối ngày thu quạnh
Ai
liệm hoàng hôn kín mắt trong?
Khói
thuốc lên mờ xanh bóng ai
Phương xa chiều xuống ngút sông dài
Đường kia có phải sầu xưa đọng?
Trở bước hoa lau trắng ngập đồi.
Con
đường đất đỏ mờ sau bản
Thung
lũng vàng tơ nắng trở chiều
Núi
biếc chập chùng vây ải lạnh
Dặm về lá đổ phận tàn xiêu…
Rừng núi âm u chiều
Việt Bắc
Chầy ngày lạc bước ai ngồi than
Buồn xưa chiều đọng sầu lau lách
Chòi
cũ nằm nghe gió dặm trường…
Nếu ông Chiến chỉ biết
hai bài thơ nầy qua tay người khác chứ không trích từ cuốn sách giáo khoa nói
trên, rất có thể Bùi Giáng còn ghi thêm ít nhiều chi tiết. Nếu có cơ duyên tìm
gặp cuốn sách xin để ý trường hợp nầy. Hai tác giả nầy cho rằng Bùi Giáng phải mất
nhiều năm soạn thảo và ấn loát, và dự đoán mất ba năm. Sách xuất bản 1959 cho
phép họ nói rằng Đỗ Hữu đã sáng tác trong khoảng thời gian ở bên Lào trong
chiến dịch Tây Tiến như Quang Dũng cũng đi trong dịp nầy.
Nói như vậy vẫn còn khó
hiểu vì Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với
quân đội Lào. Đoàn quân gồm phần đông là thanh niên Hà Nội trong đó có nhiều học
sinh, sinh viên (như nhà thơ Quang Dũng). Chiến đấu khắp các địa bàn thuộc tỉnh
Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền Tây Thanh Hóa Sầm Nứa, trong những hoàn cảnh rất
gian khổ, vô cùng thiếu thốn, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội. Quang Dũng làm
bài Tây Tiến năm 1948.
Tôi
thật dốt chỗ nầy. Chỉ biết ông hoàng Souphanouvong qua Hà Nội nhận lệnh HCM
thành lập Pathet Lao năm 1951; sau đó quân BV và Pathet chiếm miền trung Lào; hậu
quả là nội chiến cho đến 1955, khi Pathet Lào chịu nhận hai tỉnh phía bắc. Như
vậy quân BV có mặt trên đất Lào cho đến thời điểm nầy, cũng là lúc mà ông Chiến
ức đoán Bùi Giáng đã có hai bài thơ của Đỗ Hữu trong tay. Nói khác hai bài nầy
được sáng tác trong khoảng từ 1947 đến 1955. Quang Dũng bị đuổi khỏi hàng ngũ
năm 1953 vì làm thơ lãng mạn. Nói cho cùng là làm thơ ngoài đường lối CS. Rất có thể Đỗ Hữu cũng đã bị dập vùi, bỏ của
lấy người; bạn hữu không ai dám chép, đọc thơ của ông.
Nhưng
để cho tận cùng kỳ lý, đã không biết tác giả là ai, bài viết lúc nào, mà thơ chỉ
có chữ Ai Lao ngoài ra không có gì về
hành quân nầy, chiến dịch nọ như trong bài Tây
Tiến, thì làm sao nói tác giả trong đoàn quân viễn chinh của BV. Không ai cấm
một người ngoài quân đội thấy thu về nơi thôn bản mà có cái sầu Ai Lao. Không
ai cấm một ghi nhận núi biếc chập chùng
vây ải lạnh ở Việt Bắc và thấy lá đổ
sau chân một lối vàng trên đất Lào. Hai chữ Việt Bắc, không biết xuất xứ từ
đâu, mang đầy tính chất kháng chiến, nhưng chưa đủ lý 100% để nói Đỗ Hữu nằm
trong chiến dịch Tây Tiến của BV. Thế nhưng thôi, hãy nói là kháng chiến, viễn
chinh bằng những chi tiết như khép chặt
mình tôi giữa núi rừng hoặc phương xa
chiều xuống ngút sông dài.
Trần
Trung Thuần và Huỳnh Ngọc Chiến tin tưởng có sự giao cảm nghệ thuật giữa Đỗ Hữu
và Quang Dũng nhất là trong bài Tây Tiến.
Cảm quan nghệ thuật hoàn toàn chủ quan. Ông Thuần nhận xét thơ của Đỗ Hữu hay
hơn của Quang Dũng.
Phần
tôi, tôi chỉ thấy những nét hay riêng mà không so sánh vì mọi sự chọn lựa đều độc
đoán buộc phải hy sinh điều không được chọn.
Tây Tiến cho thấy tác giả
Quang Dũng lão luyện, ngôn ngữ chắc nịch, như những nhát kiếm đủ sức hàng phục
đối phương. Điều độ nhưng quyết liệt như phim võ hiệp Nhật, chứ không vung vít
dư thừa như phim công phu của Tàu.
Giá
trị của Tây Tiến nằm trong nét hào
hùng, không phải của đoàn quân, mà của sức mạnh ý chí nhận thức ở chiều thứ tư
(4th dimension), có tính chất nhân chứng.
Rải
rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến
trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Áo
bào thay chiếu anh về đất
Sông
Mã gầm lên khúc độc hành.
Không
gian của Quang Dũng chen chúc những người là người, làm thành bức tranh linh hoạt;
không gian không giới hạn trong rừng núi, đem người đọc từ những nấm mồ rải rác
nơi biên cương đến Hà Nội có bóng dáng nồng thơm, từ rừng sâu đến một kinh đô
khác là Viên chăn. Không gian đó cũng là không gian nội tâm. Sông Mã gầm lên khúc độc hành, như sư tử
hống, vạn loại muôn thú cùng cây cỏ ngưng thở mà nghe. Khúc độc hành nầy, có sức
mạnh của dòng nước và chính là sức mạnh ấy.
Trong
lúc ấy, Đỗ Hữu như đóng vai một làn gió của chất sầu, của mélancholie, như khói
thuốc hòa với sương núi, như một người cô đơn nằm trong chòi tranh cũ, nhìn ra dặm về lá đổ phận tàn xiêu.
Đỗ
Hữu coi bộ không thiết tha với ngôn ngữ đẻo gọt. Có cảm tưởng Đỗ Hữu đã vượt
qua sự kiện ông biết mình làm thơ. Xin đừng khinh những câu mộc mạc như: Buồn quá ngày đi đêm trở lại, hay Chiều nay gió thổi buồn ghê lắm. Hai câu
ấy như hai hỏa tiển phóng hai vệ tinh vào không gian.
Buồn
quá ngày đi đêm trở lại
Hoàng
hôn hoa bản phấn rưng rưng
Chiều
nay gió thổi buồn ghê lắm
Lá đổ
sau chân một lối vàng.
Xin
để các thân hữu tự nhiên thưởng thức mấy bài thơ. ttt
Phụ bản:
Tây Tiến
Quang
Dũng
1948
Sông
Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng
núi, nhớ chơi vơi
Sài
Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo
hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn
thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà
ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh
bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ
quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu ngươi
Nhớ ai Tây Tiến cơm lên khói
Mai
Châu mùa em thơm nếp xôi.
Doanh
trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa
em xiêm áo tự bao giờ
Khèn
lên man điệu
nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có
thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có
nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi
dòng nước lũ hoa đong đưa.
Tây
Tiến đoàn
binh không mọc tóc
Quân
xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt rừng gởi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo
bào thay chiếu anh về đất
Sông
Mã gầm lên khúc độc
hành.
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.----
trên đất Lào
|
No comments:
Post a Comment