add this

Saturday, August 17, 2019

Doãn Quốc Sỹ, hồi ký



Diễn Ðàn Thế Kỷ: Doãn Quốc Sỹ lại trở về
Doãn Quốc Sỹ
chiếc chiếu hoa cạp điều 
Doãn Quc S

Quê tôi cách Hà Nội chừng 5 cây số. Khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ thì gia đình tôi tản cư lên Nhã Nam thuộc huyện Yên Thế, Bắc Giang. Đến năm 1948 khi cậu tôi từ Vĩnh Yên lên thăm chúng tôi lần đầu thì toàn thể gia đình chúng tôi ai nấy đều có màu da nửa vàng nửa xám xịt vì sốt rét rừng.
Anh chị phải cho các cháu tản cư về mạn dưới như chúng tôi - lời cậu tôi nói với thầy mẹ tôi - chứ cứ như thế này thì không chết cũng chẳng còn ra hồn người nữa.
Sau ngót hai năm tản cư gia đình tôi khánh tận rồi. Có lẽ vì nghĩ vậy nên thầy mẹ tôi tìm cách nói thác:
- Ngày xưa vùng Yên Thế Thượng này độc nhưng nay vì có nhiều người lên khai phá nên khí hậu cũng không đáng ngại lắm.
Cậu tôi không chịu:
- Anh chị về Vĩnh Yên gần chúng tôi cho có anh có em, vừa tránh được nạn sốt rét rừng vừa có cơ buôn bán khá. (Dạo đó Vĩnh Yên còn là cửa ngõ của việc thông thương giữa Liên khu III với Bắc Việt).

MAPS of Vietnam → North, South, Railway, Airports ...

Rồi cậu tôi về Vĩnh Yên. Hai tháng sau người lại lên, nhất quyết đón gia đình tôi xuôi, nói là nơi ăn chốn ở đã thu xếp đâu vào đó cả.
Thế là gia đình tôi xuôi Vĩnh Yên, còn một mình tôi ở lại Sở Thông Tin Liên khu III. Công tác của tôi là đi tuyên truyền mười điều kháng chiến trong toàn huyện Yên Thế. Vì lưu động như vậy nên tôi cũng quên đi nỗi buồn gia đình phân cách đôi nơi. Nỗi buồn đó chỉ đến thắc mắc lòng tôi mỗi khi trở về trụ sở kiểm điểm công tác. Trụ Sở Thông Tin ở một làng bên tả ngạn sông Thương, gần một bến đò đẹp vào bậc nhất Bắc Giang, bến đò Lục Liễu. Để tăng phần thơ mộng cho cái tên đó tôi vẫn thường dịch nôm là "Bến đò liễu xanh".
Thư của em tôi tới báo cho hay gia đình đã tới tản cư cùng làng với gia đình cậu mợ tôi. Làng đó ở ngay bến Rau, bên này là Vĩnh Yên, bên kia là Sơn Tây rất thuận tiện cho việc buôn bán.
Rủi thay, thầy mẹ tôi vừa đến Vĩnh Yên thì Pháp mở chiến dịch càn quét khắp vùng Sơn Tây rồi thiết lập thêm đồn quân dọc theo hữu ngạn sông Hồng từ Sơn Tây ngược lên đến Việt Trì. Các ngả đường giao thông với Liên khu III đều bị quân Lê Dương phục kích ráo riết.
Cậu tôi đã rơi vào ổ phục kích may thoát được người. Mẹ tôi phải ngừng chuyện buôn bán.
Nghe nói làng N.H. bên hữu ngạn sông Đáy gần chân dãy núi Tam Đảo là một làng trù mật, chuyên bán đỗ, gia đình tôi bèn chuyển đến đây theo sáng kiến của mẹ tôị; khi tới nơi, mẹ tôi mới thấy rằng mình đã nhầm. Trước đấy một năm thì địa điểm này buôn bán được vì hầu như dân chúng toàn hạt Vĩnh Yên đổ xô về để tránh Pháp tấn công, nhưng nay, tình hình tạm yên ai nấy trở về chốn cũ, địa điểm N.H. trở lại chốn trầm mặt của chốn chuyển tiếp giữa vùng trung du bên dưới với vùng đèo heo hút gió bên trên.

Vừa lúc đó tôi xin thôi ở sở Thông Tin về.
Mẹ tôi mừng lắm vì người vẫn thường nói: "Thời loạn lạc gia đình nên gần nhau nhỡ có thế nàọ...". Hình như trong óc người - có thể nói trong óc mỗi người trong gia đình tôi - đều luôn luôn lo sợ cảnh một người bị chết vì bom đạn rồi mất xác vì gia đình không kịp biết để nhìn nhận. Niềm vui đoàn tụ giúp chúng tôi bớt buồn nản khi thu xếp gồng gánh trở lại huyện Yên Lạc. Lần này gia đình tôi không dám ở gần bến đò Rau nữa vì sợ phi cơ oanh tạc, mà ở một làng cách huyện Yên Lạc chừng gần một cây số. Gia đình cậu tôi ở ngay làng bên. Lẽ cố nhiên cả hai gia đình chúng tôi cùng nghèo túng lắm, nghèo túng đến nỗi cậu mợ tôi, thày me tôi cũng không dám sang nhà thăm nhau, chỉ chiều chiều ra gặp nhau trên quãng đường đá nối huyện Yên Lạc với bến đò Rau.

Tôi gặp lại người yêu cũ từ Phủ Lý (Khu III) chạy lên. Chúng tôi thành vợ chồng, tuy có ký giấy tờ tại Ủy Ban Kháng Chiến Hành Chính Huyện - cậu mợ tôi là những người làm chứng - nhưng đám cưới hoàn toàn êm ả, y như một đám cưới vụng trộm.
Em gái lớn tôi xoay đi buôn gạo, ngày ngày kĩu kịt đi về 20 cây số kiếm chút lãị Ở Yên Thế tuy bị sốt rét nhưng nhà ở giữa rừng ít lo bị địch tấn công bất ngờ; tuy cũng nghèo túng nhưng còn có đất rộng để tăng gia rau cỏ và nuôi được lợn gà.
Về đây những buổi ăn cháo ngô trừ bữa, mẹ tôi thường có ý khép cửa giữa lại.
Em gái tôi đã phải đi chợ thật xa để đong gạo rẻ mà rồi tính ra lời lãi cũng chẳng được là bao. Các cụ giải thích hiện tượng kinh tế này bằng câu: "Thóc gạo có tinh", mẹ tôi làm tương gánh đi các chợ xa bán để kiếm thêm. Vợ tôi tạng người yếu nhưng khéo tay, không làm được việc nặng, nàng phụ trách những việc nhẹ như rang đỗ tương, ủ mốc, pha muối vào nước tương...
Dạo đó trường Luật mở ở gần chợ Me (Vĩnh Yên), tôi có ghi tên theo học nốt năm thứ ba hy vọng ngày thành tài sẽ ra thẩm phán, đồng lương họa có cao để giúp gia đình. Vì hoàn cảnh kháng chiến các giáo sư thường từ nơi xa lại trường sở dạy liền trong mấy ngày, sau đó sinh viên tự tìm tài liệu nghiên cứu thêm. Có khi thời gian nghiên cứu lấy dài hơn một tháng mới có giáo sư mới. Tôi triệt để lợi dụng khoảng cách này để bon về giúp đỡ gia đình những công việc nặng.

Mùa đông năm đó rét lạ lùng. Gió hun hút giật từng cơn buốt như dao cắt từng mảnh thịt hở, thế mà hôm nào mẹ và em gái tôi cũng phải dậy từ bốn giờ rưỡi sáng để sửa soạn gồng gánh ra đi. Quần áo và chăn chiếu của gia đình tôi thiếu mất nhiều. Thằng em thứ ba của tôi có được cái chiếu rách mướp vừa nằm vừa đắp, chân thò ra ngoài thì nó lấy rơm phủ lên.
- "Ấy cứ thế mà ấm ra phết anh ạ" - Nó vừa cười khoái trí vừa nói với tôi như vậy.
Các em trai em gái tôi đã lớn cả, chúng tôi hầu như thường thi đua trong việc nhường nhịn nhau. Mẹ tôi chỉ còn thắc mắc về thằng em út của tôi. Nó còn nhỏ tuổi quá chưa thể tìm nguồn vui ở tinh thần để quên đói rét. Tương đối với cả nhà nó được mặc lành nhất. Nó mặc cái áo đỏ chót có những vệt chữ nho đen và những đường kim tuyến (nguyên đó là câu đối người ta phúng bà tôi hồi chưa tác chiến). Câu đối đỏ thì may áo, còn nẹp xa teng vàng mẹ tôi cố gạn may thêm cho nó chiếc áo di-lê*. Chúng tôi gọi đùa nó là "anh cờ đỏ sao vàng". Đêm đến rét quá không đủ chăn ấm, nó thường khóc khậm khạch. Chỉ cần có thêm đôi chiếu nữa thì cả nhà đủ ấm.
- "Chiếu cói kỵ gió". - Mẹ tôi bảo thế.
Nhưng đến ăn còn chẳng đủ làm sao chúng tôi mua được đôi chiếu bây giờ?
Hôm đó suốt từ sáng sớm đến trưa phi cơ bay từng đoàn bắn phá và dội bom liên tiếp xuống các chợ lân cận: chợ Me, chợ Vàng, chợ An Lạc... Mọi ngày chỉ khoảng bốn giờ chiều mẹ tôi có mặt ở nhà. Ngày đó giời đã xế chiều mà người vẫn chưa về. Toàn thể gia đình tôi bắt đầu sốt ruột tuy không ai nói một câu.

Chiều ngả màu sẫm. Gió bấc rít trong bụi tre già làm nền cho tiếng khàn khàn của lũ quạ lục đục trong ổ, gió bấc xoáy từng vòng cuồng loạn dứt từng vốc lá tre, lá bưởi vàng úa rồi lại nhào vút mất hút ra ngoài cánh đồng bát ngát hiu quạnh.
Mẹ tôi vẫn chưa về.
Trong óc tôi thoáng hiện những cảnh chợ bị phi cơ tàn phá, những hình người không kịp xuống hầm bị đạn chết gục bên cột lều tay còn quờ ôm những đồ hàng của mình, những hình người bị bom napalm thiêu rụi như những thân chuối cháy đen... Và tôi vùng ra cổng.
Thày tôi biết ý hẹn với:
- Con cứ thẳng đường ra bến Rau. Mẹ con thường về đường ấy.
Ra tới cổng làng, tôi đi như bay theo đường đã định, cổ họng nghẹn ngào, dạ cồn lên như lửa đốt. Con đường như rộng thênh thang, cánh đồng ngập trong bóng chiều xẫm và trong gió bấc, càng trở thành mênh mông. Tôi vun vút nhảy qua các hố phá hoại mà đi như một bóng ma cô độc đương muốn biến theo luồng gió.
Từ xa như có bóng người đi lại. Chắc người đó ở chợ Rau về. Để tôi phải hỏi tin tức về việc phi cơ oanh tạc hôm nay.
Hình như trên đòn gánh người đó có vắt ngang một cái gì.
Tôi lướt vội lên. Trời ơi, mẹ tôi!


Hai mẹ con mừng mừng tủi tủi như gặp nhau ở cửa âm ti.
Tôi hỏi: "Sao mẹ về muộn thế, cả nhà lo tưởng phát điên lên". Mẹ tôi cho biết hàng hôm nay bán ở chợ không hết, người phải đi sâu vào một vài làng lân cận để bán nốt. Rồi khi xuống khỏi đê, qua cái lạch lớn, thấy có chiếc chiếu trôi, vội tìm cách vớt lên và giặt luôn bên lạch. Đó là chiếc chiếu còn khá tốt tuy chiều rộng bị xén đi mất một phần ba.
Mẹ tôi chỉ vào chiếc chiếu phơi trên đòn gánh nói:
- Về đến nhà thì chiếu vừa khô con ạ. Tối hôm nay thằng Tư - tên thằng em út tôi - có chiếu đắp ấm.
- Mẹ ơi, "giàu con út, khó con út", mẹ chẳng để ý gì đến chúng con, chỉ chăm chút cho chú Tư thôi.
Mẹ tôi đi trước, gió ngược chiều nên tiếng tôi mất hút về phía sau. Tuy nghe tiếng được tiếng không, mẹ tôi vẫn hiểu câu nói đùa. Người vừa giữ cái chiếu vừa quay nhìn tôi mỉm cười.
Tối hôm đó khi đi ngủ thằng chú Tư được mẹ tôi đắp cho chiếc chiếu vớt ở lạch. Chân nó thò ra một tí khiến tôi nhận thấy chiếc bí tất cũ vàng xỉn của tôi, chỗ đầu rách được buộc túm lại để các ngón chân xinh của nó khỏi "thoát ly" ra ngoài.

Dạo đó chỉ còn một tháng nữa là tết. Tôi lại có dịp tạm rời trường Luật, đợi đến qua giêng mới có giáo sư. Tôi về vừa đúng lúc gia đình đương cần nhân công xay thóc giã gạo. Vốn của gia đình tôi còn đong được năm nồi thóc. Dùng số tiền đó làm tiền đặt, mẹ tôi có thể đong về được tám nồi. Theo như mẹ tôi tính mỗi nồi thóc làm được lợi ít ra là hai ca gạo, vị chi với tám nồi thóc, chúng tôi sẽ lợi ít nhất là một nồi rưỡi gạo. Cứ như vậy mà đủ việc liền trong một tháng, nghĩa là vừa đến tết, thì chúng tôi có thừa tiền đong gạo nếp gói bánh chưng và mua thịt cá để đón một mùa xuân kháng chiến tương đối huy hoàng.
Chúng tôi sắp xếp ổn thỏa với các nhà có cối xay cối giã rồi bắt đầu vào việc. Thầy tôi trông nom mấy đứa nhỏ sửa soạn cơm nước. Tôi và thằng em giai xay thóc trong khi mẹ tôi điều khiển vợ tôi và cô em gái sàng gạo. Xay hết thóc chúng tôi đã có gạo đem đi giã, giã đến đâu mẹ và em tôi sàng tấm sẩy cám đến đấy. Trong khi xay thóc tôi nhẩm ôn các đạo luật, các án lệ để sửa soạn kỳ thi cuối niên khóa. Khi giã gạo với vợ, tôi cùng nàng thủ thỉ xây mộng tương lai. Ngày kháng chiến thành công hẳn chúng tôi đã có những đứa con kháu khỉnh, đã trở về quê hương dựng lại căn nhà xinh, sống tự do bình dị trong tổ ấm gia đình.
Ngày đầu chúng tôi làm được tám nồi thóc với số gạo dư là hai nồi. Một cụ già ở đấy gật gù nói: "Vạn sự xuất ư nho, đúng thật. Học trò thì cái gì cũng làm được. Cứ bảo người Hà nội không chịu được lam lũ!"
Ngày hôm sau có tin Pháp đánh lên Vĩnh yên. Những người có thóc giữ lại. Mẹ tôi phải vất vả lắm mới mua được bằng giá khá cao sáu nồi thóc để chúng tôi có việc làm.

Pháp chiếm Vĩnh Yên. Tiền Hồ Chí Minh sụt giá vùn vụt. Vẫn số tiền cũ giờ đây chưa chắc mẹ tôi đã mua nổi bốn nồi thóc.
Quân Pháp theo sông đào tiến lên chiếm chợ Me. Dân chúng xao xác chuẩn bị chạy. Số tiền trong tay mẹ tôi hầu trở thành giấy lộn. Chúng tôi ăn một bữa quà bánh đúc, lúc giả tiền thấy vợi hẳn túi. Viễn ảnh những ngày đầu xuân có gạo nếp, có thịt gà, thịt lợn bị giập vùi trong khói súng và biến thành một điểm mong manh chết đuối giữa cảnh tàn phá rùng rợn của bom đạn tơi bời cha lạc con vợ lạc chồng, anh em tán loạn mỗi người một phương.
Dạo đó tuy đã có phong trào "rèn cán chỉnh cơ" nhưng chưa có cố vấn Tàu, chưa có chính sách "ba cùng", học tập đấu tố nên mặc dầu kinh tế nguy ngập ai nấy vẫn tin tưởng ở ngày mai huy hoàng của dân tộc, tin tưởng ở thắng lợi cuối cùng dưới sự lãnh đạo sáng suốt của già Hồ (như lời tuyên truyền phát thanh chiều chiều).
                                                                                 de Lattre de Tassigny
SCOOP / Mensonge d'Etat: Assassinat du Général Jean-Marie ...
Sang hạ tuần tháng chạp, suốt ngày mưa phùn gió bấc lạnh như cắt ruột. Không hiểu là vì rét nhiều hơn hay là vì chúng tôi đã bắt đầu giảm khẩu phần! Chiếc chiếu mẹ tôi vớt ở lạch đắp cho thằng em út đã rách xơ xác. Trong khi gia đình tôi giật gấu vá vai tìm cách nhường nhau miếng cơm manh chiếu thì xảy cuộc hỗn chiến giữa quân đội Pháp và quân đội Kháng Chiến ở chân núi Tam Đảo. Để giữ vững ưu thế quân sự về mình tại mặt trận Vĩnh Yên, tướng Pháp De L. ** quyết định hy sinh đoàn quân hắn, và hạ lệnh cho thả bom tận diệt đôi bên.
(Trong cái điên đảo của một cuộc thế lọc lừa phản trắc, người ta dày xéo lên tình người, điềm nhiên hy sinh xương máu đồng bào đồng loại nơi này cho quyền lợi thực dân, nơi kia cho học thuyết giai cấp. Tôi không ghê tởm những bộ mặt lãnh tụ như chúng sao được?)
Từ chân núi Tam Đảo quân Pháp đánh tỏa ra ba mặt, đồng thời từ hữu ngạn sông Hồng, một toán Lê Dương vượt sang càn quét bến Rau ở tả ngạn. Dân chúng từ bốn mặt chạy về huyện Yên Lạc, đổ xô vào các làng. Mẹ tôi bèn thổi cơm hàng gánh đến bán cho họ.


Trong số rất đông các người ở làng Rau mang đồ đạc chạy đến làng Lũng Thượng, có gia đình ông Lý Cựu vốn là bà con với ông chủ nhà nơi tôi tản cư. Ông Lý nói chuyện với thầy tôi rất tương đắc nhất là khi ông biết tôi đương học trường luật thi ra thẩm phán.
Ông nói:
- Tôi có thằng cháu năm nay lên sáu; giời cho làm người, sau này kháng chiến thành công, tôi nhất định sẽ gởi cháu lên Hà Nội phiền ông bà và cậu Cả trông nom giúp cho thành thân người.
Quân Pháp sau khi từ chợ Me vượt qua sông Đáy tiến sâu vào huyện Lập Thạch đốt phá một ngày rồi rút lui về tỉnh. Cánh quân tiến sang tả ngạn sông Hồng đốt phá bến đò Rau cũng rút lui về vị trí cũ bên hữu ngạn. Dân chúng chạy loạn lục tục đâu trở về đấy ngay để còn kịp sửa soạn tết.
Làng Lũng Thượng trở lại yên tĩnh.

Trưa hôm đó mẹ tôi ra phía bụi tre đầu nhà thấy cong queo dưới hầm trú ẩn một chiếc chiếu hoa cạp điều. Đúng là chiếc chiếu của một gia đình chạy loạn nào khi về mừng quá bỏ quên.
Mẹ tôi nói: "Thôi thế cũng là giời thương mà cho nhà mình!"
Đã lâu lắm, đêm đó tôi mới thấy thằng em út tôi có chiếc chiếu đắp kín chân không trông thấy đôi bí tất buộc túm chỗ rách. Sáng ra, mẹ tôi cẩn thận gấp chiếu rồi vắt lên chiếc giây thừng căng cao ngang mái nhà. Thế là từ đây đêm đêm nghe tiếng gió rít và những hạt mưa táp vào đầu hồi tôi cũng yên chí cho các em đã tạm đủ chiếu nằm, chiếu đắp. 
Hai ngày sau, tới buổi sớm ba mươi tết, khi sực tỉnh, tôi thấy không khí trong làng có vẻ tưng bừng hơn vì những tiếng bàn tán xôn xao xen với tiếng cười ròn rã ngoài đường xóm. Tôi vùng dậy ra thẳng ngõ. Trời tuy lạnh ngọt nhưng quang đãng và êm ả vô cùng. Tôi gặp mọi người mắt ai nấy sáng sáng ngời tin tưởng. Thì ra ở khắp các tường làng đều đã kẻ khẩu hiệu:
"Chuẩn bị tổng phản công".

Đồng bào thủ đô bàn nhau ngày về nhận nhà nhận cửa, đồng bào địa phương hơi có vẻ ngậm ngùi tưởng như giờ phút chia tay đã điểm.
Buổi trưa hôm đó ông Lý Cựu từ làng Rau mang theo vài thứ xa xỉ phẩm làm quà biếu ông chủ nhà vào dịp tết. Ông Lý Cựu có xuống căn nhà dưới thăm thầy tôi. Câu chuyện vừa xong phần xã giao thường lệ thì ông ngửng nhìn thấy chiếc chiếu hoa cạp điều vắt ở giây thừng, ông đứng nhỏm dậy chạy lại kéo tuột xuống nói gọn:
- Chiếc chiếu này của tôi.
Mẹ tôi chợt có một cử chỉ phản ứng của một người mẹ gìn giữ con trong cơn nguy biến.
Người nói:
- "Ấy chiếc chiếu đó của nhà tôi..."
Mẹ tôi vốn là một Phật tử trung thành. Người chỉ nói được đến đấy thì lương tâm Phật tử trở lại và người lúng túng quay nhìn ra ngõ.
Ông Lý Cựu thản nhiên gấp chiếu lại, cắp gọn nách rồi thản nhiên nói:
- Không, chiếc chiếu của tôi. Tôi mua đôi chiếu cặp điều từ năm mới tác chiến, một chiếc còn trên kia.
Thì ra đôi chiếu đó, ông Lý mang đến gửi ông chủ nhà trong dịp vừa qua, rồi những người đến chạy loạn tự động mượn đem ra giải ở bụi tre nghỉ tạm, lúc về vì chiếu rơi xuống hầm trú ẩn nên họ quên không trả lại chỗ cũ.
Tuy chỉ một thoáng qua nhận biết sự thể là vậy, tôi vẫn chưa chịu và tiếp lời mẹ tôi:
- Chiếc chiếu này mẹ mua của một người ở chợ Lầm. (Ý tôi muốn nói người đó lấy chiếc chiếu ở đây mang ra chợ Lầm bán).
Ông Lý vẫn thản nhiên, thản nhiên một cách cương quyết:
- Không, chiếc chiếu này của tôi.
Rồi ông cắp chiếu đi thẳng lên nhà. Lúc đó tôi cũng vừa trở lại với tôi để nhớ ra rằng cuối năm nay tôi đã thi xong, có thể ra làm thẩm phán. Tôi thoáng nghe phía sau tiếng vợ tôi thở dài rồi quay vào buồng.

Tối hôm đó khi thấy tôi lấy chiếc chiếu rách cũ vớt ở lạch đắp cho thằng em út, mẹ tôi chép miệng nói khẽ:
- Thôi, sang giêng trời bắt đầu ấm, vả lại cũng sắp tổng phản công rồi!
"Vả lại cũng sắp tổng phản công rồi!" - mẹ tôi nghĩ thật chí lý. Tổng phản công để bờ cõi được vinh quang độc lập, để mọi người được trở về dựng lại quê hương yên vui.
Tôi hiểu khi đó hầu hết các gia đình khác cũng như chúng tôi, chịu đựng bao nhục nhằn với những phút sa ngã nhỏ như chuyện chiếc chiếu hoa cạp điều. Tất cả những hy sinh đó - kể cả hy sinh một chút danh dự cho sự yếu đuối thường tình của con người - tuy dằn vặt, ray rứt mà không tàn phá nổi niềm vui trong sáng, thanh thản của tâm hồn, vì ai nấy vẫn sống ngợp hy vọng một ngày mai vinh quang.


Sớm mùng một năm đó mẹ tôi ra chùa lễ. Người quỳ rất lâu trước bàn thờ Phật. Giọng người thành kính thiết tha cầu đức Phật phù hộ cho chóng trở lại ỵên bình, gia đình được qua thì đói khỏi thì loạn.
Tiếng người khấn đôi khi nức nở. Tôi nghe, nước mắt như muốn trào ra.
Cộng sản dìm nhân loại trong thiếu thốn để chứng minh nguyên lý "Vật chất quyết định hết thảy". Chúng lầm! Con người càng từng trải cảnh thiếu thốn vật chất, niềm tin và đạo đức càng được hun đúc và tình cảm thêm dạt dào. Sau này khi về vùng quốc gia, rồi di cư vào Nam tôi còn trải qua nhiều gian lao nghèo túng và nhiều lần bị khinh rẻ, nhưng dù nghèo túng đến đâu, dù bị khinh rẻ đến đâu, điều đau nhục nhất với tôi vẫn là chuyện chiếc chiếu hoa cạp điều, tuy thực tình câu chuyện chỉ giản dị có vậy.

Cách đây ít lâu khi mua được đôi chiếu hoa Phát Diệm ở đường Hai Mươi về giải lên phản cho con nằm, tôi thấy vợ tôi chợt úp mặt vào hai bàn tay trước bàn gương. Có lẽ nàng nghĩ đến câu chuyện chiếc chiếu hoa cạp điều khi xưa. Chuyện đó như biến thành chiếc phao sẫm màu, bất chấp mọi giông tố vẫn nổi lềnh bềnh trên biển, biển thời gian của đời, biển kỷ niệm của hồn. Cũng kể từ sau ngày xảy chuyện đó, thái độ tôi đối với người đời khác xưa nhiều. Tôi thận trọng tránh mọi thái độ hẹp hòi, kiêu ngạo, ích kỷ, sắc cạnh. Lòng dễ xúc động, tôi thương người như thương chính thân mình vậy. Tôi thương những em nhỏ sớm phải lăn lưng vào cuộc đời để tự nuôi sống, tôi thương những người đói khát ham ăn ham uống, tôi thương những hình ảnh lam lũ một sương hai nắng, những hình ảnh giật gấu vá vai, tôi thương những “kẻ thù dân tộc” hôm qua, ngày nay thất thế ngơ ngác đi giữa kinh thành.

Ở thế giới thực dân tư bản người ta tung vật chất ra để giam lỏng linh hồn. Ở thế giới thực dân cộng sản, người ta phong tỏa vật chất để mua rẻ linh hồn. Cả hai cùng thất bại! Linh hồn nhân loại chỉ có thể mua được bằng tình thương yêu rộng rãi và chân thành.

Thấy tôi hằng kiềm chế được nóng giận và nhất là vẫn mỉm cười, khi ứa nước mắt các bạn bè thân thường khen tôi có thái độ hồn nhiên của Trang Chu.
Các bạn yêu quý của tôi! Các bạn có ngờ chăng thái độ hồn nhiên đó là kết quả của biết bao cảnh cơ hàn mà tôi và những người thân của tôi đã trải qua, trong đó có chuyện chiếc chiếu hoa cạp điều!

Ghi chú của blogger
 *gilet  ** Jean de Lattre de Tassigny

=================================================
Dốc Mơ, Ngô Thụy Miên, Ngọc Lan
================================================



Saigon thuở nào, chạy trên Công Lý ở góc Hồng Thập Tự

Wednesday, August 7, 2019

ai giết CS Nga


Reagan và Gorbachev

 









ai giết cng sn Nga?
Who Killed Soviet Communism?
Theodore H. Draper, ttt dịch

Điều khó hiểu về cộng sản Nga là tại sao cáo chung một cách bất ngờ. Với một hệ thống kiên cố như vậy, người ta nghĩ nó bị ám sát. Thật ra nó sụm như một ngôi nhà sụm tại chỗ; giới nha lại cầm quyền thoát chết an toàn và nay nhảy vào vận hội mới tiếp tục làm ăn. Sự sống của CS Nga không đặt thành câu hỏi khó khăn như cái chết của nó.
Đã bao lần câu hỏi nầy được nêu. Trong ấn bản mới đây (1992) của tờ Foreign Affairs, Seweryn Bialer, một chuyên gia kỳ cựu về Nga, sau khi nêu Gorbachev là khuôn mặt trội yếu vào năm 1985, đã tự hỏi chuyện gì xẩy ra trong hơn sáu năm từ ngày đó đã đưa đến sự phân hoại Liên Xô và sự cáo chung CS Nga thay vì đem lại sự “cứu rỗi” bằng một cuộc cải cách triệt để sâu rộng. Lời giới thiệu tuyển tập về Nga và Đông Âu trên báo World Politics thuộc đại học Princeton hỏi thêm vì sao các lý thuyết tiên đoán của giới học thuật Tây Phương đã không chuẩn bị đủ để dân chúng khỏi ngạc nhiên.
Sự sụp đổ nầy là một biến cố đặc hữu xẩy ra trong thời gian Gorbachev cầm quyền. Đó là điểm tận cùng của bảy thập niên cai trị của Xô viết. Những bài phân tích trong ngành Nga học gồm những bản liệt kê những bất ổn, ví dụ mất quân bình giữa sản xuất quân sự và dân sự, tham nhũng và vô hiệu năng của nha lại, những vấn đề “quốc gia” của các cộng hòa thành viên Liên Xô v.v…Nhưng không ai kỳ vọng một sự sụp đổ bất thần.
Thời gian trước khi Gorbachev xuất thân lãnh đạo chính trị, Nga tuy mệt mỏi vẫn là một quốc gia hùng mạnh, lụn bại về kinh tế nhưng vững mạnh về chính trị. Đó là hình ảnh Nga dưới con mắt của giới nghiên cứu. Gorbachev tin rằng ông sẽ phải cải cách một hệ thống đang đau xương mỏi chắc nhưng không có nguy cơ tan rả. Phải làm cho nó mạnh mẽ chứ không phải hất cẳng nó. Trong một bài biện bạch gần đây, ông viết: “lúc ấy chúng tôi chưa nhận định ngay được sẽ phải đi bao xa, phải thay đổi sâu rộng đến mức nào”. Gorbachev đi tới từng bức một, không những vì lý do chiến thuật mà còn vì ông nghĩ hệ thống có thể thay đổi từ bên trong.
Bên trong có nghĩa là hệ thống hoàn toàn do đảng CS kiểm soát. Dù lúc suy hay lúc thịnh, từ Lenine đến Staline đến Khrushchev, một mình đảng giữ sức ly tâm không làm tung vỡ quốc gia phức tạp đa dạng nầy.
Cuộc cải cách của Gorbachev được khơi nguồn từ bài học về một cuộc khủng hoảng trong lịch sử. Năm 1921, Lenine trực diện một sự suy sụp kinh tế, hậu quả của đường lối “CS đấu tranh thái quá” (war communism). Để cứu chế độ CS “nằm trên bờ vực thẳm”, - chữ của Lenine – ông đưa ra chương trình cải cách gọi là Chính Sách Kinh Tế Mới gồm những điểm chính sau đây. Để thúc dục nông dân sản xuất nhiều hơn, chương trình cho phép họ bán nông phẩm trên thị trường tự do. Chương trình phục hồi sản xuất vật phẩm, cho phép khu vực tư hoạt động trong lãnh vực dịch vụ và kỹ nghệ nhẹ, khuyến khích thành lập công ty hổn hợp giữa chính quyền và doanh nghiệp ngoại quốc. Chính sách nầy thành công, và nhờ đó Nga tránh khỏi nạn đói đang đe dọa.

Image result for books by gorbachev


Nhưng sự giống nhau giữa chương trình nầy và kế hoạch của Gorbachev ngưng ở chỗ nầy. Năm 1921, các đảng chống đối vẫn cố sức cầm cự duy trì sự hiện diện mong manh của mình. Phe cách mạng tả khuynh và Menshevik xưa nay chống đường lối CS đấu tranh tìm cách lấy lợi thế từ sự thay đổi đột ngột nầy. Tháng ba 1921, Lenine quyết định tuyên bố phi pháp mọi sự đối lập trong và ngoài đảng. Đây là phút khai sinh chính thức nền độc trị đảng-nhà nước. Lenine đã phối hợp chính sách thí nghiệm giới hạn về kinh tế và trật tự chính trị độc tài tuyệt đối. Như vậy ông củng cố đảng cho vững mạnh cùng lúc thay đổi tạm đường hướng tổng quát.
Ngay cả bây giờ, Gorbachev không thể tẩy trừ ý kiến cho rằng lý thuyết Lenine trước thời Staline là một đường về đất hứa. Nhưng ông không thể theo chân Lenine. Gorbachev muốn cải cách kinh tế nhưng về chính trị ông phải làm khác mới đạt kết quả mong muốn. Sự khác biệt nầy cho thấy đường của Gorbachev khúc khuỷu, gồ ghề. Không thể làm như Lenine là củng cố đảng, trái lại muốn khai thông nền kinh tế tắt nghẻn, phải làm cho đảng yếu đi.
Điểm nầy Gorbachev giải bày rõ ràng trong cuốn sách mới đây: Ngay từ khi có cuộc khủng hoảng do sự chuyển hóa triệt để xã hội gây ra, tôi cố sức ngăn chận mọi bùng nổ nguy hại xuất phát từ các mâu thuẩn. Tôi đã làm những quyết định chiến thuật để tạo dựng cơ sở vững chắc cho tiến trình dân chủ, ngõ hầu xóa bỏ đường lối cũ và làm cho dân chúng tha thiết với những giá trị mới. Nói gọn, tôi muốn đưa xứ sở đến một giai đoạn mà mọi cố gắng cướp chính quyền đều thất bại. Mục tiêu chính yếu của tôi, tuy khó khăn, là tiếp tục đà cải cách theo các đường hướng chính trị hiến định.
Lời nói nầy cho thấy rằng khởi thủy ông đã nghĩ có thể thi hành cải cách trong khuôn khổ truyền thống của đảng và tầng lớp cán bộ. Ông công nhận đã theo chính sách thỏa hiệp để duy trì đoàn kết đảng. Gorbachev vô đảng năm 21 tuổi và sống trong đảng suốt thời gian trưởng thành. Trước khi nắm toàn quyền năm 1985, ông đã đầu tư 33 năm để leo từng nất thang hệ thống nha lại. Ông đưa ra chính sách cải cách đảng và xã hội là cốt hoàn tất sứ mệnh của đảng chứ không phải tiêu diệt đảng. Chương trình hành động của ông là tự do hóa chính trị trong hệ thống độc đảng và cải cách kinh tế trong khuôn khổ XHCN. Gorbachev còn nợ câu trả lời cho câu hỏi lịch sử to lớn nầy: phải chăng sự tự do hóa chính trị có thể đi cùng hệ thống độc đảng, phải chăng cải cách kinh tế có thể đi chung với tình trạng XHCN lụn bại trên xứ nầy?
Gorbachev phải đến chỗ công nhận rằng ông đã nới gọng kềm của đảng mới đi tới được. Hành động đầu tiên là cố sức lấy hệ thống hành chánh (nhà nước) thay cho guồng máy đảng. Nhưng mà đảng đã ở trong mọi hóc hẻm của hệ thống nha lại. Ông vẫn tiếp tục cắt giảm uy quyền của đảng; nhưng những con đường xâm nhập mới nầy chỉ đẩy nhanh sự tang vỡ cuối cùng. Ông phải dựng lên những định chế mới những cấu trúc mới song song với hệ thống đảng; những thứ nầy lại chưa bám rễ vào khung cảnh chính trị chung của xã hội đương thời mà dấu chân quá khứ chưa phai mờ.

Image result for gorbachev cartoon
Cố gắng nhiều tham vọng nhất của Gorbachev trong việc cải cách chính trị là một lai tạo, vá víu vào năm 1989. Đó là việc thành lập Viện Dân Cử gồm 2.250 thành viên được bầu cử rộng rãi. Viện chọn 542 vị làm thành Hội Đồng Xô Viết Tối Cao, một năm họp hai lần. Các sự sắp xếp bên trong làm cho các tổ chức đảng có một phần ba số phiều đủ để phủ quyết mọi quyết định của chính phủ. Mặt khác cho đến cuộc đảo chánh bất thành 1991, bộ chính trị, trung ương đảng, quốc hội và mọi thứ khác vẫn còn nguyên. Gorbachev đứng đầu cả hai nhánh của hệ thống lưỡng quyền kỳ dị nầy, một mặt gây phẩn nộ của đám trung kiên cũ của đảng, một mặt gây ngỡ ngàn cho các nhà lập pháp mới ra lò chưa kinh nghiệm nghị trường.
Sự bất mãn vừa nêu đã biểu lộ công khai qua hai cộng sự viên chính của Gorbachev. Nikolai Ryshkov, chủ tịch hội đồng nội cát, phê bình hiện trạng đã đưa đảng CS vào vị trí thứ yếu trong đời sống chính trị quốc gia. Trong lúc ấy, Yegor Ligachev, đứng hàng nhì sau Gorbachev, đã công khai bênh vực lối cũ. Ông nói: chế độ đa đảng sẽ làm liên bang vỡ nát, vì đảng CS là sức mạnh chính trị duy nhất đủ sức đoàn kết mọi dân tộc thành một liên hiệp cộng hòa.
Nhưng Gorbachev quan niệm khác. Ông nói: cải cách chính trị phải được thực hiện trong một cách nào đó có thể đưa đến sự tương lập giao thông qua về: phải gia tăng vai trò của đảng như một người lính bảo vệ xã hội, đồng thời phải gia tăng và củng cố vai trò và quyền uy của guồng máy cai trị. Hai phía dính vào nhau.
Quan niệm liên hoàn đảng-chính quyền không đứng vững. Ông thừa nhận rằng ngay khi ông phát biểu như trên, tại đại hội đảng thứ 19 năm 1988, nhóm theo đường lối Staline đã nhất thiết đòi hỏi trở về đường lối xưa. Chẳng may lập trường ấy mở màn sự sụp đổ của đảng và chính quyền xô viết. Biện pháp nửa vời của ông tạo ra một đảng CS mất tinh thần mất nhuệ khí và một nền cai trị lủng củng.
Mãi cho đến sau cuộc đảo chánh bất thành, Gorbachev mới mất hết mọi hy vọng cải cách đảng. Biến động nầy hình thành bởi những thủ hạ của đảng do chính ông chọn để làm việc trong chính phủ, quân đội và tình báo KGB.
Chính sách “thăng bằng” chỉ giúp ông một giai đoạn. Cách thức thi hành của ông là đứng biệt lập đối với mọi nhóm, mọi khuynh hướng, cho đến khi tình thế và những thủ hạ ông chọn đã quay lại chống. Ở vào giai đoạn cuối nầy, người hùng cô đơn của chúng ta đã là quá sức dân chủ không thể thành CS, đồng thời quá sức CS không thể thành dân chủ. Gorbachev, bi đát, trở thành nạn nhân của thành công và thất bại của chính mình.
Sự sụp đổ đã cứu sống một số người chưa biết là bao đã phải thiệt mạng nếu chế độ CS bị lật đổ bằng bạo động. Nhưng trong các cuộc cách mạng truyền thống, chính quyền mới, tuy phải thử thách một thời gian để hình thành một chương trình chính trị và kinh tế, không bị cầm chân bởi cơ quan lập pháp của chế độ cũ như Yelsin hiện gặp.
Sau rốt, Gorbachev hối tiếc ân hận đã kéo dài quá lâu không chịu sớm hủy bỏ độc quyền thế lực của đảng và hệ thống nha lại cai trị do chế độ cũ nuôi dưỡng, đã quá rộng lượng vô lối đối với số người theo chủ trương Staline chống canh cải, cấu kết mưu cầu lật đổ chính quyền để về lối cũ. Lòng trung thành cố hữu tận gốc và bản tính trung hậu làm cho Gorbachev không nhanh chân lợi dụng thời cơ như Yelsin, người ông đem từ một tỉnh nhỏ về thủ đô lo đảng bộ quan trọng nhất. Dù thương mến ông đến mức độ nào, giới quan sát cho rằng ông để lại một hệ thống chính quyền (nhà nước) còn bị đè nặng dưới các dư lụy, các dư đồ từ thời Staline Breznev, không đạt mức mong cầu của chính sách nhân sự (perestroika) do ông đề xướng.-  Who Killed Soviet Communism?

=====================================================

Violin Concerto, Tchaikovski 

=====================================================

See the source image



Tuesday, August 6, 2019

người lính làm thơ trên đĩnh núi



                   Nature takes back the airstrip – Author: L’homme venteux – CC BY-SA 3.0
người lính làm thơ trêđĩnh nú
Nguyn Phúc Sông Hương

Leo lên đến đỉnh khi chiu xung,
Đầu vách cheo leo đá ny mm.
Có ph
i hương đưa t thch tho
Hay là b
i nhy ca bông trăng.

Ng
ười lính bng quên đời chiến trn
Chìm trong mênh mông m
t đêm rm
C
mt tiu đoàn đang gác súng,
Nghe h
n man mác tiếng thơ rung.

Đêm nay ta chng cn căng võng,
Gi
ường đá, ba lô kê gi nm.
Bên kia núi,
địch chc bun lm
Nên
đốt la hng xua ánh trăng

Ai th
i tù và vang dưới lũng
Hay l
à địch lc thi tìm quân?
M
c tiếng cp gm, người lính trn
G
o sy, mui mè, ăn dưới trăng.

Đỉnh cao ta chng cn xin pháo
Để cho địch sng qua đêm rm.
Sáng mai có l
nh ln qua núi,
Khu
t ánh trăng, quân đi ngm tăm.

Ng
ười lính min Nam đi đánh gic
Ba lô mang theo h
n thơ văn.

================================================================

=================================================================

GordonMacDonald-NewGlasgowHighway





Thursday, August 1, 2019

Mai Thảo vượt biển


người vượt biên được tàu Medecins du Monde cứu
hi mình gia bin
Mai Thảo

By ngày by đêm theo sóng nước trôi đi
Lúc báo động xung hm tàu đóng kín
B
áo động qua li thnh thơi hơi thuc nhìn tri
Trong
đêm dài bó gi nhìn lên
Bi
n sao sáng xung lòng ti thm
Đụng cây neo lnh but bên mình
M
i nh mình ngi đó sut đêm qua
Gi
a nghìn con sóng ti
Gi
a ngn y sóng xa
Gi
a đất tn tri cùng gia ch mt mình ta
Ngh
ĩ mãi ti mt điu
Không bao gi
t rõ.
Là ngn sóng y đã mt tăm v phía bên trong
C
a khu mt đêm nào
V
à ngn sóng này chy theo người
T
ca khu ra khơi
C
ó phi là sóng ca hai tri
Đập mi sóng mt b bến khác?
Ti
ếng đập gn nghe ào t kín trùm quanh mn
Ti
ếng kia xa đã nh dn mt cui đáy thi gian.
T quc bt kh phân đã phân
T
dòng sông t bn hip định kia
Đất nước my nghìn đời không th mt
Ch
mt ngày đã mt
L
ch s triu trang vàng mt trang đen đã lt
Tr
ăm trn đánh không thua, thua vì Buôn Mê Thut
Thì v
ượt tuyến có phi là phân thân
B
n ngã đã nh trùng?

Tôi ném l
i cái tôi xưa đã dit
Tôi mang theo cái tôi m
i lên đường
Nh
ư ht hu th cho mm sinh t ht
Hai ng
n sóng ngược chiu v mi ng
Ng
n quá kh mt mùng không thy na
Ng
n tương lai đang trng xoá theo tàu
Hai tâm th
chia đôi min cách bit
Ng
n đã nghìn thu ngn mi bt đầu?
Hay ch mt?
Hai m
ươi năm trước dưới bóng liu H Gươm Hà Ni
M
ười năm sau vn liu xưa mt hiên mưa
G
óc ph Sài Gòn
Hay ch
mt?
Ba m
ươi năm trước
D
u chân y trên đồi sim Thanh Hoá
Ba m
ươi năm sau vn du chân xưa
Trong v
ườn bưởi Biên Hoà
Tr
ăm hướng suy tư  vn t mt bn ngã
V
n ch mt sóng gn và sóng xa?
Bay trn đường bay trái đất đêm qua
Bay m
i miết t bin Đông bay ti
Con chim én báo tr
i đất mi
Trên chót vót c
t bum gió thi
Đã ti đây, va đậu xung vai người?
Không biết na
V
y phc sinh nào mà t cõi chết trôi ra
Sau tr
ương thi nghìn ngày cng sn
Cái t
thi đã bn bt tâm linh băng tuyết hình hài
Ch
t tuyết rã băng tan
M
t tiếng bin, ch mt tiếng bin thôi
V
a thc động.
Vy phc sinh nào mà cái xác chết
Trong h
m tàu cht ti
Nh
ư con cá sót ca mt mùa lưới
B
ng động dn tng cái vy cái vây
M
t tiếng bin ch mt tiếng bin thôi
M
t tiếng bin thì thm mà ln ti mênh mông
L
i róc rách trôi vào ca sng.
Không biết na
Điếu thuc cháy trên tay
Đim la soi hng khúc bin này
Cái tàn r
ng đã mt mùng bin khác
Gi
t nước y bn lên t Vàm Láng
Ba ngày sau t
i ngang tm hi phn Thái Lan
Gi
t nước y còn long lanh gia trán.
Nhng tuyến đất đã rng khut nhng chân tri trí nh
Nh
ng tuyến tri bay nghiêng hình
T
ng si tóc bay nghiêng
Nh
ng si tóc th bóng tóc trôi theo tng tuyến bin
Tôi h
i tôi trên mi tuyến hn mình.
By đêm by ngày hi mình gia bin
B
y ngày by đêm gia bin hi mình
Trên mi ngn sóng d
T
ng thc th hin hình ri vt biến
V
bên kia nhng b bến siêu hình
Trên m
i ngn sóng hin
T
ng chân lý sáng ngi ri vt tt
Xu
ng đáy bin không cùng như nhng git lân tinh.-

Mai Thảo

Sui Mơ, Văn Cao, Sĩ Phú
 
                        ===========================