chỉ dụ
thành lập Quốc Học
Emperor Thành Thái's edict to establish the Quốc Học
Lê Minh Khai * Tôn Thất Tuệ dịch
Năm 1896, Triều Nguyễn thiết lập một học đường ở Kinh Đô
để dạy Pháp Văn, là Quốc Học từ tên gốc là Quốc học trường 國學場; tên tiếng Pháp là Collège National (thời
ấy “national” - quốc gia - có nghĩa học tiếng Pháp).
Chính quyền thuộc địa Pháp đã có sáng kiến nầy và được
vua Thành Thái (TT) chấp thuận qua sự đồng ý của triều đình.
Để chính thức thành lập Quốc Học, TT đã ban hành một
chỉ dụ bằng chữ Hán, nói rõ vua thuận phê chuẩn sự thiết lập nầy. Ít lâu sau, toàn
quyền Paul Armand Rousseau ký một nghị định thi hành công lệnh ấy tức là thiết lập
ngôi trường, kèm theo bản dịch tiếng Pháp chỉ dụ nêu trên.
So sánh công lệnh Hán Việt và bản tiếng Pháp, thì người
dịch đã bỏ nhiều điều. Nếu đọc nguyên văn chỉ dụ nầy, chúng ta có thể biết cái
nhìn của vua về thế giới rất sâu sắc, không có trong bản đính kèm
nghị định của Rousseau.
Chỉ dụ Thành Thái mang nhiều chi tiết thực tiển như cách
chọn giáo sư, cách tuyển học sinh thì được dịch chính xác và đầy đủ. Nhưng phần
mở đầu của chỉ dụ không được như thế.
Công lệnh bắt đầu với lời giải thích vì sao cần có một
trường dạy Pháp ngữ. Bản dịch và bản chính có sự khác biệt to lớn. Sự khác biệt
nầy giúp người đọc thấy rằng Hán Văn cổ điển và tiếng Pháp không những thuần túy
chỉ là hai ngôn ngữ tách biệt, mà chúng còn cho chúng ta một ý niệm rõ ràng về
sự khác nhau giữa hai nền văn hóa và hai thế giới quan khác nhau.
Trích: Quand on veut donner un développement sérieux à
l’instruction, on ne se borne pas à un enseignement exclusif, de même que pour
assurer la régularité de l’enseignement, il est indispensable de créer des
cours d’études. Or, eu dehors des livres sacrés de Chine, il existe d’autres
ouvrages des divers pays et le mandat de porter la parole est chose très
importante dans les relations internationales. ngưng.
Diễn qua chữ Việt: Nếu muốn đem lại cho nền giáo dục một
sự phát triển đứng đắng thì không nên tự giới hạn trong sự dạy dỗ chuyên biệt độc
quyền. Cũng giống vậy, để bảo đảm tính cách điều hòa của ngành giáo huấn, cần mở
thêm các ngành học mới. Ngày nay ngoài những Thánh Điển từ bên Tàu và tác phẩm
từ nhiều nước khác nhau, khả năng nói, đàm thoại là điều vô cùng quan trọng
trong các mối liên lạc quốc tế.
諭學無常師,欲其博也。教必立學,欲其專也。蓋六經之外別有方書,列國之交,重在辭命。 Dụ học vô
thường sư, dục kỳ bác giả. Giáo tất lập học, dục kỳ chuyên dã. Cái lục kinh chi
ngoại biệt hữu phương thư, liệt quốc chi giao trọng tại từ mệnh.
(Trong phương cách học không cần có thầy giáo thường xuyên, thì người học tìm cách mở rộng kiến thức. Nhưng trong việc giáo huấn, cần có một học đường dạy những phần chuyên môn hóa. Ngoài “Lục Kinh” còn có sách vở từng khu vực địa phương. Nhưng trong việc giao thiệp giữa các nước cần có khả năng biện thuyết, đàm thoại).
Những danh tự sau đây cho thấy thế giới quan của TT.
Học vô thường sư 學無常師;
học không cần thầy thường xuyên; Lục Kinh 六經 và phương thư 方書, sách vở từng vùng; từ mệnh 辭命, khả năng thuyết giải, đàm thoại, và liệt
quốc chi giao 列國之交,
giao tiếp giữa các quốc gia. Nhưng chúng không có trong bản dịch.
Học vô thường sư 學無常師,
tìm tòi cầu đạt những kiến thức một cách rộng rãi, nhiều nơi chứ không với một ông
giáo kỳ cựu “sỉa rẹn” một chỗ. Ý nầy trước đây học giả Hàn Dũ 韓愈 nhà Đường đã nêu trong luận văn danh tiếng
nhan đề Sư Thuyết 師說.
聖人無常師:孔子師郯子、萇弘、師襄、老聃。郯子之徒,其賢不及孔子。孔子曰:「三人行,則必有我師」。是故弟子不必不如師,師不必賢於弟子。聞道有先後,術業有專攻,如是而已。
Thánh nhân vô thường sư: Không Tử sự Đam Tử, Trương Hoằng,
Sư Tướng, Lão Đan. Đam Tử chi đồ kỳ hiền bất cập Khổng Tử. Khổng Tử viết: Tam
nhân hành tất tắc hữu ngã sư. Thị cố đệ tử bất tất bất như sư. Sư bất tất hiền
vu đệ tử. Văn đạo hữu tiên hậu, thuật nghiệp hữu truyền công. Như thị nhi dĩ.
[Thánh nhân không có thầy cố định. Khổng Tử chọn làm thầy
là những ông Đam Tử, Trương Hoằng, Sư Tướng, Lão Đan, nhóm người như Đam Tử không
giỏi, không khôn bằng Khổng Tử. Khổng Tử nói: ba người đi trước mặt ta, nhất định
có một người là thầy ta. Như vậy đệ tử không nhất thiết kém hơn thầy; và thầy
không nhất thiết giỏi hơn khôn hơn đệ tử. Chuyện là một kẻ đã học đạo trước một
kẻ khác; hoặc một người nào đó có kỹ năng chuyên môn hóa. Chỉ chừng đó thôi].
TT mở đầu như vậy để giải thích với quần thần vì sao vua
đã ra lệnh thiết lập một trường dạy tiếng Tây. Hẵn rõ TT đang gặp sự chống đối
của các học sĩ chính thống cửa Khổng sân Trình; nhóm nầy xem người Pháp là man
rợ có kiến thức kém. Do đó vua dùng Khổng học mà biện luận. Khi nói Khổng Tử và
các hiền giả đều học với bất cứ ai, TT muốn nói con các quan, con triều thần có
thể học với người Pháp.
Vua giải thích rằng kiến thức của người Pháp nằm ngoài
Lục Kinh (Lục Kinh chi ngoại 六經之外)
nhưng nằm trong sách vở từng vùng khác nhau ngoài nước Tàu (phương thư 方書). Người Tây viết về điểm nầy như sau: Or,
eu dehors des livres sacrés de Chine, il existe d’autres ouvrages des divers
pays. Ngoại trừ những thánh điển của Tàu, còn có những tác phẩm khác từ nhiều xứ
khác nhau.
Khi TT chỉ nói Lục Kinh thì bản dịch là các sách linh
thiêng của Tàu (les livres sacrés de Chine). Người Tây xem những chương sách người
An Nam học là sách Tàu, của Tàu, nhưng TT chỉ đơn giản nói Lục Kinh. Xa hơn tí nữa,
trong bản dịch, người Pháp xem Lục Kinh và sách ngoài (phương thư 方書) cùng mức giá trị như nhau; nhưng bản Hán
tự của TT không xem như vậy. Thay vào đó, Lục Kinh và phương thư có hệ cấp giá
trị không tương đồng.
'Phương" xem như nghịch với trung ương, thủ đô, phương
thư ở cấp tỉnh Lục Kinh ở kinh đô. Một sự so sánh khác nữa sẽ được dùng là Khổng
học phân chia văn 文,viết
và ngôn 言 nói; văn giá trị hơn ngôn.
Kinh đô là nơi mình có thể thấy vua và quần thần, tức là nhóm người có tài và sính
diễn đạt tư tưởng bằng cách viết và tự cho mình là gương mẫu nêu cao nền luân lý
trong Lục Kinh. Ở vùng xa kinh đô, dân chúng mù chữ chỉ có khả năng diễn
tả ý nghĩ là lời nói, do đó người đô hội xem họ thấp kém nhiều phương diện.
Thế giới quan Khổng học đậm đặc như vậy không thể giúp TT nhìn một cách trung hòa bình đẳng Pháp ngữ, là một ngôn ngữ nói (language parlé).
Thứ nhất, khi ghép tiếng Pháp vào phương thư, TT đã
truyền đạt ý niệm thấp kém, bởi vì chỉ có dân quê mới diễn tả tư tưởng bằng lỗ
miệng, bằng cách nói; có nghĩa tiếng Pháp không thể đứng ngang với Lục Thư.
Thứ hai, khi nói từ mệnh 辭命, khả năng nói, là rất quan trọng trong mối
liên lạc giữa các xứ khác nhau TT đã cho thấy so sánh cao thấp. Hai chữ nầy nằm
trong một đoạn danh tiếng trong sách Mạnh tử 孟子. Khúc văn nầy cho biết vài môn đệ của Khổng
Tử nói rất hay (thiện vi thuyết từ 善爲說辭). Nhưng Khổng Tử cho biết
ông không giỏi nói. 我於辭命則不能也 ngã ư từ mệnh bất năng dã.
Những câu chuyện nhỏ thế này đã nuôi giữ trong đầu các
học giả Á Châu hệ cấp bất bình đẳng giữa viết và nói. Khổng Tử không giỏi nói có
hề chi vì nói không phải là giá trị hàng đầu. Lập lại, TT gặp khó khăn khi
phải giải thích sự cần thiết một ngôi trường dạy Pháp ngữ. TT giải thích vì sao
chấp nhận ổn thỏa phải học ở những người một mặt đặt “nói” cao hơn “viết” trên nất
thang giá trị, đồng thời thuộc hàng tỉnh chứ không phải trung ương.
Vua TT cùng em trai, thông ngôn và tùy viên người Pháp
Chỉ dụ thành lập QH có nhiều điều hấp dẫn. TT phải đương
đầu với những thay đổi khó tin xẩy ra quanh mình. Thế giới đổi thay nầy được phản
ảnh qua ngôn từ đã dùng như phương thư và liệt quốc chi giao 列國之交, giao tiếp giữa các quốc gia.
Ngày nay có thành ngữ quan hệ quốc tế 國際關係 (international
relations) nhưng chưa có vào thời TT cũng như danh từ ngoại giao 外交, diplomacy chưa có.Trước khi người Pháp đến vào
thế kỷ 19, VN chỉ có danh từ bang giao 邦交,
liên lạc cấp vùng (domainal relations). Danh tự nầy dùng cho một hệ thống đẳng
cấp Đông Á giữa chính quốc (Tàu) và các nước nhỏ chung quanh, những tiểu quốc
chư hầu. Thành ngữ nầy xuất hiện 500 năm trước Tây lịch, và thời chiến quốc Xuân
Thu. Sách lễ ký 禮記
ghi trong đoạn nói về các nghi lễ triều cống của chư hầu dâng lên vua nhà Chu. Ở
VN trước thế kỷ mười chín, danh tự nầy biểu lộ đẳng cấp trong tương quan chính
quốc và tiểu quốc giữa nhà Thanh và nhà Nguyễn.
Liệt quốc chi giao 列國之交,
interrealations between various countries, người VN bắt đầu dùng vào thế kỷ 19 để
nói về sự liên lạc mới có đối với các dân tộc tây phương; đâu đó giữa bang giao
và ngoại giao. Trong lúc liệt quốc chi giao đòi hỏi một kỹ năng mới là nói tiếng
Tây thì người Việt không sành món nầy, vào thời điểm 1896.
Do đó phát sinh nhu cầu chính đáng phải mở trường QH năm
1896. Nhưng đó cũng là thách thức của TT: làm sao thuyết phục các học vị trong
triều, tức là những người học cách khinh thị những thành phần như người Pháp,
khinh thị kiến thức và cách thông tri của họ. Nhưng nay phải đồng ý cho con cháu
học những kiến thức ấy, học với những kẻ thấp hèn ấy.
Người Pháp không đủ sức hiểu và không cần hiểu những
suy tư thâm sâu và bác học của vua Thánh Thái. Ngày nay với những người thông
hiểu Hán tự, chiếu chỉ của Hoàng Đế Thành Thái sẽ cung hiến cái nhìn đầy đủ về
thời đại của vua và những khó khăn vua phải đương đầu.---
Vài lời
riêng của người dịch
1.- FB Hội Yêu Lịch Sử đăng một bài nhan đề Chiếu Chỉ
vua Thành Thái Lập QH, không nói dịch từ chỗ nào. Nhưng xem mấy hàng đầu, độc
giả có thể biết từ bản dịch người Pháp kèm vào nghị định của Toàn Quyền
Rousseau; tức là bản dịch mà Lê Minh Khai cho thấy sai lạc thiếu sót.
Quand on veut donner un développement sérieux à l’instruction, on ne se borne pas à un enseignement exclusif, de même que pour assurer la régularité de l’enseignement, il est indispensable de créer des cours d’études. Or, eu dehors des livres sacrés de Chine, il existe d’autres ouvrages des divers pays et le mandat de porter la parole est chose très importante dans les relations internationales.
Hội Yêu Lịch Sử Facebook: Muốn cho việc giáo dục được hoàn bị, không nên hạn chế học vấn trong khuôn khổ hẹp hòi. Trái lại, để đảm bảo cho việc giáo huấn được điều hòa cần mở ra các lớp học thường xuyên.
Nay ngoài những thánh kinh, hiền truyện của Trung Hoa lại còn nhiều sách trước tác ở các nước khác và trách nhiệm của người đại diện phát ngôn trong lúc giao thiệp trên trường quốc tế rất là quan trọng.
Thánh Kinh? The Bible? "Trách nhiệm người phát ngôn?". Một mặt người dịch không có ý niệm về chiếu chỉ bằng Hán Tự, một mặt không hiểu tiếng Pháp. "Mandat" trong ngữ cảnh nầy chỉ là khả năng, kỹ năng. "Porter la parole", một động từ và danh từ bổ túc, là lối nói văn hoa dành cho công việc hằng ngày là phát ra tiếng nói bằng mồm, hoặc cao hơn như biện thuyết, diễn thuyết. Ở đây không có phát ngôn viên. Porte-parole mới là spokeman.
Quand on veut donner un développement sérieux à l’instruction, on ne se borne pas à un enseignement exclusif, de même que pour assurer la régularité de l’enseignement, il est indispensable de créer des cours d’études. Or, eu dehors des livres sacrés de Chine, il existe d’autres ouvrages des divers pays et le mandat de porter la parole est chose très importante dans les relations internationales.
Hội Yêu Lịch Sử Facebook: Muốn cho việc giáo dục được hoàn bị, không nên hạn chế học vấn trong khuôn khổ hẹp hòi. Trái lại, để đảm bảo cho việc giáo huấn được điều hòa cần mở ra các lớp học thường xuyên.
Nay ngoài những thánh kinh, hiền truyện của Trung Hoa lại còn nhiều sách trước tác ở các nước khác và trách nhiệm của người đại diện phát ngôn trong lúc giao thiệp trên trường quốc tế rất là quan trọng.
Thánh Kinh? The Bible? "Trách nhiệm người phát ngôn?". Một mặt người dịch không có ý niệm về chiếu chỉ bằng Hán Tự, một mặt không hiểu tiếng Pháp. "Mandat" trong ngữ cảnh nầy chỉ là khả năng, kỹ năng. "Porter la parole", một động từ và danh từ bổ túc, là lối nói văn hoa dành cho công việc hằng ngày là phát ra tiếng nói bằng mồm, hoặc cao hơn như biện thuyết, diễn thuyết. Ở đây không có phát ngôn viên. Porte-parole mới là spokeman.
2.- Theo Võ Hương An, người biết rất nhiều về Huế qua
các sách khảo cứu, Quốc Học là tên rút ngắn từ bốn chữ Quốc Gia Học Đường; 4 chữ
nầy ghi trên một bức hoành nghi hiện treo tại trường. VHA làm rể nhà thầy Nguyễn
Đình Hàm, hiệu trưởng đầu tiên khi trường mang tên cũ QH, tiếp theo tên Quốc Học
Ngô Đình Diệm 1955. Lê Minh Khai có lẽ lấy tên Quốc Học Trường từ chỉ dụ Thành
Thái. Hy vọng đó là ba chữ ở góc trái trên hình chữ Hán đính kèm. Nguyễn Phúc
Bá, sư phạm Huế trước 75, cho biết hiện nay trường còn lưu giữ một văn kiện ghi
tên trường là Quốc Gia Pháp Tự Học Đường. Trường còn có tên Khải Định, Ngô Đình
Diệm.
3. Nhiều người sẽ ngạc nhiên về thuở ban đầu QH là một
trường ngôn ngữ. Không rõ lúc nào trường trở nên một học đường đầy đủ. Tham luận
với tác giả, tôi cho rằng QH là một Sorbonne của Trung Kỳ, sản xuất một phần lớn
thành phần trí thức, ít nhất cho đến 1975. Nhiều người đã có tú tài QH Khải Định
mà chưa một ngày ở trong trường này vì Việt Minh giao trường cho quân lính Pháp
đồn trú từ 1946 đến 1954 theo hiệp ước sơ bộ giữa HCM và Sainteny. Trường chia
làm hai, một nửa xuống trường Việt Anh sau thành Nguyễn Tri Phương cũ, một nửa
gởi rể bên Đồng Khánh. BS Trần Văn Tích kể lại vào thời Pháp đóng quân trong
trường, ông tướng VM Nguyễn Sơn (?) đi ngang qua Huế an ủi thầy trò lưu vong
lưu động bằng cách nói chiếm đóng nầy là điều hay; chúng ta có một rờ mới.
Chính quyền Pháp thay rờ cũ (rebel) bằng rờ mới (Révolutionnaire) dành cho
chúng ta. Theo bây giờ là "a good deal".’ Hai bên trước sau đều rờ.-----
Nguyễn Trường Tộ, trái Đồng Khánh, phải QH
No comments:
Post a Comment