người nước tần
Trương Ðạm Thủy
Chín Kèn vớ được bà góa phụ giàu có chủ cửa hiệu bán quan tài Lạc
Cảnh coi như mồ mả ba đời đã phát. Chín Kèn vốn là nhân viên trong phường bát
âm của bà Lạc Cảnh. Đám ma nào cũng cần phải có cây kèn đưa hơi của lão thì
người khóc khóc mới ngon. Chính hồi ông Lạc Cảnh qua đời tiếng kèn của Chín Kèn
làm bà khóc đến cạn nước mắt. Từ đó, hình ảnh lão Chín đã in vào mắt bà, khó
rứt ra được. Đêm ngồi cạnh chiếc quan tài đỏ khói hương nghi ngút, lão Chín mặc
cái áo thun cháo lòng trên lưng phủ chiếu lệ chiếc áo dài đen cho phải lẽ, ngồi
nhăm nhi cốc rượu đế. Con mắt đỏ quanh năm vì thức hết đám tang này sang đám ma
khác, lão Chín cũng như một bóng ma âm thầm. Chỉ đến khi có khách đến phúng
viếng thì đôi vai lão Chín mới linh động, nâng kèn lên nhấp nhấp lưỡi gà, đi
một điệu nam ai trời sầu đất thảm mời gọi những giọt lệ bi ai.
Nghề của lão là nghề cha truyền con nối. Lão Chín học nghề của cha
lúc lão mới 18 tuổi, vậy mà nay lão đã “ngũ thập tri thiên mạng” rồi. Do cái
nghiệp của nghề nên lão biết uống rượu rất sớm. Lão thường chép miệng: “thiếu
rượu, tôi làm sao thổi có hồn? hồn tôi có trong rượu, đời nghệ sĩ mà”. Đời nghệ
sĩ như vậy nên lão chẳng có vợ con, nhà cửa. Hồi đó, lão được bà Lạc Cảnh cho ở
bên phần trại chứa quan tài, trên một cái gác xép. Chuyện lão Chín Kèn kể chẳng
biết có thật hay phịa. Lão nói chỉ cần hai ngày mà tiệm chẳng bán được cái hòm
nào thì chính bà Lạc Cảnh chỉ thị cho lão vào lúc nửa đêm – sau màn rượu thịt ê
hề – phải độc tấu mấy khúc nam ai, văn thiên tường, sao cho mùi mẫn thì thế nào
sáng hôm sau cũng có người đến mua quan quách. Tiếng kèn của lão thiêng như thế
nên dù lão thường bê bối, say sưa, chẳng bao giờ bà Lạc Cảnh xử tệ với lão.
Những lúc vui miệng Chín Kèn thường kể chuyện về ông Lạc Cảnh. Lúc còn sinh
tiền ông ấy không mấy ưa lão Chín. Ông thường chê lão Chín ở dơ, nhậu bầy hầy.
Những đám tang kéo dài nhiều ngày lão Chín chỉ quanh quẩn cái phản nơi ban nhạc
đóng đô để hành lễ. Vào những ngày ấy lão Chín nhậu tà tà, hút thuốc liên miên
do gia chủ cung phụng dài dài. Có mấy khi lão được tắm rửa trong những ngày dật
dờ khói hương đó. Về đến căn gác xép như cái ổ chuột là lão lăn vào ngủ có khi
cả hai ngày đêm. “Vậy mà chẳng hôi bẩn sao được?”, lão Chín nhăn nhó phân bua.
Nhưng sau ngày ông chủ Lạc Cảnh qua đời thì hiệu Lạc Cảnh chuyên lo mai táng
làm ăn phất lên. Bà Lạc Cảnh giỏi giang chuyên bao thầu trọn vẹn cho các người
chết ở một bệnh viện. Bà lo hết mọi thủ tục hành chánh cho người chết từ cung
cấp quan quách, âm công, nhạc lễ đến đất đai chôn cất. Do vậy lão Chín thường
xuyên có việc làm. Có khi liên tiếp gần cả tháng trời lão di chuyển từ đám này
sang đám tang khác mà chưa có một đêm được trở về cái gác xép ổ chuột. Đời nghệ
sĩ cứ dật dờ nửa thức nửa ngủ, nửa say nửa tĩnh tại các đám tang. Đang lơ mơ
tựa lưng vào tường thiêm thiếp vì mệt mỏi, đột nhiên có khách đến phúng viếng
thế là Chín Kèn phải trở dậy nhấc kèn lên.
Lần đó, sau 20 ngày liền phục vụ ma chay, Chín Kèn tơi tả trở về
và nằm liệt giường. Lão Chín lơ mơ nghe tiếng kèn của lão thổi bi ai thống
thiết cho chính đám tang của lão. Đó là một đám tang kỳ quặc. Người chết nằm
thao láo hai con mắt trong cái quan tài trong suốt giống Chín Kèn y hệt. Còn
người thổi kèn bài nam ai, khóc hoàng thiên thì lại cũng chính là lão. Bài kèn
đưa hơi ai oán não nùng, vậy mà mụ mặc áo tang, nom rất giống mụ Lạc Cảnh, lại
cười sằng sặc trông rất quái đản. Khi tỉnh lại Chín Kèn nhìn xuống phía dưới
thấy mươi cỗ áo quan chập chờn dưới bóng đèn tròn đỏ lè. Lão lơ mơ chẳng hiểu
mình còn sống hay đã chết, mồ hôi lão vã ra như tắm. Đột nhiên lão Chín thấy
một cái khăn ướt lạnh nhẹ chạm trên trán lão và giọng nói nằng nặng của mụ Lạc
Cảnh thì thầm : “Anh sốt dữ quá, thấy gì mà la dữ vậy?”.
Lão Chín bây giờ mới nhìn thấy mụ mặc chiếc áo ngủ màu hồng rộng
xùng xình ngồi bên cạnh. Tóc mụ quấn cao, hai cánh tay trần trắng muốt, mụ Lạc
Cảnh vừa nói vừa lau mặt cho lão. Bất giác lão nhìn mụ ngẩn ngơ: “Tôi thấy tôi
chết mà sao tôi lại còn ngồi đó thổi kèn cho tôi. Mà sao bà lại mặc áo tang và
cười sằng sặc rất quái gỡ”. Nghe lão Chín kể ác mộng, mụ Lạc Cảnh cười rúc rích
: “Anh làm như tôi là quỷ sứ mừng sắp được ăn thịt anh. Dậy ăn miếng cháo đi,
chắc anh làm đám liền liền nên kiệt sức. Có muốn từ nay khỏi đi thổi kèn mà vẫn
có tiền bỏ túi không?” Chín Kèn nhếch môi: “Nghề của tôi là thổi kèn, không
thổi chắc phải đi ăn trộm mới có ăn”. Bà Lạc Cảnh đưa miệng kề sát lỗ tai lão
Chín: “Tôi muốn phong chức anh làm ông… Lạc Cảnh được không?”
Chuyện tình của Chín Kèn với góa phụ Lạc Cảnh được lão Chín kể đầu
đuôi gọn nhẹ như thế. Tức là từ cái đêm lão chiêm bao ngầy ngật thấy lão làm
đám ma cho lão cũng là đêm lão làm đời chồng thứ hai của Lạc Cảnh phu nhân.
Cũng kể từ đó lão treo kèn, ngày ngày mặc áo lụa đi quanh xem coi đám thợ đánh
véc-ni mấy cỗ áo quan, hoặc ra vào tán chuyện với bọn âm công lúc nào cũng “ứng chiến” tại cửa hàng mai táng Lạc Cảnh.
Đám âm công, tay đòn đứa nào cũng khen lão tốt số được lọt vào mắt
xanh của bà chủ giàu có. Nhưng lão Chín Kèn thì phiền muộn ra mặt. Lão nói bây
giờ không còn đi làm đám nữa nên đâm ra buồn; mà buồn thì lão lại ưa đi nhậu.
Những tháng đầu tiên đêm say về mụ Lạc Cảnh còn vừa cằn nhằn vừa mở cửa. Sau
này dù có gọi đến khàn cổ mụ cũng nhất định không mở, mặc cho lão nằm ngủ ngoài
hiên.
Nghe vậy thằng Tư Chuyên vỗ trống cơm rù rì chỉ cho lão một bài ca
mà nó học được của một “sư phụ”. Chính bài ca này mà đêm nào về, sư phụ của Tư
trống cơm cũng được vợ mau mau mở cửa cho vào. Đêm ấy, Chín Kèn say vùi. Về đến
cửa hiệu Lạc Cảnh xô cửa ầm ầm vẫn không thấy động tịnh, lão liền ngồi xuống
ngoạc mồm ra mà ca: “ Có một ông nước Tần – suốt ngày cứ lê la – rượu say rồi
ông hát – ai không nghe cóc cần – có một ông nước Tần…” bài hát cứ lập đi lập
lại với điệu bộ vừa hát vừa nhịp vào cửa “có một ông nước Tần; ai không nghe
cóc cần…” làm bà Lạc Cảnh hết chịu xiết đành phải mở cửa cho ông vào.
Song có một điều tệ hại đã xảy ra. Kể từ hôm Chín Kèn thọ giáo với
thằng tư trống cơm bài ca kỳ hoặc ấy thì bài ca nhập tâm không sao rứt ra được.
Đi đâu làm gì lão Chín cũng nghe thấy bài ca ấy vang vẳng trong đầu lão. Lắm
khi đang ngồi uống cà phê tự nhiên nó khiến lão phải hát lên: “Có một ông nước
Tần”. Hoặc nhiều khi đang ăn hủ tiếu câu hát trời ơi cũng tự ý vọt ra khỏi
miệng không sao kềm được. Dần dần Chín Kèn không dám gần ai bởi miệng lão cứ
phải hát đi hát lại mấy câu ca như lên đồng lên bóng ấy. Chỉ có lúc ngủ, mà
hình như lão cũng lãi nhãi trong giấc mơ, Chín Kèn mới tạm rời xa câu hát quỷ
ám. Bà Lạc Cảnh những lúc sau này có vẻ như chán Chín Kèn và tỏ ra trọng đãi
thằng Tư trống cơm hơn. Có mấy lần lão Chín bắt gặp hai người nói gì đó với
nhau dưới bếp và họ cười với nhau rất lả lơi tình tứ. Buồn vì chẳng đủ quyền
hạn gì để ngăn cấm bà Lạc Cảnh tù ti với Tư trống cơm nên lão càng đi nhậu
nhiều hơn. Nhậu say rồi thì lão nhún nhẩy múa máy và hát “có một ông nước
Tần…”.
Một đêm Chín Kèn say vùi về, lão chui vào gian kho chứa quan tài
leo lên căn gác xép lôi bộ kèn cũ ra. Lấy khăn lau bụi, chấm cái lưỡi gà vào ly
rượu. Lão nói với cây kèn làm đám: “Lâu rồi tao không sờ đến mày vì mãi lo mê
bà Lạc Cảnh. Nay tao hết yêu bả mà bả cũng hết yêu tao. Yêu không yêu, tao cũng
cóc cần”, nói rồi lão đưa kèn lên nhấp môi. Rồi lão tỉ tê thổi bài văn thiên
tường, khóc hoàng thiên, chuyển qua nam ai. Tiếng kèn nức nở bi ai như khóc như
than, lúc não nùng, khi ai oán. Hình như lão Chín thổi với hết cả hồn phách,
nguyên khí, tiếng kèn như rút ruột rút gan, máu huyết lão.
Sáng hôm sau sinh nghi bà Lạc Cảnh leo lên cái gác xép và phát
giác “người đàn ông nước Tần” gục chết bên cây kèn thổi đám. Lão Chín đã thật
sự đi về miền lạc cảnh từ đây. Bà Lạc Cảnh ôm lão, nhỏ cho lão mấy giọt nước
mắt rồi gọi đám âm công thu xếp giùm cho lão Chín Kèn một chuyến đi xa…
Trương Đạm Thủy
chopin
No comments:
Post a Comment