add this

Monday, September 23, 2019

tìm người lương thiện

Stalingrad, 1942
Stalingrad 1942, (Getty Images)
tìm người lương thiện

In Search of an Honest Man

Gary Saul Morson  đim sách:
Stalingrad, Vasily Grossman
Vasily and the Soviet Century, Alexandra Popoff
tôn tht tu  dịch

Xuất bản 1980, sau khi tác giả đã qua đời, Life and Fate được xem là một trong số ít tác phẩm nhiều ý nghĩa nhất của thế kỷ 20. Vì sao đứa con tinh thần của người Nga Vasily Grossman (1905-1964) đáng được chú ý đến như vậy? Mô phỏng theo đường lối lịch sử của Leon Tolstoy qua tác phẩm Chiến Tranh và Hòa Bình, Life and Fate (L&F) kể lại những cuộc phiêu lưu của quân nhân và thường dân trong thời gian Đức chiếm Nga. Xoay quanh chiến trận Stalingrad, L&F cũng mô tả tù binh Nga trong trại tử tủ của Nazi, một nhóm người Do Thái trên đường vào lò hơi ngạt, các sĩ quan Nazi bênh vực chủ thuyết quốc xã, các chính trị viên Nga bênh vực ý thức hệ cộng sản.

Giống như trường hợp Leon Tolstoy, L&F đặt tâm điểm vào một gia đình duy nhất; gia đình Shaposhnikovs. Lão mẫu Alexandre Vladimirovna Shaposhnikova ấn định khuôn mẫu luân lý cho đàn con và cháu đông đảo vì phép tắc và sự trung thành của gia đình quan trọng hơn ý thức hệ. Vật lý gia Do Thái tên Viktor Shtrum kết hôn với cô con gái của bà tên Lyudmila đang vật vã tìm cách giả quyết các bí mật của hạch nhân nguyên tử theo một cách nào mà không vi phạm siêu hình Mác Lê trong lúc đang cố sức biện minh vì sao thỏa hiệp với chính quyền. Cột chèo của Viktor, anh chàng Nikolai Krymov là một Bôn sê vít tận tụy và gương mẫu. Đã từng tôn thờ từng phút ý thức hệ giết người hằng loạt, Nikolai bị bắt, thẩm vấn, tra tấn và đến lúc dùng lương tâm chống lại các tín điều chính trị.
Vasily Groosman 1961
Vasily GrossmanXung đột giữa ý thức hệ và nhân tính đã hướng dẫn cuốn tiểu thuyết từ đầu đến cuối. Khi đức tin CS của Krymov lung lay thì tin tưởng vào sự độc ác của Nazi nơi sĩ quan SS Bach mạnh thêm lên. Hai ý thức hệ ấy đối chọi nhau trực tiếp khi người CS Mostoveskoy bị giam trong trại lính Đức đã phán đối ý kiến của viên sĩ quan Nazi nói tiếng Nga nêu ra sự song hành rõ rệt giữa Nazi và Xô viết về triết lý, đạo lý và thực tế chính trị. Chàng cũng công kích nhà nhân văn học kiểu cũ Ikonnikov đã vượt lên trên Thiên Chúa Giáo và chủ trương Tolstoy để làm những đề tài đạo lý chống với lối suy nghĩ ý thức hệ.

L&F là phần thứ nhì của một cặp bài trùng, tiếp nối (không phải là hậu thiên) cuốn tiểu thuyết Stalingrad mà ông phải sửa nhan để thành For a Just Cause (Vì một chính nghĩa), công thức mà bộ trưởng ngoại giao Molotov dùng để mô tả sự phản công của Nga đối với cuộc xâm chiếm của Nazi. Ấn bản Anh ngữ Stalingrad giúp người đọc theo dỏi hành tung của nhiều nhân vật thật và hư trong L&F. Xuất bản lúc Staline còn sống, Stalingrad không nêu rõ những vấn đề luân thường và chính trị. Tuy nhiên theo tiêu chuẩn lúc ấy, tác phẩm đã là bạo lắm rồi.

Staline đã đạo diễn ”Âm Mưu của các Y Sĩ” kết án, tra tấn tù đày các y sĩ Do Thái về tội âm mưu giết vô số lãnh tụ CS. Tại trung ương đảng CS Staline nói rõ: Do Thái, bất cứ ai, đều là tư bản quốc gia làm việc cho tình báo Mỹ”; có nghĩa là đáng xứ bắn hay khổ sai chung thân. Khrushchev còn nhớ Staline chỉ thị: các công nhân lành mạnh phải cầm gậy gộc đập đầu Do Thái. Staline chết đột ngột March 5, 1953, Do Thái thoát nạn. Một tháng sau, bản án bác sĩ âm mưu được công nhận là ngụy tạo.

Do đó, khá dễ dàng thấy những khó khăn của Grossman khi vận động xuất bản Stalingrad với nhân vật chính và phụ Do Thái, luận bàn về trại tù Nazi. Nội cái tên Do Thái Shtrum đã làm cho các bĩnh bút nổi da gà; họ phải hỏi ý kiến cấp trên, đòi tác giả thêm bớt. Grossman viết: mọi người lính bình thường đã đóng góp vào chiến công Stalingrad. Nhưng đó là một sai sót về ý thức hệ; ông phải sửa lai bằng cách thêm: họ thành công là nhờ chỉ đạo sáng suốt của Staline và đảng CS. Ông phải xài cái dĩa hát với cái hậu là Staline: khi mọi thứ đều tuyệt vọng thì Staline xuất hiện cứu nạn thành công.
Tạp chí văn chương đầy quyền lực Novy Mir cho đăng cuốn truyện thành từng ký, mỗi kỳ đều có thay đổi. Nhà vật lý Shtrum trở thành trưởng xưởng quân trang quân dụng trung bình. Grossman bèn hỏi chủ bút: nếu đây là trường hợp Einstein thì ông bảo tôi nên cho nhà bác học nầy làm việc gì. Ông được trả lời: bác đừng nói gì xa xôi, việc của tôi là làm cho tác phẩm của bác an toàn về phương diện ý thức hệ.

Image result for stalingrad bookStalingrad bắt đầu với cuộc gặp mặt giữa Hitler và Mussolini tại Salzbourg, Áo, ngày 29 tháng 4 năm 1942. Hitler khoa trương các thành quả tiến bộ từ khi xâm chiếm Nga ngày 22 tháng 6 năm trước. Ông nói: bạo lực là nguồn gốc của mọi điều vĩ đại, tôi đã tái lập ý nghĩa thực sự của bạo động”. Trong lúc ấy, Mussolini xem Hitler là một thằng hề, một kẻ đau thần kinh và xem sự thành công nầy là một quái thai thời đại. Nhắc lại chuyện cũ để thấy sự giống nhau trong việc quân Nga tuần tự rút lui trước lực lượng Nazi và trước lực lượng Napoleon; nhưng lần nầy quân Nga cố thủ Stalingrad không như ngày xưa thống chế Kutuzov bỏ Moscou cho quân Pháp. Cuốn truyện kết thúc vào cuối hè 1942 với trận Stalingrad và quân Nga đánh trả thành công. Mấu chốt, diễn biến cốt truyện xoay quanh biến cố quân sự nầy.

Khi báo Pravda, cơ quan ngôn luận của đảng CS, chỉ trích cuốn Stalingrad có quá nhiều người Do Thái, tòa soạn Novy Mir đã nhận lỗi sai lầm đã ấn hành một tác phẩm viết theo một quan niệm vô cùng sai lạc về ý thức hệ. Đời sống tác giả bị đe dọa nhưng may thay chẳng bao lâu sau, Staline chết. Hai lần vào những năm 1954 và 1954, tác phẩm được in thành sách, dĩ nhiên vẫn có thay đổi theo đường lối mới của đảng CS.

Cho dù với sự nới rộng sau khi Staline chết, tác phẩm của Grossman không nói đủ quan niệm của tác giả. Những phần bị gạt bỏ nay được lấy lại để dùng vào ấn bản Anh ngữ hiện đang lưu hành ngoại quốc.
Grossman tin tưởng rằng nhà văn, trên hết, phải tôn trọng sự thật như chính mình chứng kiến nhưng là điều không thể thực hiện trong thế giới CS.
Khi mới bắt đầu viết, Grossman đã nài khẩn trùm văn nghệ Maxim Gorky giúp ông xuất bản tác phẩm đầu tiên: “Thưa ngài, tôi viết sự thật”. Gorky đã trả lời bằng sự khác biệt hiện đang chính thức được công nhận giữa một bên là sự thật mò mẫm theo kinh nghiệm và một bên là sự thật cao hơn của chủ thuyết CS. Gorky huấn thị: Chúng ta biết đến hai sự thật trên thế giới nầy: thứ nhất là cái sự thật hèn hạ dơ bẩn trong quá khứ, chủ về số lượng; cái thứ nhất nầy hiện đang được thay thế bởi một sự thật mới ra đời và đang lớn mạnh”.
Grossman ghi lại lần tiếp kiến nầy trong các lời đối thoại trong gia đình Shaposhnikov. Cô cả Marusya bảo cô em họa sĩ Yevgenia vẽ một bức tranh cổ động nói lên sự thật đời người không ra ngoài ý thức hệ hiện thời. “Chị đã nói với em nhiều lần rằng có hai thứ sự thật rồi chứ? Một sự thật về thực trạng đời sống đã dồn ép chúng ta vào một quá khứ ghê tởm; và một sự thật về tương lai mà chúng ta phải sống theo nếu muốn sống”.
Nhưng ở một chương khác, nhân vật Sofya Osipovna trả lời Marusya: Với tư cách một y sĩ giải phẩu, tôi xin nói với cô rằng chỉ có một sự thật, mà không có hai. Khi cắt một cánh chân khỏi thân xác một bệnh nhân, tôi không biết hai sự thật… Nếu cô theo đuổi hai sự thật thì cô không tìm ra sự thật nào hết”. 
                                                                                  Grossman theo quân Nga, Đức 1945
Vasily Grossman with the Red Army in Schwerin, Germany, 1945.
Qua đến “chân thứ hai”, L&F, Grossman không dùng đến kỹ thuật ngụ ngôn mà nói rõ, nói thẳng rằng Nazi và CS là hai tấm gương soi để nhìn nhau, học hỏi nhau. Độc giả thấy cái nầy thì thấy cá kia luôn thể. Một sĩ quan SS minh bạch phát biểu: “tư tưởng khoa học tự do đã bị dẹp bỏ; chúng tôi từ chối sự thật phổ quát, luân lý và nhân đạo; nước Đức không dành một chỗ nào cho các đầu óc tự do". Sau khi viếng thăm Áo dưới sự chiếm đóng của Đức, một nhà hóa học tường trình rằng nơi đó ai ai cũng sợ nhau, sợ ngay cả gia đình mình. Người đọc thấy ngay trước mắt thời đại trẻ con xô viết được dạy cách tố cáo cha mẹ, vợ bị bắt vì không tố cáo chồng. Một khi đồng ý với nhà hóa học nầy rằng phát xit Đức kết án nền đạo đức luân lý của tình đồng loại và lòng từ bị, người đọc thấy ngay rằng Xô Viết hủy bỏ chân lý phổ quát và chỉ chấp nhận những giá trị của giai cấp đấu tranh. Khi Shtrum để nghị nhà hóa học xuất bản tập du ký, cả hai đều được khuyến cáo không nên làm vì chuyến đi nầy xẩy ra vào lúc Đức là đồng minh của Nga, cho nên không thể phê phán. “Chúng ta phải củng cố, thay vì đập nát, nền chính trị hòa bình”.

Theo Grossman, nét tương cận quan trọng nhất giữa hai hệ thống là cả hai đều nhìn con người theo từng thể loại xã hội. Giai cấp đóng vai trò giống hệt trong chế độ CS và Đức quốc xã. Đen tối nhất là lúc hằng triệu con cháu giai cấp qúi tộc, thương gia và nông dân phát đạt trung bình mất mạng sống. Khi tình hình khả quan hơn, lớp người nầy không được hưởng bình đẳng giáo dục và khó kiếm việc làm. Giai cấp cũng như nguồn gốc chủng tộc đã ấn định cá nhân thuộc giai cấp kẻ thù. Shtrum ghi nhận tính chất quỉ quái của việc giết người vì có cha mẹ là Do Thái.

Ai cũng hy vọng rằng sau cuộc tẩy trừ Staline của Khrushchev, tác giả Grossman hanh thông trong việc xuất bản cuốn L&F tuy nhắm không riêng gì vào chủ thuyết Staline mà cả hệ thống Mát Lê. Thực tế trái ngược. Tờ báo mà ông đệ nạp bản thảo đã thông báo ngay cho trung ương đảng. Đảng không những khước từ cuốn sách mà còn ra lệnh tình báo KGB lục soát chỗ ở của Grossman lấy hết mọi bản thảo, kể cả ruban đánh máy chữ. Nhờ vào không khí tương đối tự do hơn, tác giả được yên thân nhưng cuốn sách chịu số phận câu lưu. Grossman được mời dự cuộc họp mặt với các đại diện hội nhà văn và trưởng ngành ý thức hệ của đảng. Ông được thông tri rằng L&F còn nguy hiểm hơn Doctor Zhivago của Pasternak và cấm xuất bản trong vòng hai trăm năm. Trưởng ngành ý thức hệ chấm dứt buổi họp bằng câu nói: Ông tin rằng trong trường hợp nầy chúng tôi vi phạm nguyên tắc tự do. Vâng, đúng như vậy nếu giải thích tự do theo lối tiểu tư sản”.

Giống như các tiểu thuyết hiện thực cổ điển Nga, hai cuốn sách của Grossman đặt vấn đề bản chất của lịch sử, trách nhiệm luân lý, thiện ác cũng như vai trò của văn chương. Nhân vật Madyarov, nói thay cho tác giả, bát bỏ chủ trương hiện thực kiểu XHCN đã phản bội lý tưởng cao thượng của nền văn chương Nga.
Bắt đầu với House of the Dead của Dostoevsky tác phẩm đầu tiên tả trại tù, văn sĩ Nga đã hấp dẫn thế giới bằng những hoàn cảnh cùng tột. Grossman cũng vậy, hai tập truyện của ông dựng trên bối cảnh là chiến cuộc Stalingrad và trại tử tội Nazi, phòng thẩm vấn tra tấn Xô viết, hàng triệu nông dân chết đói vì tập thể hóa nông nghiệp. Một số đảng viên bôn sê vít phải tự vấn lương tâm khi thấy trẻ con đi vào cõi chết nhưng rồi cũng đi đến kết luận khác; họ tin tưởng đang làm một việc thiện; họ chứng kiến mọi thứ độc ác nhưng vẫn ủng hộ đường lối bạo động của CS. Cái gì điều gì đã đưa những con người thông minh, bình tĩnh không bệnh tâm thần ấy ủng hộ và thi hành chính sách bạo tàn toàn diện ấy? Theo giới cầm bút, câu hỏi nầy là vấn đề luân lý quan trọng nhất của thời đại chúng ta đang sống.

Khi bị sĩ quan SS tên Liss gọi thẩm vấn, người Bôn sê vít trung thành Mostovskoy tin mình sẽ bị tra tấn nhưng các lời hỏi cung đã là một tra tấn tinh thần, là mối hoài nghi. Theo Liss, Nazi và bôn se vit giống nhau ở vô số điểm. Cả hai đều dựa vào một chính quyền độc đảng khủng bố và từ bỏ luân lý nhân đạo. Hitler đã thanh toán quyết liệt hằng triệu người Do Thái; Staline không thua gì đã tàn sát hằng triệu nông dân. Liss nói thêm rằng Hitler đã học bài độc tài toàn diện trực tiếp từ Lenine và Staline. Viên sĩ quan SS nầy hình như đã mở đường cho vụ án âm mưu của giới y sĩ: “hôm nay các bạn ngài ngại mối căm thù của chúng tôi đối với Do Thái nhưng mai kia các bạn sẽ dùng kinh nghiệm của chúng tôi vào việc nhà các bạn”. Mostovskoy cảm thấy niềm tin của mình lung lay.

Krymov, nhà vật lý, cột chèo của Shtrum đã từng biện hộ cho chính quyền đã để cho giai cấp kẻ thù chết đói, đã ra lệnh bắt giam bất cứ ai có tý ty hoài nghi các chính sách của Xô viết; nhưng khi đến phiên mình bị bắt và tra tấn chàng mới tự hỏi phải chăng tra tấn đã làm cho các đảng viên khác nhận tội âm mưu chống đối một cách phi lý. “Vì sao đảng cần đè bẹp tôi? Chúng tôi không một chút nương tay, không một chút thương tâm đối với kẻ thù của cách mạng; nhưng nay vì sao cách mạng lại tàn nhẫn đối với chúng tôi?”

Krymov nhận định rằng khi đọc lời kêu gọi tuyên án tử hình Bukharin và các thủ lãnh khác, chàng thực sự không tin vào tội trạng của các bị can. Nói đúng hơn, chàng vừa tin vừa không tin. Chàng tự hỏi: có chăng như thế này sao, tôi là một người có hai lương tâm? Hay tôi là hai người, mỗi người có một lương tâm riêng? Mà nhìn quanh ai cũng làm như tôi, đâu chỉ riêng mình tôi”. Độc tài toàn diện đưa đến sự song lập rốt ráo như vậy hoặc vì sợ bị bắt, hoặc muốn giữ vững đức tin ở ý thức hệ chính thức dù thực tế trái ngược.

Krymov tự hỏi vì sao khi các người bạn vô tội bị bắt, chàng không đến giúp đỡ gia đình các nạn nhân. Trong lúc ấy, mấy mụ đàn bà ham mê dị đoan và thấp kém về chính trị lại ôm ấp nâng đỡ trẻ con có cha mẹ bị bắt. Phải chăng những bà già ấy can đảm hơn, đáng ca ngợi hơn mấy ông bôn sê vít kỳ cựu như Mostovskoy hay Krymov? Krymov biết rằng sợ hãi không đủ sức chạy tội cho hành vi tồi tệ về luân lý của chàng. “Không, không; sợ hãi không đủ sức làm việc nầy. Đủ sức biện giải hành động dơ bẩn của tôi chính là chính nghĩa cách mạng nhân danh luân lý đạo đức xua đuổi con người xa khỏi đạo đức luân lý phổ quát và nhân bản”.

Trong thời gian bị giam trong trại Nazi, Ikonnikov đã bước vào giai đoạn không những từ bỏ chủ thuyết Mac xit mà từ bỏ mọi ý thức hệ dám tự xưng nắm vững chân lý luân thường toàn diện. Các hệ thống triết lý, dù lý tưởng đến đâu, đã tạo nên những tai ương, những di lụy to lớn hơn các tội ác các cá nhân riêng biệt phạm đến. Ngay cả những lời giảng của Jesus cũng đưa đến tai ách nếu người TCG muốn biến lời Chúa thành một hệ thống triết lý. Lắm lúc, chính ý niệm thiện đã thành điều tác quái nguy hiểm hơn sự tác hại thường tình. Tôi đã thấy sức mạnh không lay chuyển của ý niệm thiện về xã hội được nẩy sinh trên quê hương tôi… Tôi đã thấy làng nầy qua làng nọ chết đói. Ý niệm nầy rất xinh rất cao quí nhưng nó giết người không gớm tay, chà xé tiêu ma đời sống muôn người.

Chúng ta quen gọi những danh tác của Nga có tính cách triết lý nhưng cho đúng thì phải gọi ngược lại: phi triết lý; trong ý nghĩa khuyến cáo mạnh mẽ đừng đặt để đức tin vào một hệ thống trừu tượng. Trong Chiến tranh và hòa bình, Leon Tolstoy viết: “nếu chúng ta thừa nhận rằng đời người có thể điều hướng bởi lý trí thì khả thể của sự sống tiêu tan”. Tuy vậy sau đó ông đã qui hàng sự cám dỗ của một lý thuyết luân lý bao trùm mọi khía cạnh khi ông công thức hóa điều ông xem là sự thật TCG lúc ban sơ. Và Dostoevsky, để bù đắp mối hoài nghi về trừu tượng hóa, đã có lúc nghĩ mình đã nắm chìa khóa mở cửa lịch sử và thấy ngày khải nghiệm trong tương lai. Nhưng chỉ một mình Chekhov, tác giả yêu thích của Grossman, đã không bị các hệ thống cám dỗ. Theo nhận xét của Madyaro, Xô viết ca ngợi Chekhov vì không hiểu Chekhov.

Image result for chekhovChekhov luôn đứng riêng rẻ, tách rời các nhà tư tưởng chính trị Nga. Lớp người nầy độc ác, không tha thứ, óc bè phái, những kẻ cuồng tín muốn dùng bạo lực áp đặt God vào người trần thế, và trên nước Nga, số người nầy không bao giờ ngừng, dù ngừng ở chỗ giết người, để đạt mục đích nầy”. Trong lúc ấy Chekhov, nhờ sự thâm hiểu tính chất phức tạp của luân lý, đã không ngại ngùng chân thành hạ bút: “Xin hãy để God và các ý tưởng tiến bộ to lớn qua một bên. Xin hãy tử tế hiền hòa và chú ý đến các con người cá thể. Xin hãy bắt đầu bởi lòng kính trọng, từ tâm và tình thương dành cho các cá nhân”.

Cũng vây, Ikonnikov kêu gọi chúng ta từ bỏ “cái Tốt ghê rợn viết chữ T hoa. Để nhận chân những điều lành hằng ngày của con người.Ví dụ điều lành của một bà già đem ổ bánh mì cho tù nhân, trong số đông các bà già dốt nát nhưng hành sử tốt đẹp hơn tập thể bôn sê vít”. Ông nói: Chúng ta cần điều thiện riêng tư của một cá nhân dành cho một cá nhân; một điều lành nhỏ nho, không cần một tư tưởng nào hướng dẫn; một điều lành đứng ngoài mọi hệ thống ‘Tốt’ của xã hội và tôn giáo”. Ông nói tiếp rằng không có gì có thể biện minh cho việc mình tham gia tác hại cho đồng loại, dù viện dẫn sợ chết, tra tấn hay tù dày Gulag. Con người bị hướng dẫn bởi định mệnh nhưng có quyền không đi theo. Trong tinh thần ấy, Ikonnikov bị xứ bắn trong trại lính Nazi vì không chịu đi xây trại tận diệt Do Thái.

Về phần Grossman, ông biết đã không sống theo đúng lý tưởng của mình. Cho đến cuối đời, ông vẫn cảm thấy hổ thẹn, như nhân vật chính Shtrum, đã một lần ký bản tuyên bố kết tội các y sĩ bị cáo buộc giết bệnh nhân. Shtrum tự hỏi vì sao dính vào tội ác tày trời nầy. Mọi việc trên đời đều vô nghĩa nếu đem so chiếu với sự thật và sự trong suốt của một người vô danh thấp hèn. Shtrum đã nói lên tâm trạng đau thương của Grossman: Người xấu lẫn người tốt đều có chỗ yếu nhưng khác nhau ở chỗ nầy. Người xấu hãnh diện và nhớ suốt đời một việc lành nhỏ duy nhất; người trung hậu không nhớ không biết đế các điều lành to lớn, nhưng nhớ mãi suốt đời năm nầy qua tháng nọ một việc bất thiện rất nhỏ và duy nhất… Người trung hậu nầy còn có thì giờ ứng phó chưa quá trễ. Còn sức mạnh để tiếp tục vẫn làm đứa con của một người mẹ; mong ước hành vi ương hèn nầy đứng mãi bên cuộc đời như một lời trách móc ngày đêm; nhưng cũng nhờ vậy mà người hiền lương có cách trở về với chính mình.”

Thành quả của Grossman chính là lối suy nghĩ sâu sắc và thẳng thừng nêu ra các vấn đề luân lý. Do đó Life and Fate là một tác phẩm quí giá cho thời đại của chúng ta tuy có nhiều chỗ bất ổn về kỹ thuật viết truyện. Trên căn bản Grossman là một ký giả hơn là một tiểu thuyết gia nhưng ông đã tường trình các kinh nghiệm độc tài toàn diện một cách đầy đủ và hiểu biết hơn các tác giả cùng thời.
Trước Grossman cả trăm năm, một tác giả Nga khác được xem là kẻ khai sinh chủ trương cải cách xã hội đã viết Who Is To Blame. Văn học xem tác phẩm ấy của Alexandre Herzen là một cuốn sách về tư tưởng hơn là một cuốn tiểu thuyết, gồm những suy tư ảnh hưởng sâu rộng; Herzen chỉ dùng cốt truyện như cái dàn cho tư tưởng leo bò nở hoa. Na ná trong hiện tượng văn chương nầy, Life and Fate cho thấy mặt tiền và mặt hậu; mặt tiền là những biến cố bên ngoài, mặt hậu là con người của tác giả mang theo những tư tưởng. Giới phê bình đã xem ông là một nhà tư tưởng, a thinker, un penseur.
Nhưng đó không phải là việc của ông ta. Văn chính là người. Thật vậy, Vasily Grossman đáng được khen là người lương thiện, trung hậu như chính nhân vật Shtrum do ông tạo ra: trở về với cuộc đời thật sự, biết những điểm yếu của người đời (Pascal: l’homme a ses faiblesses). Ông và nhân vật của ông đã trở về với chính mình, mong ông tìm được con người lương thiện, trung hậu, tuy không bao giờ quên một lỗi lầm nhỏ lúc thanh xuân.--

===========================================================================

Image result for helene grimaud

Image result for fleur de lys symbol

Saturday, September 14, 2019

lại đến rừng thu để ngóng trông


See the source image
Camille Pissarro, chiều tà

lại đến rừng thu 
để ngóng trông
Trần Ngân Tiêu

Ta đến rng thu đ ngóng trông
Dù cho r
i cũng s v không
Đ
 vơi đi bt  nim ray rt
Vì nh
 thương xưa vn ngp lòng.
 
Ta đ
ến rng thu mây vn bay
Vàng thu hiu qu
nh vn còn đây
D
u chân xưa đã m theo gió
Héo h
t lòng ta v đy.
 
Ta đ
ến rng thu tìm chút hương
May ra trong gió v
n còn vương
H
ơi gió dng dưng theo gió!
Ch
 có mình ta ni đon trường!
 
Ta đ
ến rng thu ngó nng xa
Chân tr
i m mt mt như nhoà
Ngó mây l
ơ lng phương try
M
i thy lòng thương nước, nh nhà
 
Càng đ
ến rng thu càng nh em
Dù bao đêm đã c
 say mèm
Mà thu vàng mãi trong tâm t
ưởng
Thì đ
ến bao gi có th quên?
 
T
 rng thu đến chm đông
Đ
 đo thương nh có vơi không
Đã không níu đ
ược mùa thu trước
Mà nh
 thương xưa vn chp chùng!
 
Ta đ
ến rng thu t by lâu
Ch
 nghe tan tác khúc thu su
H
ơi thu to mt tri hiu qunh
Ta th
n thc thm: em  đâu?
 
Ta nh
n rng thu nếu mt ngày
Ng
ười ta thương nh tr v đây
Thì ngâm lên khúc r
ng thu nh
Trao l
i giùm ta ni nh này.



Tuesday, September 3, 2019

Hitler và Muslim


coll_2-040215.jpg
lính Đức gốc Muslim diễn hành
Hitler và the Muslims
Steve Coll, Hitler & the Muslims

1941, một giáo sư nhân chủng học ở Harvard tên Carleton S. Coon du hành đến Maroc, bên ngoài nói là đến để nghiên cứu tại chỗ. Nhưng sứ mệnh thực sự của ông là lén đưa vũ khi cho đám người chống Đức trong vùng núi Atlas, nhân danh Office of Strategic Services, tiền thân của CIA. Năm sau, khi HK sửa soạn chiếm Bắc Phi, Coon và một đồng nghiệp tên Gordon Brown soạn thảo một tờ truyền đơn nhằm giảm phản ứng bất lợi của dân chúng đối với các đoàn quân Mỹ sắp đổ bộ. Hai ông nầy đã dùng các thành ngữ tôn giáo. “Hãy vinh danh đấng God duy nhất. Những chiến sĩ tôn giáo Mỹ đã đến để làm cuộc thánh chiến vì tự do. Ký tên Roosevelt.

Nazi cũng đang xúc tiến hình thành các luận điệu ba rọi gởi đến người Muslim Bắc Phi. Henrich Himmler, nhân vật thứ ba của Đức, chủ trương tận dụng Hồi giáo trong chiến lược tổng quát. Mùa xuân 1943, khi lộ quân của Rommel gặp nhiều thất bại, Himmler đã yêu cầu bộ chỉ huy an ninh tìm xem trong Koran có đoạn nào làm cho người Muslim chấp nhận rằng Hitler đã được tiên tri trong Koran, và được phép hoàn tất sứ mệnh của Nhà Tiên Tri. Ernst Katenbrunner, trưởng cơ quan, phúc đáp không có đoạn nào có thể giúp ích, nhưng ông đề nghị nên quảng cáo Hitler là Isa (Jesus) tái hiện như Koran đã tiên tri; Hitler, giống như thánh George, đánh bại ông vua vĩ đại Do Thái Dajjal, cút khỏi thế giới nầy”. Sau đó bộ chỉ huy an ninh đã cho in một triệu truyền đơn nhằm kêu gọi Muslim ủng hộ Đức:
“Hỡi người Arab, các bạn thấy chăng thời của Dajjal đã hết. Các bạn có thấy hình dáng của hắn chưa? Chính là thằng Do Thái mập thù lù tóc quăng đang dối trá thống trị thế giới, và cướp đất của người Arab. Hỡi người Arab, các bạn có thấy người đầy tớ của God không. Người ấy (Hitler) đã xuất hiện trên mặt đất, đã chỉa gươm vào Dajjal và bè lũ… Người ấy sẽ giết Dajjal như kinh đã nói, sẽ triệt hạ kinh thành của hắn và xua bè lũ của hắn xuống địa ngục”. (Dajjal trong Koran như kẻ phản chúa, anti god, của Thánh Kinh).

Lối tuyên truyền ấy, theo cách nhìn ngày nay, thật là vô nghĩa, ngu xuẩn, lố bịch. Nhưng nhắc lại để thấy rằng nó nằm trong câu chuyện dài Tây Phương vá víu để huy động và hợp tác với người Muslim, nó cũng vụng về như các hí họa và truyền đơn Mỹ thả xuống Afghanistan 2001 và Iraq 2003.

Tài liệu về thế chiến 2 cho thấy phe Trục lẫn Đồng Minh đã đầu tư hùng hậu trong chiến lược dành sự ủng hộ của khối Muslim; nhưng hai phe đều tạm thời thành công phần nào. Đối với đa số, chiến tranh nầy chỉ là xung đột giữa các phe thực dân đàn áp họ, họ chỉ mong chiến cuộc ngưng càng sớm càng tốt.

Đức chú trọng vận động Muslim nhiều hơn vì sự lớn mạnh ý thức hệ Nazi trùng hợp với cuộc vận động dân tộc Palestine chống Do Thái. Amin al-Husayni, một thủ lãnh quốc gia và là một giáo lãnh ở Jerusalem đã trốn qua Berlin, cộng tác với hệ thống tuyên truyền Đức suốt cuộc chiến. Thông điệp của Nazi luôn nhấn mạnh rằng Đức sẽ giải thoát Muslim khỏi chủ nghĩa thực dân Anh và chủ nghĩa vô thần CS bằng cách loại bỏ người Do Thái hiện ảnh hưởng mọi phương diện. Đức có một số “thính giả” hợp ý ở Palestine và nhiều nơi khác nhưng không ai có thể lượng định ảnh hưởng của Đức đối với quan điểm người Arab dành cho chính sách định cư Do Thái; lý do chính Đức hiện diện trong thời gian rất ngắn. Tuy vậy nhiều nhà nghiên cứu đồng ý rằng tuyên truyền Đức thất bại; bằng chứng rõ nhất một khối lượng rất lớn người Arab tham dự chiến tranh bên cạnh Anh quốc ở Bắc Phi và Trung Đông.

Hành động của người Muslim trong vùng Đức chiếm không có tính cách đồng loạt tập thể. Có người tham dự hành hung kẻ khác theo lệnh của Nazi; có người gỡ mái tôn nhà thờ Do Thái; cũng có người can đảm bao che giúp người Do Thái tránh truy nã. Nói khác, việc người Muslim liên hệ đến diệt chủng Do Thái và người Roma (du mục) không nên tổng quát hóa, vì nó không mô tả đầy đủ hành động có khi trái người của người Muslim.

Đến đây, xin nói qua một điều khá ngạc nhiên. Hitler đã nương vào đường lối của một người Muslim để có những hành vi độc ác. Ít ai ngờ đó anh hùng Thổ Nhĩ Kỳ được ca ngợi với nhiều lý do: Mustapha Kemal. “Ataturk” đã cung ứng cho Hitler và các nhà ý thức hệ Nazi một mẫu điều động kháng cự võ trang chống hòa ước Versaille và cách biểu thị sức mạnh của chủ nghĩa quốc gia cần thiết cho một chế độ mới ra ra lò.
Người sáng lập Thổ Nhĩ Kỳ tân thời đáng được ghi nhớ như một Mussolini trong trí tưởng chính trị của Hitler thuở ban đầu.

Ataturk đã có một hồ sơ cá nhân ghi các cuộc hành binh, gồm cuộc diệt sạch thành phần mà Hitler cho là các nhóm đa chủng đã hút mau đế quốc Ottoman. Thật vậy, việc Thổ giết hằng loạt người Armenia trong thế chiến thứ nhất rõ rằng đã ảnh hưởng đường lối Hitler giết Do Thái đầu thập niên 1920.
Hans Trobst, người tham dự chiến tranh dành độc lập của Kemal đã viết trên tập san quan trọng của Nazi “Heimatland”: Bọn hút máu và sống bám vào cơ thể quốc gia Thổ là Do Thái và Armemia: Phải tận diệt chúng, làm cho chúng kiệt quệ, nếu không thì cuộc tranh đấu vì tự do của chúng ta sẽ vào ngõ bí.
Bất cứ ai có chút liên hệ ngoại quốc đều phải chết; nửa triệu người đã chết. Trong thời kỳ phôi thai, Nazi đã tìm được trong nước Thổ mới một đường lối quốc gia chủ nghĩa thực sự và thuần tịnh: không còn một người Armenia hay Do Thái trong bán đảo Anatolie nầy nữa; điều nầy được nhắc nhở cả mấy trăm lần trong các bài báo, tài liệu nội bộ và các bài diễn văn.
Về chính trị, thành công của Ataturk cống hiến cho Đức phương cách vượt khỏi những ô nhục, cúi đầu mà hòa ước Versaille đã đặt trên đầu kẻ thua trận thế chiến 1. Không những nắm quyền bằng hành động dũng cảm nhân danh quốc gia Thổ, Ataturk còn ép các cường quốc Âu Châu tái thương thuyết các điều khoản của hiệp định nầy. Ảnh hưởng của ví dụ nầy đối với Hitler không kém ảnh hưởng của cuộc “đạp chân trên đất Rome” của Mussolini năm 1922. Hitler đã làm theo để tổ chức đảo chánh (bất thành) ở Munich năm 1923. Sau đó, khi xét lại biến động nầy, Hitler nói chủ nghĩa quốc gia diệt chủng đã đưa Ataturk lên nắm chính quyền. Ông nói: “sự cứu rỗi không xuất phát từ một trung tâm hư thối là Constantinople. Thành phố nầy, không khác các thành phố Đức, đã bị ô nhiễm bởi lớp người đã bị quốc tế hóa và chủ trương dân chủ hòa bình, không còn khả năng làm việc gì cần thiết. Sự cứu rỗi sẽ xuất phát từ nông thôn.
Ataturk chết năm 1938 nhưng Hitler ngưỡng mộ cho đến cuối đời; ông luôn giữ bên mình bức tượng bán thân của Ataturk, tác phẩm điêu khắc của Josef Thorak.

coll_1-040215.jpg
Hitler và bán tượng Kemal trong xưởng Thorak

Liên minh Nazi và Islam chỉ có tính cách thực dụng, không mang màu sắc ý thức hệ. Ataturk chủ trương thế tục. Hitler ca ngợi người Thổ Nhĩ Kỳ đã tẩy xóa những yếu kém sai lầm của đế quốc Ottoman, đồng thời kết án đức tin Islam làm trị trệ chận đường tiến bộ.
Điều nầy tương phản với luận điệu tuyên truyền khác: Muslim là đồng minh tự nhiên của Đức chống với Do Thái, Anh và Nga. Mâu thuẩn nầy được giải thích bằng hai yếu tố. Thứ nhất Hitler không có tư tưởng nhất thống, tùy hứng. Thứ hai, xưa nay Đức, dưới các chế độ khác nhau, vẫn dùng người Muslim có võ trang chống với các nước thù nghịch.

Khi thế chiến 1 bùng nổ, tình báo Đức đã nghiên cứu cách thức hữu hiệu nhất để khơi động các cuộc nổi dậy của Islam chống Anh từ Ấn Độ cho đến Ai Cập. Qua sự thúc dục của Đức, vua Thổ Mehmed ở Constantinople đã ra giáo lệnh kêu gọi Muslim cả thế giới đứng lên chống các cường quốc liên minh. Vua còn bảo đảm rằng những ai chết dưới họng súng của Anh được phong là thánh tử đạo vinh quang.

Berlin, Trung Đông Vụ tình báo đã tìm cách xúi dục thánh chiến ở các nước đối nghịch, đã in tài liệu hướng dẫn dày 136 trang. Làm việc cho cơ quan nầy gồm có các chuyên gia mọi ngành học thuật, các nhà ngoại giao, nhân viên quân sự và các cộng tác viên Muslim. Tuy quân đội Pháp cho biết quân Muslim quấy nhiễu suốt thời gian chiến tranh, giới nghiên cứu cho rằng Đức đã dùng một quan niệm sai lầm khi tin tưởng vào một liên minh Islam nổi dậy và không che dấu hữu hiệu bàn tay Đức trong cuộc vận động nầy. Thế giới Muslim rất hổn tạp nên không thể dùng một sách lược duy nhất; họ đã thấy bị lợi dụng vào mục đích chiến lược, chứ không phải vì một chính nghĩa tôn giáo. Nhưng hồi ký các cộng sự viên hay người thân tín cho thấy Hitler mê thích đức tin và lịch sử Muslim.

Hitler và Himmler đồng ý hoàn toàn với Trung Đông Vụ. Không có tài liệu chính xác để biết rõ Hitler đã nghĩ thế nào về Islam. Nhưng hồi ký các cộng sự viên hay người thân tín cho thấy Hitler mê thích đức tin và lịch sử Muslim; Hitler mô tả Islam là một hệ thống tín ngưỡng mạnh mẽ hơn Thiên Chúa Giáo và thích ứng cho việc xây dựng một nước Đức theo như ông muốn.
Theo Albert Speer, Hitler có lần đưa ra một đảo cách lịch sử: chuyện gì sẽ xẩy ra nếu các lực lượng Muslim thế kỷ thứ tám vào chiếm nước Pháp và thắng quân Frank ở trận Tours. Giả sử đúng như vậy thì người Muslim trong trường hạn, vì thuộc giống dân thấp kém, không thể chịu nỗi bầu không khí Bắc Âu, nhưng những người Đức theo Islam sẽ cầm đầu lãnh đạo đế quốc Islam nầy. Speer nhớ lời Hitler: “Bất hạnh thay, chúng ta có một tôn giáo sai; Islam thích ứng với chúng ta hơn TCG; tại sao chúng ta đã phải chấp nhận một tôn giáo ủy mị ngoan ngoãn như TCG?” Một nguồn tin khác từ em gái của Eva Braun, “vợ” của thầy mình cho biết trong các bữa ăn, Hitler thường nhắc đến Islam, so sánh với TCG để chê bai Vatican. Không mạnh mẽ và thực tiển như Islam, TCG yếu mền, giả tạo và gây thống khổ.

Sự sùng thượng Islam của Himmler thì có bằng chứng nhiều hơn; nhưng tổng quát thì không khác chi Hitler. Felix Kersten, y sĩ riêng của Himmler, đã dành một chương trong hồi ký để trình bày đam mê quá độ của bệnh nhân nầy đối với Islam và Mahommed. Rudolf đã giới thiệu Himmler cuốn Koran và ông giữ ở đầu giường và xem Nhà Tiên Tri là một trong nhân vật hàng đầu của lịch sử.
Himmler từ bỏ giáo hội Vatican năm 1936. Khi chiến tranh đến lúc vô cùng sôi động, Himmler đã nghĩ đến cách dùng Islam để khích lệ quân sĩ. Năm 1943, ông nói với Kerten: Mahommed biết rằng đa số người đời đều hèn và ngu xuẩn cho nên đã hứa mọi chiến sĩ anh dũng và chết trận sẽ có hai người đàn bà rất đẹp… Anh sẽ cười và cho điều nầy lạc hậu, nhưng đó là trí huệ thâm hậu; tôn giáo phải dùng ngôn ngữ của con người”. Không thể chối cải tính chất lập dị trong những suy nghĩ nầy, cũng như những điều Himmler bàn về huyền nhiệm và các khoa học gọi là huyền bí; ông chỉ là một độc giả Koran nông cạn.

Trong mấy năm gần đây, Christopher Hichens đưa ra một chữ mới: “Islamfascism” đặt tên cho luận thuyết song hành giữa các chủ trương Muslim quá khích hiện nay và của phát xít. Mặc dầu được cổ xúy trên hệ thống Fox TV, lý thuyết của nhà vô thần quá cố nầy không còn hấp dẫn ngay cả với khuynh hướng cực hữu, vì nó vô cùng giản lược và phi lịch sử. Himmler chỉ nói: Islam và Nazi có những kẻ thù chung, vượt qua các tín ngưỡng.
Balkan
The Balkan region according to Prof R. J. Crampton
Các lời phát biểu của Himmler chỉ có tính cách xúi dục khi chiều hướng chiến tranh đã bất lợi, cổ võ Muslim ngăn chận cuộc phản công của Nga. Himmler đã tuyển mộ, huấn luyện nhiều sư đoàn chuyên biệt Muslim để giữ các phần đất Nazi chiếm ở Balkan và Caucase, nay dùng những đạo quân nầy mong lật ngược chiến cuộc. Ông đã xác nhận: tôi không có việc chi phải chống Islam. Islam đã huấn luyện, giáo dục người cho tôi và hứa hẹn họ sẽ lên thiên đàng sau khi chiến đấu và chết trận. Rõ là một tôn giáo thực tiển và hấp dẫn cho lính”.
Thái độ thân thiện nầy nằm chung trong thời kỳ tuyên truyền Nazi uyển chuyển để khỏi mất lòng các đồng minh (trong tiềm năng) Thổ, Arab và Iran.

Hitler thường nói riêng rằng các nhóm nầy thuộc các chủng tộc thấp hèn nhưng khi bàn về chiến lược, ông đã bỏ qua kỳ thị chủng tộc. Muốn chống Anh và Pháp thì phải làm vừa lòng người Arab. Khi Đức đưa quân vào Bosnia năm 1943, Nazi tuyên bố người Muslim trong vùng, về phương diện chủng tộc, là người giá trị; họ trở thành người Muslim đầu tiên gia nhập quân lực Đức.
Tại vùng Caucase và Crimea, quân quân Đức cho hồi sinh văn hóa Muslim. Thế hệ đương thời chứng kiến việc Nga đàn áp, dẹp bỏ lễ lạc Muslim; Nazi cho các đền thờ sinh hoạt lại, cho phép trưng bày Koran tiếng Arab nơi công cộng, không như Nga đã cấm chỉ. Muslim Đông Âu xem việc Đức chiếm đóng là phương cách phục hưng văn hóa Islam. Nhiều tiểu đoàn chuyên biệt gồm hơn 20 ngàn người Tatar trong lộ quân 11 của Đức đã đánh trả quân Nga ở tuyến phía Bắc.

Khi Đức thua, số binh sĩ nầy và người Muslim đã trả giá quá đắc. Staline đày người Muslim ở Caucase và Crimea qua Trung Á. Tại hội nghị Yalta, Anh và Mỹ, để được thỏa thuận cho người mang quốc tịch Nga hồi hương, đã đồng lõa với những hành động độc ác nầy. Quân Anh Mỹ giữ cựu quân nhân Nazi Muslim trong các trại giam đặc biệt trước khi giao cho Hồng quân. Nhiều người đã nhảy khỏi tàu hỏa đang chạy; nhiều người đã nhảy xuống giữa Hắc Hải; nhiều người tự sát trên tàu. Khi đã đến đất Nga số người được chuyển giao nầy bị sát hại và đưa vào các gulag. Chính quyền Anh và Mỹ không để ý đến các cuộc phản đối do Hồng Thập Tự tổ chức. Báo chí tây phương cũng làm lơ.

Khúc nhạc ve vãn Islam của Đức mở đầu bằng một chiến lược giả dối, lợi dụng sự chống đối Do Thái và chấm dứt bằng cái chết tập thể và khổ đau triền miên của người Muslim.

hình ảnh cuộc chiến hiện ở Afganistan

Nhưng kịch bản nầy đã gợi lên một khuôn mẫu cho HK sử dụng trong chiến tranh lạnh. Với sự cộng tác của Saudi Arabia, HK đã tìm cách vận dụng Islam để chống sự bành trướng của Nga ở Trung Đông. Sau khi Nga chiếm Afghanistan, tổng thống Carter cho phép CIA ngầm giúp quân nổi loạn làm sống lại cuộc thánh chiến vì tự do mà tiền thân OSS đã khơi mào ở Bắc Phi.
Thi hành chỉ thị ầy, giám dốc CIA Casey đã cho in Koran tiếng Uzbek để phiến quân chuyền lén vô Nga. Casey còn cho phép du kích quân quấy nhiễu trên lãnh thổ Nga.

Cuộc kháng cự thành công chống Nga nầy nằm trong số ít trường hợp có kết quả nhờ hành động của người Muslim do bên ngoài thúc đẩy chống xâm lược của người không Muslim; tuy vậy không nên quên rằng công cuộc nầy đã bắt đầu tại chỗ và trước khi Mỹ và Saudi Arabia tung tiền. Nhưng khía cạnh tiêu cực của sự viện trợ nầy là một cuộc nội chiến tệ hại và sự xuất hiện tổ chức khủng bố al-Qaeda.

Tây Phương ngày nay đang dùng Islam chống lại Islam quá khích; nhưng Tây phương vẫn còn mang quan niệm xưa của Đức tin tưởng Muslim là một khối duy nhất để áp dụng một chính sách duy nhất. Với thực tế trên địa bàn chính trị và quân sự, nay bạn bạn mai thù, lời kêu gọi “hưng binh” của Tây Phương chỉ có hiệu lực giới hạn trong thế giới Muslim. Trong lúc ấy, nơi nơi, dân chúng tự hỏi còn bao lâu nữa mới có quả bom M nổ trong khu vực đang sống.  Hitler & the Muslim


=======================================================================