người lính không có số quân
Trần Như Xuyên
Lời tác giả: Nhân 30 tháng 4, để nhớ lại những gương chiến đấu của
Quân và Dân miền Nam trong công cuộc chống CS xâm lược, xin có một truyện ngắn
nói về sự chiến đấu này, đây là chuyện có thực mà người viết từng tham dự năm
xưa. Trân trọng.
Tối đó, tôi dẫn Đại đội (ĐĐ) tới điểm đóng quân đêm, đây là ngày đầu tiên tôi nắm Đại đội, sáng nay có cuộc bàn giao ở Tiểu đoàn, người đại đội trưởng tiền nhiệm, cũng là khóa đàn anh của tôi, có sự vụ lệnh đi học khóa quân chánh.
Ra
trường được sáu tháng, từ anh thiếu úy mới tò te, giờ đã lên nắm đại đội, quả
là thời gian hơi nhanh so với những đứa bạn cùng khóa ở các binh chủng khác như
Nhảy dù, Thủy quân lục chiến..., có lẽ họ vẫn còn đang thực tập ở trung đội hay
là trung đội trưởng mà thôi. Tôi nắm đại đội hơi nhanh không phải vì mình tài
giỏi gì mà năm 67 khi ra trường, như bao đứa bạn khác chọn đi Bộ binh, các đơn
vị rất thiếu sĩ quan, như tiểu đoàn tôi về chẳng hạn, có đại đội xử lý là một chuẩn
úy, gọi là xử lý cũng không đúng vì trong cấp số coi đại đội thì tối thiểu phải
là thiếu úy, nhưng không hiểu sao vào những năm này, sĩ quan quá thiếu, bởi vậy
khi vừa tới Trung đoàn, nghe tin có mấy sĩ quan Đà lạt mới ra trường là các đơn
vị nhao nhao lên xin, tôi được đưa về Tiểu đoàn 4/46 thì một ông đàn anh khóa
16 đang làm Đại đội trưởng xin ngay tôi về. Ông tên Hồ Trang, khóa 16, ở miền
Trung bị thuyên chuyển vào Nam vì dính dáng tới vụ Phật Giáo, ngoài đó ông đã
là tiểu đoàn phó nên vị tiểu đoàn trưởng cũng có hơi nể, quay quắt vì việc phải
thuyên chuyển xa nhà, bị giam lon, giam chức nên ông gắt gỏng như mắm tôm, ông
nghiêm khắc với mọi người nhưng rất chí tình trong việc chỉ bảo cho tôi từng
ly, từng tí việc chỉ huy mà dầu sao tôi cũng còn quá mới, quân trường dậy là một
chuyện, ra đây đụng với thực tế lại là một chuyện khác.
Cứ
như vậy, những lần hành quân, ông cho tôi ở cạnh để học hỏi hoặc cho xuống
trung đội để thực tập, 6 tháng sau, khi thấy tôi đã tàm tạm gọi là đủ lông, đủ
cánh bay solo được, ông nói với tiểu đoàn trưởng và bàn giao Đại Đội lại cho
tôi, trước đó, ông đã thu xếp người đại đội phó đi học để tôi coi ĐĐ được danh
chính ngôn thuận.
Nói
về tối đầu tiên tôi dẫn ĐĐ đi đóng quân đêm, thường tọa độ đóng quân đêm cùng
các điểm phục kích do Tiểu đoàn chấm, tối đó đang di chuyển trên đường tôi thấy
có một người đàn bà đi lẫn trong toán đại liên, tôi hỏi thượng sĩ Hội, thường vụ
đại đội, ông ta đi lính hồi tôi còn học tiểu học:
-
Ai vậy ông Hội, sao có đàn bà lẫn lộn vào đây?
-
Thưa thiếu úy, đó là vợ thằng Nở, xạ thủ đại liên, nó ở với ĐĐ lâu rồi, hồi
còn trung úy Trang, ông cũng cấm nhưng chỉ được vài ngày là nó lại lẻn xuống sống
với chồng nó.
-
Tôi thấy không được rồi đó ông, lỡ đêm Việt cộng tấn công thì làm sao, thằng Nở
chỉ lo cho vợ nó thì còn đánh đấm gì được.
-
Thiếu úy đừng lo, vợ nó phụ nó rất đắc lực, chị ta biết xử dụng đại liên, biết
tiếp đạn cho chồng, rồi Thiếu úy coi, hể rảnh là nó lại lau chùi cây đại liên nữa.
-
Nhưng lỡ có chuyện gì làm sao mình báo cáo.
Hôm
sau tôi gọi Nở lên trình diện:
-
Sao cậu không để cho vợ cậu ở nhà mà cho đi theo ĐĐ như vậy, lỡ có chuyện
gì thì sao?
-
Thưa Thiếu úy, con Ba nó mồ côi từ nhỏ, không có nhà, em đã đưa nó về với má em
rồi nhưng má em không ưng nó, cứ kiếm chuyện với nó hoài, cho nó theo ĐĐ, thấy
cũng bất tiện, em biết chứ.
Nở
thực hiện lời "em biết chứ", vài ngày sau, tôi không thấy vợ Nở đi
chung trong toán đại liên nữa, tôi hỏi thượng sĩ Hội, ông ta cho biết Nở đưa vợ
ra bến xe về quê mấy bữa nay rồi, tôi có hơi băn khoăn nhưng nghĩ vậy cũng phải,
lỡ có chuyện gì thì làm sao, rồi má con sẽ phải hòa thuận với nhau chứ.
Một
hôm, hạ sĩ quan quân số cầm về xấp thư của ĐĐ đưa cho tôi, trước đó tôi có dặn
anh ta là thỉnh thoảng phải kiểm soát thư từ của binh sĩ xem biết đâu có đứa bị
móc nối. Tôi dở xấp thư ra coi thấy có một lá đề tên Nở, khi tôi coi ĐĐ thì Nở
không biết chữ, sẵn dịp, tôi hỏi các trung đội xem còn ai không biết chữ gom tất
cả lại, đâu cũng được 5,6 người, tôi nói trung sĩ Hiển, hạ sĩ quan CTCT mua tập
vở về dậy họ học,"ngày mãn khóa", tôi kêu từng người đưa tờ Chiến sĩ
Cộng Hòa cho đọc, ai đọc được, tôi thưởng cho bốn ngày phép, hạ sĩ Nở biết chữ
từ ngày đó.
Có
bốn ngày phép, Nở không đi đâu cả, anh ta và vợ quanh quẩn chơi ở mấy nhà quen
trong xã, hết bốn ngày, Nở về lại ĐĐ.
Tôi
mở lá thư của Nở ra đọc:
Long
Xuyên, ngày....
anh hai thương, em diết thơ nầy cho anh là lúc ba giờ phia, em chờ má ngủ mới dám diết cho anh, anh hai ôi, em nhớ anh quá hà, sao số kiếp cứ đài đọa tụi mình hoài, nhớ những lúc điêm tối cùng anh đi đóng quân, dầu gì vợ chồng được gần nhau cũng hơn há anh, hôm anh tiễn em ra bến xe em buồn quá, lúc xe chạy, em thấy như mất mác cái gì quí báo, em khóc ước cả mắt, em cố chìu chuộng má mà má vẫn hổng thương em, thôi để em lên quỳ xinh với ông thiếu úy để em được đi theo anh, liệu được hôn anh, diết thơ nầy xông, mơi sẽ gởi cho anh, anh hai nhớ trả lời em nghe.
anh hai thương, em diết thơ nầy cho anh là lúc ba giờ phia, em chờ má ngủ mới dám diết cho anh, anh hai ôi, em nhớ anh quá hà, sao số kiếp cứ đài đọa tụi mình hoài, nhớ những lúc điêm tối cùng anh đi đóng quân, dầu gì vợ chồng được gần nhau cũng hơn há anh, hôm anh tiễn em ra bến xe em buồn quá, lúc xe chạy, em thấy như mất mác cái gì quí báo, em khóc ước cả mắt, em cố chìu chuộng má mà má vẫn hổng thương em, thôi để em lên quỳ xinh với ông thiếu úy để em được đi theo anh, liệu được hôn anh, diết thơ nầy xông, mơi sẽ gởi cho anh, anh hai nhớ trả lời em nghe.
Em,
Ba.
Một
tuần lễ sau khi đọc lá thư của hạ sĩ Nở, buổi tối dẫn ĐĐ đi đóng quân, tôi
lại thấy cái dáng nhỏ bé ấy đi chung với toán đại liên, lẫn vào hàng quân,
không biết anh Hai có trả lời, trả vốn gì không hay nhớ chồng lên đại, tôi thấy
chị ta cố lẩn vào đám đông, chắc sợ tôi nhìn thấy, hoặc có thể biết tôi đã thấy
nhưng làm nước liều, có điều hôm nay không mặc bộ bà ba đen thường lệ mà là bộ
đồ trận rộng thùng thình, đầu còn đội nón sắt, chị ta tính ngụy trang che mắt
tôi, tôi cười thầm trong bụng khi thấy vợ Nở cuốn nguyên một dây đại liên quanh
người, tôi mong chị ta đừng gặp tôi mà xin gì cả, chẳng thà để tôi lờ đi như
không biết còn hơn là hợp thức hóa cho khó xử.
Năm
67, các tiểu đoàn bộ binh thường có ba đại đội tác chiến, chia nhau vùng trách
nhiệm hoạt động, hành quân lục soát từng ĐĐ chung quanh bộ chỉ huy TĐ, đôi khi
có cuộc hành quân cấp tiểu đoàn thường là nhảy trực thăng và xa hơn. Ba đại đội
trưởng tác chiến đều cùng khóa 21 Đà Lạt gồm Th/U Vũ đình Hà (ĐĐ1), Th/U Lê
xuân Sơn(ĐĐ2) và tôi ĐĐ3.
Một
tối, Đại đội 1 bị tấn công, ĐĐ2 tối đó đóng xa, giữ con đường từ Long Thượng về
Cần Giuộc, tôi nằm cách Hà (ĐĐ2) khoảng 500 thước, Tiểu đoàn mất liên lạc với
Hà, kêu tôi lên tiếp cứu, chỗ Hà nằm tôi biết rõ vì đã từng đóng quân ở đây, chắc
chắn là địch tấn công từ ngã rạch tấn công ra, tôi dẫn Đại đội chạy băng lên vì
tình người bạn cùng khóa, tôi cho Đại đội bắn chặn nơi đầu rạch, nhưng vì không
liên lạc được với Hà, tôi sợ quân ta bắn lầm quân bạn, tôi chạy lại cây đại
liên, cho chuyển hỏa lực về bên trái, dưới ánh sáng của pháo binh Cần Giuộc,
tôi thấy vợ Nở nằm cạnh chồng, tay nâng dây đạn, Nở đang nghiến răng bóp cò, nhả
từng loạt đạn về hướng địch.
Như
tôi đã nói ở trên, dạo đó ở Long An VC chưa nhiều, chắc khoảng hai chục tên, đợi
mình ơ hờ, liều lĩnh tấn công. Cũng tại nơi con rạch này, ít lâu sau, ĐĐ tôi
hành quân lục soát ở đây và đụng nặng, sở dĩ đụng nặng vì địch tụ ở đâu về, ém
quân trong đám dừa lá dày đặc như vùng bất khả xâm phạm, chắc chúng tập trung ở
đây, đợi đêm xuống có giao liên dẫn chúng xâm nhập Đức Hòa, Đức Huệ rồi qua
Campuchia, chúng không ngờ ta lùng sục, chúng buộc phải chống trả.
Đám
dừa nước cao ngất che dọc theo con rạch, hướng ĐĐ tiến vào là đồng trống, suốt
vùng Long An này chỗ nào cũng vậy, bất ngờ ban đầu làm ta có ba binh sĩ bị
thương và một chết, tôi xin pháo binh và Cobra lên vùng, hồi đó gọi máy bay ném
bom còn là một điều mới mẻ, vũ khí xử dụng là của thời đệ nhị thế chiến, toàn
là Garand, Carbin, cả Thompson nữa, ấy vậy mà cây đại liên 30 của hạ sĩ Nở cũng
có tác dụng. Nở người hơi thấp nhưng rất khỏe, một mình vác cây đại liên cả với
chân ba càng, mỗi lần pháo bắn hay trực thăng phóng rocket là anh ta chạy nhào
lên cho gần mục tiêu, lúc đó địch còn lo núp. Khi đã rất gần mục tiêu và có gò
đất làm điểm tựa chắc chắn, cây đại liên mới phát huy được hiệu quả của nó, từng
loạt đạn bắn ra làm bọn VC không ngóc đầu lên được, cộng thêm pháo và trực
thăng bắn liên tục, ĐĐ chiếm được mục tiêu lúc gần tối, địch bỏ lại 6 xác và một
số vũ khí. Trận đánh như thế này không đáng kể gì so với sau này khi SĐ 25 rời
Long An di chuyển về vùng trách nhiệm mới là Tây Ninh, cuộc hành quân vượt biên
năm 1970 cũng như ở Bình Long mùa hè đỏ lửa thì chiến trận lên tới cấp sư đoàn,
quân đoàn.
Sáng
hôm sau, tướng Phan trọng Chinh, Tư lệnh SĐ xuống quan sát trận đánh và gắn huy
chương, tôi đề nghị với TĐT thăng cho Nở lên Hạ sĩ nhất nhưng tướng Chinh là
người rất ngặt nghèo trong việc ban thưởng huy chương và thăng cấp, Nở chỉ được
cái huy chương đồng, ông bảo huy chương đồng của SĐ 25 bằng huy chương vàng của
các nơi khác (!)
Hai
ngày sau ĐĐ còn được nghỉ dưỡng quân, tôi xuống tổ đại liên chơi, cả toán đang
ngồi ăn cơm, tôi thấy vợ Nở đang mân mê cái huy chương của chồng, thấy tôi, chị
có vẻ ngài ngại gật đầu chào rồi bỏ vào trong nhà, tôi nghĩ giá tôi có quyền,
tôi sẽ tặng cho chị ấy một cái huy chương của buổi tối yểm trợ cho Vũ đình Hà.
Đầu
năm 1968, tôi được đề cử theo học khóa tác chiến trong rừng ở Mã Lai, tôi còn gắn
bó với ĐĐ hơn một tháng nữa. Một buổi sáng, đang đứng trước cửa ĐĐ thì vợ Nở bất
chợt ngang qua, chắc đi chợ về, thấy tôi, chị ta khựng lại muốn thối lui nhưng không
kịp, chị ta làm bạo bước tới và khi ngang qua tôi, vợ Nở mím môi lại và dơ tay
chào theo kiểu nhà binh, tôi ngạc nhiên, trong một phản xạ, tôi chào lại, chào
xong, tôi mới ngẩn người ra nghĩ: sao mình lại chào nhỉ, hóa ra ĐĐ này có một nữ
quân nhân ư? Có lẽ chị ta thấy mọi người trong ĐĐ chào tôi nên khi gặp, chị
cũng chào để cho giống như những người kia chăng! Tôi thấy hình như bụng vợ Nở
có hơi to ra. Tôi đem điều này hỏi Thượng sĩ Hội thì ông ta bảo: có vẻ như vậy
Trung úy.
Tôi
gọi Nở lên: - Vợ cậu có bầu phải không?
-
Dạ, thưa Trung úy.
-
Vậy thì cậu phải đưa cô ta về với bà già đi chứ, bầu bì rồi đi theo ĐĐ mãi sao
được, phải lo sức khỏe cho cô ta.
-
Dạ, em cũng tính tháng này lãnh lương xong, Trung úy cho em cái phép để em đưa
nó về gởi bà già.
-
Được rồi, lúc nào muốn cứ lên đây.
Hai
ngày sau, ĐĐ được lệnh đóng quân đêm và tổ chức một cuộc phục kích ở sau
lưng quán Năm Ngói, một địa danh nổi tiếng về sự khuấy rối của VC nơi đây, tối
đó, ĐĐ chạm địch, một tốp nhỏ bọn chúng gặp toán phục kích, hai tên bị bắn hạ,
số còn lại nhập qua toán kia thì đụng phải ĐĐ, nhờ toán phục kích nổ súng trước
nên ĐĐ không bị bất ngờ, địch bắn rất rát nhưng không chủ ý tấn công nên sau một
hồi, chúng rút lui, hình như có chuyện gì xẩy ra ở cây đại liên vì tôi thấy nó
nổ được một chập thì im bặt, tôi đảo nhanh vòng quanh tuyến phòng thủ, không có
tổn thất nào, nhưng khi tới cây đại liên, tôi thấy có mấy người lố nhố, linh
tính cho tôi biết có chuyện không hay, tôi hỏi giật giọng:
-
Gì vậy Nở?
Không có tiếng trả lời, tôi bước vội tới, thấy Nở ôm vợ, y tá Thọ đang loay
hoay băng vết thương nơi ngực chị ta, thấy tôi, Nở nghẹn ngào:
-
Vợ em nó chết rồi Trung úy ơi!
Tôi
ngồi xuống, chị ấy bị trúng đạn ở ngực, máu ướt đẫm cả cái áo trận, y tá Thọ đứng
lên:
-
Chết rồi Trung úy.
Tiếng
thằng Năm trong toán đại liên:
-
Súng bị kẹt đạn, thằng Nở kéo mãi đạn không lên, con Ba nó chồm dậy mở nắp cơ bẩm,
em la nó nằm xuống nhưng không kịp Trung úy.
M2 Browing, 58 kg |
Tôi
báo với thiếu tá Hải, tiểu đoàn trưởng về sự việc xẩy ra, ông có biết vợ chồng
Nở, ông cho sĩ quan CTCT/TĐ mua cái hòm, cấp cho Nở một cái xe Dodge để đưa vợ
về quê mai táng. Tôi lấy hết tiền có thể có được, cả tiền quỹ ĐĐ đưa cho Nở, buổi
trưa cuối năm, trời hơi lành lạnh, chiếc xe chở Nở và quan tài vợ đi ngang qua
ĐĐ, tôi đứng nghiêm chào như một lần chị đã chào tôi, chị chết đi mà cái hòm
không có phủ cờ, không được mười hai tháng lương, ngay cả không được lên cấp chỉ vì
chị là người lính không có số quân.
Mười
ngày sau, Nở trở lại đơn vị, trước ít ngày tôi về SG để chuẩn bị đi học. Nở đào
ngũ, có lẽ Nở không chịu được cái cảnh mỗi tối vác cây đại liên tới chỗ đóng
quân mà không có vợ bên cạnh.
Chị Nở thân mến,
40 năm sau ngày chị mất, hôm nay tôi ngồi viết lại chuyện này về chị, chỉ là một sự tình cờ thôi, hôm nọ tôi đọc loáng thoáng đâu đó người ta nói về những gương chiến đấu của Quân và Dân miền Nam trong công cuộc chống CS xâm lược trước đây, tôi chợt nhớ tới chị, một người không phải là quân, cũng không hoàn toàn là dân, gọi chị là gì nhỉ, chị lưng chừng ở giữa nhưng đã chiến đấu như một người lính thực thụ và đã hy sinh.
Chị Nở thân mến,
40 năm sau ngày chị mất, hôm nay tôi ngồi viết lại chuyện này về chị, chỉ là một sự tình cờ thôi, hôm nọ tôi đọc loáng thoáng đâu đó người ta nói về những gương chiến đấu của Quân và Dân miền Nam trong công cuộc chống CS xâm lược trước đây, tôi chợt nhớ tới chị, một người không phải là quân, cũng không hoàn toàn là dân, gọi chị là gì nhỉ, chị lưng chừng ở giữa nhưng đã chiến đấu như một người lính thực thụ và đã hy sinh.
Một
lý do nữa để tôi viết về chị là vì mới đây, Cộng Sản Việt Nam đã làm ầm ĩ lên
câu chuyện về Đặng thùy Trâm, một nữ cán binh CS xâm nhập vào Nam và đã chết ở
chiến trường Quảng Ngãi, cô Trâm này chết ở đây nhưng không ai biết nắm xương
khô vùi chôn nơi đâu, một người lính Mỹ hành quân qua nơi cô chết và nhặt được
cuốn nhật ký của Đặng thùy Trâm, cuốn nhật ký này, như một kỷ niệm chiến tranh
của người lính, anh ta đem nó về Mỹ, mấy chục năm sau, nó mới được đưa ra ánh
sáng và trao cho mẹ của Đặng thùy Trâm ở Hà Nội.
CSVN
chụp được cơ hội này cho xuất bản cuốn nhật ký, dĩ nhiên với nhiều thêm thắt để
khơi động đám thanh niên càng ngày càng rời xa chủ nghĩa CS. Đặng Thùy Trâm là
một bác sĩ, nhưng không hiểu có được học hành tử tế để thành một bác sĩ không,
tôi đã đọc được một truyện khi ở tù ngoài Bắc là có một anh công nhân được tặng
danh hiệu anh hùng lao động vì đã phục vụ 15 năm trong phòng bào chế thuốc, và
vì phục vụ hăng say và lâu như vậy, anh được thăng lên làm dược sĩ vì quen với
công việc bào chế, phong dược sĩ xong, anh ta mới đi học bổ túc văn hóa vì anh
ta viết chữ cũng chưa gọn ghẽ mấy. Bởi vậy, tôi không biết bác sĩ Thùy Trâm này
trình độ có khá hơn y tá Thọ của Đại Đội mình năm xưa không, hay cũng như mấy
bà mụ vườn ở nhà quê.
Thưa
chị Nở, cả chị và cô Đặng thùy Trâm này là hai người đàn bà ở hai chiến tuyến
chết trong cùng cuộc chiến, trong cùng thời gian và độ tuổi cũng gần như nhau,
nhưng hai cái chết mang hai ý nghĩa khác nhau. Thùy Trâm bị bắt buộc và tự đi
tìm cái chết, còn chị, chị bị chết vì người ta ở mãi đâu vô đây tìm để giết chị,
chị chỉ là tự vệ, chị không hận thù ai, không ai dậy chị oán thù, không ai
tuyên truyền với chị về chủ nghĩa này, chủ nghĩa nọ và cũng không nhân danh chủ
nghĩa để chém giết người khác, chị rất đôn hậu, còn cái cô Thùy Trâm kia đã từ
ngoài đó vào đây, mang trong lòng sự thù hận bởi sự tuyên truyền nhồi nhét, miền
Nam này nào có cần ai phải giải phóng đâu, cho mãi nhiều năm sau này, người miền
Nam vẫn khẳng định rằng họ không cần ai giải phóng cả.
Chị
Nở có thấy điều buồn cười này không, trong cuốn nhật ký, Thùy Trâm viết là sao
quân Mỹ Ngụy tàn ác, thích chém giết, chị Nở có thích chém giết ai không hay
người ta vào đây tìm giết chị, từ ngoài đó lần mò vào tận trong này để tìm giết
người ta lại còn hô hoán là sao người ta thích chém giết mình, thật kỳ lạ. Cũng
trong cuốn nhật ký, Thùy Trâm than phiền là phấn đấu đã lâu nhưng chưa được kết
nạp đảng, đây cũng là lý do vì sao Thùy Trâm đi B, cố gắng trong công tác để chỉ
mong được đảng kết nạp, chị Nở có biết cô ta mong được kết nạp để làm gì không,
thưa là để có cơ hội được làm lớn, có đảng mới được làm lớn, có làm lớn thì mới
có quyền và có tiền, bây giờ cả cái nước Việt Nam này, đảng Cộng Sản thi nhau
vơ vét tiền bạc của người dân, chúng giầu lắm rồi, hồi trước mị dân, chúng đem
những người giầu có ra đấu tố, gọi họ là địa chủ, giờ thì ai đấu tố chúng? Thùy
Trâm này nếu mà không chết và giả như có ô dù, giờ có thể là bộ trưởng y tế hay
làm giám đốc một bệnh viện nào đó thì cũng là những con giòi, con bọ đang tham
gia đục khoét thân thể Việt Nam.
Cũng
là cái chết nhưng chị chết trong vòng tay người chồng, có mồ yên mả đẹp, có
nhang, có khói, tội cho cha mẹ cô Thùy Trâm, không biết nắm xương khô con giờ ở
chỗ nào, họa chăng là cái bàn thờ với tấm hình cô ấy mà thôi.
Bốn
mươi năm đã qua, bây giờ nhiều thay đổi lắm rồi chị Nở ạ, ông thiếu úy trẻ năm
xưa giờ là ông cụ già rồi, vẫn khó tính như trước và đang phiêu bạt nơi xứ người,
thượng sĩ Hội đã mất, Nở từ ngày đào ngũ tôi không gặp lại, chắc đã có vợ khác.
Xin được tạ lỗi cùng chị là đã không giữ được đất nước để rơi vào tay quân thù,
thật không xứng đáng với sự hy sinh của chị, chúng tôi làm mất nước không phải
vì hèn kém, không chiến đấu, mất nước vì bị phải mất nước.
Quên
kể cho chị nghe, mấy tháng sau ngày chị mất, vũ khí được tối tân hóa, những cây
Garand cổ lỗ sĩ được thay bằng súng M16, còn cây đại liên 30 nặng chình chịch
chị biết đấy, thay thế bằng đại liên M60, nhẹ hơn, bắn nhanh hơn và không hay bị
kẹt đạn nữa chị Nở ạ. Thôi tất cả đã qua, chúng tôi vẫn không bao giờ quên những
người đã hy sinh vì mảnh đất miền Nam thân yêu, không bao giờ quên được những
gương chiến đấu dũng cảm của quân và dân trong việc chống lại quân Bắc phương
xâm lược, hôm nay ngồi viết lại những hàng chữ này như được thắp nén hương
trang trọng cho chị, thưa chị Nở.
trần như xuyên
===================================================