add this

Thursday, May 30, 2019

Nga Nga, Tàu Tàu...


ethiopia lenin statue
 tượng Lenine ở Bucarest bị hạ 1990
nga nga, tàu tàu...
The Anatomy of Collapse
Roderick MacFarguhar, ttt dịch

Giống như Bắc Kinh 1989, tại Moscou 1991 tám kẻ chủ trương cứng rắn lập chiến hào cuối cùng để bảo vệ chủ nghĩa CS, chẳng dùng lý thuyết mà dùng bạo lực. Điều khác biệt là bên Tàu, thủ lãnh cải cách Đặng Tiểu Bình về phe với các bàn tay sắt; ông có đủ quyền lực chận sự chia rẻ trong quân đội và đạo diễn vụ đàn áp đẫm máu Thiên An Môn. Cùng theo kinh nghiệm ấy, có thể nghĩ rằng 1991 nếu Gorbachev đứng chung với nhóm đảo chánh thì hệ thống CS vẫn còn ở Liên Xô.

Sự sụp đổ đường lối CS ở “quê hương vô sản” là một chưởng chính trị và tâm lý đau đớn cho lãnh tụ đại lão già nua trong đảng CS Tàu (CST). Tuy vậy, trong lúc đảng CS Nga (CSN) nằm ngay bờ tiêu diệt thì CST đã vượt qua sự thách thức sống còn và quy tập lực lượng về một mối. Sử sách, tài liệu, hồi ký, phim ảnh … tràn ngập các phương tiện truyền thông để kỷ niệm sinh nhật 70 của đảng; trong lúc ấy báo chí chỉ sơ sài nhắc qua vụ Thiên An Môn hai năm trước để cho thấy tương phản giữa lớp trẻ hoang tưởng và các đại lão vinh quang rực rỡ như bao giờ.

Các quan sát viên đến tận nơi nhận thấy xứ Tàu không bị lay động bởi các hổn loạn kiểu Nga. Đám biểu tình 1989 đi tù hay trốn ra nước khác. Giới trí thức có tinh thần cải cách đành im lặng hậm hực trong lúc chính quyền quyết tìm cho ra cảm tình viên cuối cùng của phong trào sinh viên nổi dậy. Hoàn toàn trái ngược với Moscou trước và sau chính biến làm cho CSN thổ huyết gần đến chết, Bắc Kinh thông báo số đảng viên gia tăng, đạt con số quá 50 triệu. CST muốn nói sẽ trường tồn, không bị giới hạn trong 70 năm nói trong Thánh Kinh.

Điều gì làm cho CST sống dai trong khi các các chế độ CS Đông Âu băng vữa và CSN đã đi đến giai đoạn cuối hoàn tất việc chuyển quyền cho người không CS?
Khác biệt giữa Tàu và Đông Âu là ở chỗ chính thể CS Tàu xuất phát tại chỗ, là sản phẩm của một chiến thắng quân sự do người địa phương lãnh đạo, chứ không phải bị áp đặt bởi bàn tay Xô Viết. Đa số dân chúng căm ghét chính phủ; bên cạnh mong ước mạnh mẽ một nền dân chủ của giới trí thức, ai cũng thấy rõ mức độ cao rộng của sự bất mãn của dân chúng đô thị vào thời 1989 đối với tham nhũng và lạm phát. Nhưng độc lập thoát ách nô lệ không thành vấn đề quan yếu như ở Ba Lan, Đông Đức, Hung Gia Lợi và Tiệp Khắc cùng thời điểm ấy.

Lãnh đạo già nua của Tàu được sinh viên “cống hiến” một cuộc cách mạng ôn hòa êm dịu trong hòa bình khi biểu tình năm 1989. Nhưng họ lo ngại sẽ nẩy sinh một phong trào công nhân độc lập như kiểu Solidarity ở Ba Lan. Tuy vài niên trưởng đề nghị hòa hoãn kéo dài và không dùng quân đội để dẹp loạn như kiểu Đông Đức, CST dùng giải pháp Lỗ Mã Ni, tức là quyết liệt bạo hành.

Vì sao không làm theo Gorbachev là dùng nền dân chủ chính trị theo mục đích riêng để vẫn tồn tại? Sự khác biệt về thế hệ có thể giải thích giúp. Gorbachev là lãnh đạo thuộc thế hệ thứ tư hay thứ năm, ra đời sau cách mạng 1907. Ông bước vào ghế lãnh đạo để thấy rằng Liên Xô đã thua Tây phương trong cuộc cạnh tranh dài 60 năm, bắt đầu với kế hoạch năm năm của Staline và chính sách New Deal của Roosevelt. Không có cải cách kinh tế triệt để thì chế độ ông thừa hưởng sẽ tuột dốc; không có cải cách chính trị thì không cách nào phá vỡ sự ù lì nha lại, và giải trừ sự thờ ơ của dân chúng, kết quả của 70 năm CS cai trị. Cho dù tình hình gay cấn nguy kịch, quay đầu lui còn nguy hiểm hơn, tệ lậu hơn.

Trái lại, ở Tàu, Đặng Tiểu Bình có thể đem lại một sức lực mới cho nền kinh tế trong thập niên 1980 bằng cách cắt bỏ xiềng xích của nông dân trong gông cùm tập thể hóa theo kiểu Xô viết. Năm 1989, mặc dầu cải cách kỹ nghệ gặp nhiều trở ngại, ông vẫn có lý tin rằng một nước Tàu do CS lãnh đạo sẽ trở thành một quốc gia tân tiến và hùng mạnh, không cần phải nhượng bộ đủ thứ cho các nhà cải cách chính trị. Vậy thì không có lý gì một kẻ thuộc thế hệ cách mạng thứ nhất, đã từng là chính trị viên trong quân đội thắng trận nội chiến, chai lỳ vì đấu tranh trong cuộc cách mạng văn hóa của Mao, không lý gì kẻ ấy lại trao kết quả của một đời người cho đám người trẻ thiếu trang bị biểu tình hòa bình ngoài đường phố.

Vẫn còn câu hỏi tại sao có sự nức rạn trong các đảng CS từ Bá Linh đến Bắc Kinh, những đảng cứng hơn đá, thường được cho là có kỷ luật sắt, tổ chức khít khao.

Nhà nước tổ chức theo mô hình của Staline được mô tả như một tam giác độc tài toàn diện mà bên trong có thêm một tam giác thứ hai. Nằm trên đĩnh tam giác ngoài là lãnh tụ “kính yêu”, nguồn cảm hứng chính thức, là đấng phải tuân theo phải nghe lời. Một cạnh nâng đợ đĩnh là hệ thống thư lại đảng và nhà nước có nhiệm vụ thi hành lệnh của lãnh tụ; cạnh kia là chủ thuyết Mac Lê (thêm tư tưởng Mao ở Tàu) bảo đảm tính cách chính thống, chính truyền của lãnh tụ và là nơi ghi giữ ý nghĩ của lãnh tụ. Cạnh đáy là quân đội giữ vững bảo vệ toàn thể cơ cấu. Tam giác nhỏ thứ hai nằm trong tam giác ngoài gồm đủ loại hệ thống:  an ninh, cảnh sát, mật vụ, đoàn thể .... giúp cho tam giác ngoài giữ vững xã hội trong lồng, trong chuồng.

Đông Âu, cơ cấu chính trị nội bộ có những yếu tố ngoại xứ. Đĩnh đích thực của tam giác không phải là các phó vương địa phương như Honecker Đông Đức, hay Jaruzelski Ba Lan, mà là Khrushchev ...; chính ông nầy mới giải thích chủ thuyết Mac Lê; kẻ bảo vệ tối thượng của chế độ không phải là quân đội mà là hồng quân Nga chiếm đóng; bằng chứng rõ rệt là vụ Nga đàn áp Hung Gia Lợi khi thủ tướng Imre Nagy cầm đầu cuộc cách mạng 1956 hầu đưa xứ sở khỏi khối CS theo tinh thần chủ nghĩa quốc gia. Người cai trị các xứ chư hầu không được tự do hành động trong xã hội mà phải hành động đúng theo đường hướng của Moscou. Trong thập niên 1970, theo chính sách hòa hoãn, Brezhnev khuyến khích các nhóm xã hội Đông Âu đưa ra các sáng kiến theo tinh thần hiệp định Helsinki. Nhờ đó Ba Lan mới dám nhận tín dụng của Tây phương để đổi với việc dân chủ hóa. Khi Gorbachev quyết định bỏ đế quốc Xô viết và đặc biệt khi Hồng Quân không bảo vệ các phó vương (khác với những năm 1953, 1956, 1968, 1979) thì tam giác bên trong không còn đủ sức kềm chế công dân bất mãn.


Liên Xô, glasnost (tự do ngôn luận) đã gây khốn khổ cho cạnh ý thức hệ của tam giác ngoài trong lúc perestroika (chỉnh đốn cơ cấu) đã đâm toạt cạnh nha lại (nhà nước và đảng). Trí thức, công nhân, các nhóm thiểu số có thêm nhiều tự do nhờ khối đá đã rạn nức. Dân chúng nhận định rằng cái gì cũng đẹp hơn cuộc sống trong cái tam giác ấy. Dân chúng đã biểu lộ điều nầy khi xuống đường chống đảo chánh.

Nga lẫn Đông Âu, thành phần quốc gia và trí thức đã nắm mọi cơ hội hiếm có hay không có nếu không có Gorbachev. Ông đã quyết định những việc tày trời như sau: cho phép cật vấn, chỉ trích chủ thuyết Mac Lê; cho phép tấn công nha lại, và không dùng bạo lực. Hãy xét trường hợp Ba Lan. Không ai phủ nhận lòng can đảm của công nhân đứng dậy những năm 1970, 1976 và 1980, nhưng khối đá tam giác tại đấy không vỡ tung vì các áp lực từ bên trong mà vì cái vung tay của “đĩnh”, tức là sự mở cửa của Gorbachev.

Nay nhảy qua Tàu. Theo lời cáo buộc của các cụ CS bát tuần, “ô nhiễm” tinh thần từ Âu Châu là yếu tố gây ra biểu tình Thiên An Môn. Nhưng tư tưởng Tây phương chỉ có thể thẩm nhập Tàu vì Mao và Đặng đã làm suy yếu cơ cấu độc tài từ thượng tầng. Năm 1966, Mao xua Hồng Vệ Binh (học sinh) tấn công thành phần nha lại của nhà nước-đảng; sáu bảy năm tiếp theo CS Tàu không có hệ thống hành chánh nào, các viên chức cao cấp mỗi người có nhóm quần thần riêng lo liệu mọi thứ.

Thật vậy, từ đĩnh của tam giác, Mao đã dùng hai cạnh (ý thức hệ và quân đội bảo vệ) chống lại cạnh thứ ba của tam giác, có ý dùng thành phần ưu tú của Hồng Vệ Binh thay cho lớp nha lại cạo giấy già nua. Nhưng khi học sinh chém giết nhau, Mao buộc lòng giải tán Hồng Vệ Binh và để cho quân đội (People’s Liberation Army) đảm nhiệm công việc của đảng. Về sau Mao và Đặng phải tranh đấu khó khăn yêu cầu quân đội trả lại quyền năng chính trị, cho phép một đảng hồi sinh nắm giữ chức vụ bình thường.

Mặc dù được hồi phục chính thức, CST không bao giờ lấy lại được uy tín và uy quyền trước Cách Mạng Văn Hóa của Mao. Để trả lời vì sao, xin đọc đoạn văn sau đây Mao viết năm 1927 vào những ngày cách mạng nông thôn:
“Đội vương miện” cho địa chủ và tuần diễu khắp làng … Một cái mũ bằng giấy rất cao chụp lên đầu một ác bá địa phương, mang những chữ như: cường hào địa phương v.v…, hắn bị kéo đi bằng một sợi dây, có những đám đông đi trước và sau hắn. Thỉnh thoảng có đánh phèn la, phất cờ gây chú ý. Lối trừng phạt nầy, hơn bất cứ cách nào khác, làm cho địa chủ cường hào run sợ. Kẻ nào được đăng quan bằng cái mũ giấy nầy sẽ mất mặt và không bao giờ dám ngẩng đầu lên.

Không những chỉ những cấp lãnh đạo thất sủng trong cuộc cách mạng văn hóa như Đặng Tiểu Bình bị mất mặt vì được “đăng quan” như trên, mà chính cả đảng CS Tàu mất mặt. Có thể Mao chỉ đơn giản tin tưởng đang thanh lọc thành phần phản động khỏi đảng, nhưng quảng đại quần chúng không phân biệt cá nhân lãnh đạo và cơ quan. Ví dụ đa số dân biểu thượng hạ viện Mỹ phải vô tù vì tham nhũng thì chắc chắn quốc hội không thể còn nguyên uy tín như xưa.

Mặc dù hầu hết nạn nhân đã được phục hồi danh dự, CST không thể tái lập vị thế xưa. Đặng Tiểu Bình cũng đóng góp vào việc hủy bỏ tính cách chính thống của đảng, tuy theo phương cách khác. Cuối cùng khi thoát thai thành người kế vị Mao năm 1978, Đặng Tiểu Bình nói với các đồng nghiệp như sau:
Phẩm chất lãnh đạo do đảng chỉ định ở một đơn vị kinh tế sẽ được xác định bởi phương pháp quản trị tân tiến, sự canh tân kỹ thuật, gia tăng hiệu năng của nhân lực, lợi nhuận, lợi tức cá nhân của từng người thợ. Phẩm chất lãnh đạo do đảng chỉ định trong mọi lãnh vực cũng đều sẽ được suy xét cùng các tiêu chuẩn như thế.

Nói khác, tiêu chuẩn để định giá trị của cấp lãnh đạo và đảng viên là sự hữu hiệu kinh tế. Tuy gợi lên mười năm lãng phí của cách mạng văn hóa, ý niệm nầy khác xa với quan niệm của Staline, đảng là tổ chức duy nhất có khả năng qui tụ các cấp lãnh đạo đấu tranh vô sản; cũng như Lưu Thiếu Kỳ xác định rằng tính chất vô sản của CST được ấn định bởi sự đấu tranh chính trị và đời sống chính trị, giáo dục ý thức hệ và lãnh đạo ý thức hệ và chính trị.

Khi nhấn mạnh kỹ năng quản trị và sự lãnh đạo kinh tế, thẩm quyền chuyên môn là căn bản ủy nhiệm, Đặng Tiểu Bình đã gạt bỏ quyền của CST cai trị với tư cách tiên phong của vô sản. Ông còn tạo thêm khó khăn cho đảng khi soát xét tra hỏi lý thuyết Mac Lê cùng tư tưởng của Mao phải chăng đủ sức ấn định tính chất chính thống của Đảng. 
Đặng Tiểu Bình
Image result for political cartoons deng xiaoping
Đặng Tiểu Bình cũng từ bỏ vị trí đĩnh cao bằng cách từ chối những chức vụ mà Mao đảm trách, ngoại trừ chủ tịch ủy ban quân vụ. Ông đã đi đến sự thuận hợp từ nay không ai có thể thống trị đồng nghiệp như Mao nữa. Như vậy, tuy được xem là trọng tài tối hậu, ông đã làm cho hình tam giác mờ đi ở đĩnh, hai cạnh sườn bị nứt, chỉ còn cạnh đáy quân đội còn giữ nguyên. Ông cũng làm yếu tam giác nhỏ thứ hai bên trong bằng cách không coi trọng đấu tranh giai cấp và tuyên bố mọi người bình đẳng trước pháp luật.

Đồng thởi, họ Đặng đã giúp sức cho ba nguồn sinh lực đang bị gông cùm: nông dân, bằng cách hủy bỏ sự kiểm soát của đảng qua hệ thống tập thể và cho họ tự canh tác theo từng gia đình riêng rẻ; dân chúng thành thị bằng cách khuyến khích mở các xưởng tư, và cung cấp dịch vụ; và thứ ba, trí thức và sinh viên bằng “giải cảng”, mở cửa trông ra xứ người, cho phép du lịch và phổ biến các tư tưởng, một cách tương đối tự do. Ba lớp người trên đều ý thức rằng Tàu đã đi thụt lùi quá xa dưới sự lãnh đạo của CST, cay đắng nhìn những quốc gia từng bị chiến tranh tàn phá, Nhật, Nam Hàn và Đài Loan dạy cho bài học rằng Tàu cẩn bỏ nhu cầu ở lỳ trong tình trạng chậm tiến.

Goddess of Democracy in Tiananmen Square.jpg
chữ Tàu: dân chủ nữ thần

Cái chết của Hồ Diệu Bang có thể là ngòi lửa châm cháy cánh đồng cỏ xã hội đã khô. Không thể nói sinh viên đã hiểu đầy đủ ý nghĩa hai chữ dân chủ; nhưng họ và đồng hương ở Bắc Kinh và các thị trấn khác biết rằng họ muốn thoát ách đàn áp. Thư lại, nhà tuyên truyền và ngay cả lãnh đạo đảng đã ủng hộ. Bước cùng của ý thức hệ đảng đã hiện rõ nơi bức tượng “nữ thần dân chủ” đối diện với tượng của Mao. Thiếu sự hổ trợ từ bên ngoài, tam giác nhỏ bên trong đã bị vô hiệu hóa, họ Đặng phải nhờ Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân cùng lúc đóng vai trò của cả hai tam giác ngoài và trong.

Yếu tố chung các cuộc đảo lộn khắp khối CS chính là sự tấn công từ thượng tầng chứ không phải từ áp lực bên trong. Các hệ thống độc tài tuyệt đối đủ sức cầm cự điều ngự các áp lực từ các khối dân trong xã hội nhưng tan rả khi lãnh đạo, vì muốn thay đổi triệt để, đã khơi mào những thách thức bên ngoài và có những hành động bất lợi cho hệ thống.

Chủ trương “tập trung dân chủ” là một sự bao che cho hệ thống đẳng cấp dựa trên sự tuân thủ nghe lời không thắc mắc. Vì không có hậu thuẩn của dân chúng tại địa phương, các đảng bộ không có khả năng độc lập để sống còn, trái lại tồn tại nhờ sức mạnh bên trên bang cho, chứ không phải nhờ sức mạnh từ bên dưới. Khi lãnh đạo tối cao dùng vị thế cá nhân để tiêu diệt thuộc cấp, phản ứng chung sẽ là sự chấp nhận thụ động cứng như đá, câm như trìa. Đó là trường hợp Nga thập niên 1930, Tàu 1960 và Đông Âu vào những năm 1980.

Sự khác biệt giữa một bên là Staline và bên kia gồm Mao, Đặng và Gorbachev như thế nầy. Staline xua tổ chức xã hội chống giới thư lại, dùng phần nầy diệt phần kia trong guồng máy nhà nước. Một thời gian dài, mật vụ đã đảm nhiệm mọi công việc chính của đảng, song song với nhiệm vụ bình thường là kiểm soát toàn xã hội. Thế nhưng người dân thường ngoài phố không bao giờ được phép nghĩ rằng đảng sẽ bị hủy diệt để cho mình một cơ hội hành động theo ý muốn.

Ngay trước cuộc chính biến tháng tám, các lãnh tụ trội yếu của Nga như Yelsin đã bỏ đảng, cho thấy họ có ý định thành lập một tổ chức chính trị mới. Chủ thuyết Mac Lê và di sản của cách mạng bôn sê vít và chính cả Lenine được đem ra hạch hỏi. Giá như đảo chánh thành công, phe chủ trương không thể phục hồi những yếu tố chuyên biệt của hệ thống CS; họ sẽ thiết lập nền độc tài quân phiệt khiếp đãm theo kiểu Napoléon Bonaparte. Đảo chánh thất bại cho thấy cạnh đáy của tam giác quyền lực là Hồng Quân đã bị lủng đoạn bởi các sự chia rẽ đến từ glasnost và perestroika. Số phận nầy cũng đã đến với cột trụ của tam giác nhỏ là KGB; bằng chứng là sự kéo sập tượng Dzerzhinski (1877-1926; cha đẻ của mật vụ Cheka).

Thiếu sự nương tựa truyền thống của đảng, của chủ thuyết và của quân đội, vị trí lãnh đạo của Gorbachev rất tế nhị. Mặc dù không đúng, nhưng hiểu được, khi tái thừa nhận tầm quan trọng của CSN, Gorbachev trong sáu năm qua đặt ra một nền móng mới: chỉ có sự ủy nhiệm của dân chúng mới là nguồn gốc của sự chính thống của mọi cơ cấu chính trị cai trị USSR ngày nay.

Nhưng Yelsin nắm điều nầy và chuyển đổi quy chế chính trị cá nhân và được bầu làm tổng thống cộng hoà Nga. Với vị trí mới nầy, Yelsin đang tìm câu giải đáp là chức vụ tổng thống toàn Xô Viết có chăng đủ sức liên kết các cộng hòa trong liên bang vào thời đại mới.
Sau chính biến bất thành, Yelsin công bố ý muốn thành lập một quân đội riêng cho cộng hòa Nga và ông đã cấm hay giới hạn hoạt động của đảng CS tại Moscou và nhiều nơi khác trong cộng hòa nầy. Sự thể nầy cho thấy (1991) việc giải tán hoàn toàn tam giác độc tài Xô viết chỉ là vấn đề thời gian.

Bên Tàu cũng vậy, sự băng hoại đã đi quá xa. Nền độc tài tuyệt đối đang run rẩy nhưng vẫn được duy trì bởi ý chí chung và đoàn kết của lớp già bao quanh Đặng Tiểu Bình. Vai trò lịch sử của họ trong tư cách anh hùng cách mạng – chứ không phải đảng CS, tư tưởng Mao hay quân đội – đã cho chế độ một điều giống giống của sự liên tục, của sự bất khả thẩm nhập, cũng như một bóng mờ tả tơi của điều gọi là tính chất chính thống của quyền lực. Họ không còn sống bao lâu để tiếp tục như vậy.

Thật vậy, khá kỳ dị, tình hình chính trị Tàu thập niên cuối giống như thập niên đầu của thế kỷ 20. Lúc ấy, ý thức hệ cổ truyền giao chính mệnh cho giới cai trị nay bị hủy bỏ khi các định chế quốc gia được canh tân hóa. Hệ thống nha lại dựa trên ý thức hệ nầy nay không còn quyền lực; công chức có kỹ năng mới được trọng dụng. Cũng vậy, tuy dân chúng ly loạn, một chế độ sạt nghiệp vẫn được duy trì từ hậu trường với một ông vua bao dàn làm màu mè bên ngoài. Nhưng khi Từ Hy thái hậu chết năm 1908, tam giác quyền thế cổ truyền đã mất yếu tố quan trọng nhất và bốn năm sau hệ thống hoàng triều mất dạng.

Trong chỗ trống do cái chết của Từ Hy, chỉ có nhà binh mới có thể sử dụng quyền uy. Một vị tướng danh tiếng lúc ấy là Viên Thế Khải đã dàn xếp cho hoàng đế cuối cùng thoái vị, lập nên nền cộng hòa kế tiếp rồi tái lập hệ thống quyền hành xưa và lên làm vua trong 83 ngày, rồi  kéo theo nạn sứ quân. 80 năm sau, nhiều điều trong tấn tuồng nầy được diễn lại. Sau vụ Thiên An Môn, quân đội tự nắm trọng trách sắp xếp quyền hành khi Đặng Tiểu Bình rời khỏi sân khấu. Thượng tướng Dương Bạch Băng xuất hiện đảm trách chính sự, tuy kinh nghiệm ở Nga cho thấy giới quân sự không thể điều khiển một quân lực chia rẻ một khi tam giác quyền uy sụp đổ.

Hệ thống CS Tàu không thể sống sót; những cột trụ chống đở đã mục; đảng CS Tàu không có mục đích nào khác. Khi ra đời 70 năm trước, nó có mục đích tái thống nhất quốc gia, trả thù những nhục nhã ngoại quốc đặt lên đầu, phát triển kinh tế và chuyển hóa xã hội. Cách mạng 1949 thực sự đã tái thống nhất mọi lãnh thổ của vương triều xưa, và bắt đầu đứng dậy như một cường quốc chưa từng có một trăm năm nay.

Nhưng 42 năm nối đuôi nhau chứng kiến những cuộc thí nghiệm kinh tế và xã hội vô cùng nguy hại. Những chương trình cải cách do Đặng Tiểu Bình đệ trình là lời xác nhận rằng kinh tế CS không làm được tích sự gì, rằng sự chuyển cải xã hội theo lối CS là một tai ách. Ở tuổi 70, đảng CS Tàu cũng như CS Nga tranh sống chỉ để giữ quyền hành đã nắm được từ thời cách mạng xa xưa. Khi lớp trẻ lên thế các “cha già cách mạng”, thì họ thấy vô số vấn đề khác rất quan trọng cho quyền lợi quốc gia, như trường hợp Gorbachev.

Về tuổi thọ bình thường, Thánh Thi trong Thánh Kinh (Psalms) viết: số năm đời người gồm ba bó cộng mười (three-score years and ten; 20 x 3 + 10 =70). Nhưng nếu vì sức lực riêng mà sống đến bốn bó (90) thì cũng chỉ có nhọc nhằn và sầu khổ.

Già hơn 70 rồi, đảng CS Tàu còn kéo lê ngày dài nhọc nhằn và sầu thảm. Thiên An Môn cho thấy xã hội có thể thách thức chính quyền độc tài. Thiên An Môn là một chiến thắng kiểu Pyrrhic, thắng trong trường hạn nhưng bây giờ đành thua. Tuy có hai bối cảnh khá khác biệt, và mục tiêu gần như đối nghịch, Thiên An Môn và đảo chánh bất thành ở Nga cho thấy đã đến lúc các nhà nước độc tài phải cáo chung. (Aug 29, 1991)

===================================================================================================================




Monday, May 27, 2019

Gorbachev cầm vàng lội sang sông




Gorbachev chết rầm rộ trên internet ngày 25.05.2019 nhưng vẫn còn sống

Gorbachev, đế quốc Nga .....
The Man Who Lost an Empire
Strobe Talbott, ttt dịch

Năm 1921, năm trước khi thành lập Liên Xô, Lenine thách thức các đồng đảng bôn chê vít bằng một câu hỏi hoa mỹ: “ai sẽ nắm đầu ai”. Staline thì nói ngắn hơn: “ai với ai?”. Hai ông nầy đều quan niệm chính trị là một cuộc cạnh tranh sống chết, trong đó kẻ thắng được hết mọi thứ.

Ngày nay Putin cũng nghĩ như vậy. Ông chua chát nhìn lại hai thập niên 1980 và 1990. Ông thấy sự xáo trộn đảo điên náo động của giai đoạn nầy không những chỉ là sự sụp đổ của Liên Xô và là chiến thắng của kẻ thù Nga ở Tây phương mà còn là một đòn quyết tử đánh vào tiểu bang Nga trong liên hiệp các nước xô viết. Chế độ cai trị của Putin, ngày qua ngày, vẫn lởn vởn câu hỏi: trách ai?

Trong mắt Putin, gánh trách nhiệm lớn nhất là người đứng đầu cuối cùng của Liên Xô, Mikhail Gorbachev, kẻ cầm đầu tai vạ địa dư to lớn nhất của thế kỷ 20. Putin không tố cáo, trừng phạt Gorbachev nhưng đối xử khinh bỉ một cách tinh vi. Gorbachev du hành khắp nơi, nhận những tôn vinh cao đẹp và tiền thù lao vì ông biết tại quê hương, dân chúng khinh miệt. 1996 ông ứng cử tổng thống chỉ nhận được nửa phần trăm số phiếu.

Nay gần 90 (sinh 1931) và sức khỏe kém, Gorbachev sống âm thầm ở ngoại ô Moscou, nhưng không ngậm câm. Trong thập niên qua, ông đã tám lần lên tiếng trong các cuộc phỏng vần dài của sử gia William Taubman và phu nhân Jane Taubman, giáo sư Nga ngữ cùng tại đại học Amherst. Gorbachev: His Life and Times tuy chỉ là cuốn mở đầu về các lần tiếp xúc nầy, đã cho thấy những phần sâu kín nội tâm của Grbachev và cho độc giả một tầm nhìn khá đầy đủ về khuôn mặt lịch sử nầy.

Gorbachev ra đời trong một làng quê phía bắc Caucase trùng hợp về không gian lẫn thời gian với sự thăng tiến của Staline. Cả gia đình ông chống lại hiện tượng nầy và đồng thời khốn khổ vì hiện tượng nầy. Mẹ và bà ngoại nhất định phải bí mật xin rửa tội cho ông khi sinh 1931, không kể sự dẹp bỏ tôn giáo một cách cay nghiệp, song hành với tập thể hóa. Ông không bao giờ biết hai người chú và một người cô đã chết vì thiếu ăn trong nạn đói ngày đó, không biết cả hai ông nội ngoại đã đi tù Gulag trong cuộc Đại Khủng Bố của Staline.

Sách cũng mô tả một cuộc tình. Gorbachev gặp Raisa Titarenko tại đại học Moscou. Cuộc sống chung được bền vững lâu dài là nhờ nàng có trí thông minh; ý chí mạnh mẽ, tin tưởng vững chắc và tận tụy hoàn toàn cho người chồng nhiều tham vọng và hướng ngoại. Nàng hy sinh sự nghiệp thành công của một nhà xã hội học, che chở lang quân trước kẻ thù và lòng tự tin và hấp lực tự nhiên đối với người khác. Không ai ảnh hưởng Gorbachev bằng Raisa.



Raisa Gorbachev (1932-1999)

Trước đấy Taubman đã viết về cuộc đời và sự nghiệp của Nikkita Khrushchev, thô bạo, tự kiêu, hung hăng hiếu chiến; nhưng là người lãnh đạo Liên Xô duy nhất trước Gorbachev được mang danh là nhà cải cách. Khrushchev suốt đời hầu như là tay chân thủ hạ của Staline, tay luôn vấy máu. Nhưng một khi nhà độc tài chết, Khrushchev đã mưu mô thủ đoạn hơn các đồng nghiệp để thế chân, làm mọi cách để tẩy dấu vết Staline (de-Stalinize) khỏi Liên Xô, phóng thích tù nhân Gulag, giảm đàn áp và kiểm duyệt. Ông cũng trả giá cao vì các cuộc thí nghiệm tự do hóa xã hội và văn hóa Nga. Năm 1964, bộ chính trị đã triệu hồi ông đang nghỉ mát ở Hắc Hải về thủ đô, cách chức làm một người về hưu đặc biệt, quản thúc tại gia cho đến khi chết.

Nhưng sự trừng phạt mà Gorbachev phải chịu đựng là nhìn thấy sự xóa bỏ công lao của chính mình và sự tái lập một chế độ độc đoán cướp bóc dưới sự điều động của một sĩ quan tình báo trung cấp KGB với mục đích, phương pháp và chính sách khác với những gì đã làm cho Gorbachev thành một khuôn mặt chuyển hóa toàn diện.
Gorbachev đã có những móc nối liên lạc với KGB ở cấp cao hơn. Hầu như ông không thể lên nắm quyền nếu không có sự giúp đỡ của Yuri Andropov, đứng đầu tình báo Nga trong 15 năm trước khi nắm chức đảng trưởng năm 1982. Andropov gặp Gorbachev năm 1968 ngay khi mới nắm KGB. Lúc ấy, là một đảng ủy cấp tỉnh trẻ, Gorbachev đã dung hòa sự trung thành với một đầu óc giàu có, tinh thần thực tế và nhiều sáng kiến canh tân, điều mà Andropov thấy Liên Xô đang cần đến.
Andropov cho phép ông xem các tài liệu hồ sơ về sự lụn bại của xã hội Liên Xô. Nền kinh tế èo uột. Cơ cấu chính quyền cứng đờ, không hữu hiệu; luật pháp không được tôn trọng hay bất công. Các thành phố kỹ nghệ làm không khí và nước ô nhiễm vì chỉ chú ý đến vũ khí quốc phòng, trong lúc người dân bình thường phải xếp hàng dài mua thực phẩm hay hàng hóa không phẩm chất. Nền canh nông tập thể làm cho đời sống nông dân vô cùng cơ cực; vệ sinh sức khỏe công cọng gồm những thứ dốt nát đảm trách. Dân chúng, đặc biệt chủng tộc Slav nhiều nhất, nghiện rượu, ít sinh sản, và tuổi thọ ngắn. Andropov qui lỗi cho các chính sách chểnh mãn, lố bịch của Brezhnev, tức là gã lông mày rậm, nặng nề buồn thảm thay thế Khrushchev năm 1964.

Andropov kế vị Brezhnev năm 1982. Ông bị thận suy cho nên vài tháng sau thì phải điều khiển chính sự từ nhà nghỉ và không rời máy lọc thận. Nằm tại bệnh viện, ông thúc dục thuộc cấp chọn Gorbachev lên thay. Nhưng khi Andropov chết vào tháng 2 năm sau, họ đã nhất quyết rằng Konstantin Chernenco, anh nài già 72 tuổi của con ngựa đảng, là một ứng viên an toàn hơn, tuy hiện mang ba bốn thứ bệnh hiểm nghéo, kể cả hoại tim. 15 tháng sau họ phải tổ chức đám ma cho Chernenco.

Không giống như lần kế vị khi Andropov chết, kết quả lần nầy không được quyết định trước. Gorbachev, 54 tuổi, là tay đua dẫn đầu. Ông đã ở trong vị trí thứ hai trong bộ chính trị, có nghĩa ông sẽ chủ tọa phiên họp bàn về kế vị. Ngoài ông ra còn hơn mười ứng viên khác, từ 62 đến 80 tuổi, là những người CS đến tận xương tủy, nhiều kinh nghiệm về việc bảo vệ quyền lợi phe nhóm và giữ tình trạng hiện hữu không thay đổi. Gorbachev để mọi thành viên có tiếng nói; nhưng ông lèo lái họ rềnh rang chọn ông là chủ tịch ủy ban trông coi việc đưa xác Chernenco vào nhà mồ bên trong Cẩm Linh. Theo truyền thống, trách vụ có tính cách nghi lễ nầy có nghĩa là ông sẽ thành người lãnh đạo. Hôm sau, trung ương đảng chấp thuận không cần thảo luận.

Taubman mở đầu chương nói về những ngày đầu Gorbachev tại chức bằng câu hỏi vang vọng suốt lịch sử Xô viết: Phải làm gì? Đó cũng là đầu đề cuốn sách nhỏ của Lenine viết năm 1901. Nó kêu gọi chủ xướng một cuộc cách mạng XHCN mà Gorbachev và các thân hữu Leninist xem như đã mất hướng. Cho nên trái lại, Gorbachev xuất hiện trước công chúng với tư cách đảng trưởng rất bình dị cho người ta kỳ vọng tin tưởng rằng ông biết “phải làm gì?” để tạo lập một giai đoạn mới cho lịch sử Xô viết.

Tuy nhiên ông chưa có kế hoạch vững chắc để giải quyết các chứng bệnh kinh niên trong nền kinh tế quốc gia. Mà nếu có thì chính sách ấy cũng mang tính cách đe dọa các người khác trong chính trị bộ. Ông vẫn bị ám ảnh bởi số phận của Khrushchev. Phần nào vì lý do ấy, ông tránh né các sự cải cách triệt để về kinh tế. Tác giả cho rằng phong cách làm việc của Gorbahev chưa từng có, nhưng nội dung các chính sách kinh tế không như vậy, nghĩa là chưa có gì thay đổi sâu đậm. Nhưng về ngoại giao thì khác. Gorbachev đã chuyển hóa mạnh mẽ chính sách ngoại giao, tu chỉnh mọi khía cạnh.

Cuối năm 1986, ông đi đến kết luận rằng phương cách duy nhất để đảng CS có thể duy trì uy quyền đối với xã hội Xô viết là mở ra một hệ thống tham gia của công dân. Cũng như đưa người chủ trương cải cách thay lớp người bảo thủ. Ông đã làm việc nầy; với tư cách tổng thư ký đảng, ông đã đưa Andrei Gromyko ra khỏi bộ ngoại giao để giữ chức hàm quốc trưởng để thực thi “suy nghĩ mới” ngõ hầu củng cố địa vị của Nga trên thế giới. Lối suy nghĩ cũ đặt trên sự tin tưởng rằng đế quốc Tây phương luôn chục sẵn, chờ bất cứ cơ hội nào để xâm chiếm Xô viết. Trong những tháng đầu, ông luôn nhắc nhở dân chúng: “chúng ta phải sống, và để người khác sống”, gián tiếp bác bỏ khẩu hiệu của Lenine: ai sẽ nắm đầu ai?

Vài tháng trước khi thành tổng thư ký, ông đã viếng thăm Anh quốc và gây ấn tượng tốt đối với nữ thủ tướng Margaret Thatcher (bà nói: chúng tôi có thể cộng tác, cùng làm việc chung). Ronald Reagan – người nổi danh vì gọi Xô viết là đế quốc quỉ quái – lúc đầu tỏ ra hoài nghi nhưng đã thay đổi tư kiến sau khi cuộc gặp gỡ tại Genève mùa thu 1985. Reagan vẫn xem Xô viết là đế quốc quỉ quái nhưng với Gorbachev nó ít quỷ quái hơn.

Reagan lẫn Gorbachev không nhận định đế quốc nầy đang nằm trên bờ tung vỡ. Từ khi cầm quyền, Gorbachev ít chú tâm đến các nước chư hầu trong minh ước Varsovie vì ông tin rằng các quốc gia nầy sẽ theo đường lối cải cách của ông. Từ đầu thập niên 1950, Hung Gia Lợi, Tiệp Khắc, Đông Đức đã tìm cách tự do hóa để rồi bị xe tăng Xô viết đè bẹp chiếm đóng. Nhưng tại hội nghị thượng đĩnh các quốc gia trong minh ước nầy, ông bảo đảm “bình đẳng, độc lập và quyền các quốc gia ấn định đường lối chính trị, chiến lược, chiến thuật riêng không bị quốc gia đệ tam bên ngoài can thiệp vào nội bộ”. Ông nghĩ rằng từ chối việc dùng bạo động làm căn bản cai trị sẽ là sự cứu rỗi cho Xô viết và người anh em ở Đông Âu. Theo Taubman, đó là sự đoạn tuyệt cùng tột đối với các tiền nhiệm. Nhưng nay không có sự che chở của Moscou, các đảng trưởng Đông Âu khó thở trong bàn tay của công dân trong nước; gương glasnost (khai phóng và tự do ngôn luận) perestroika (chỉnh đốn cơ cấu) và lối suy nghĩ mới đã khích động mạnh mẽ lớp người thích cải cách có tinh thần độc lập khắp các xứ chư hầu.

Một cuộc vận hành tương tự cũng xẩy ra ngay trong liên bang Xô Viết, nhưng có hậu quả tai hại cho Gorbacev. Các nước Trung Âu đã có kinh nghiệm về nền dân chủ đại nghị trước khi bị Đức xâm chiếm và bị Xô viết cai trị mấy thập niên qua. Các nhà cải cách ngày nay có thể dùng quá khứ vào việc hiện tại. Nhưng trái lại, Xô viết không có lợi điểm nầy, sau bao thế kỷ cai trị độc đoán.

Trong nhiệm vụ kép bất thường (vừa đứng đầu đảng, vừa cầm đầu phong trào cải cách), Gorbachev hy vọng dân chủ hóa đảng CS thay vì xóa bỏ. Tác giả giải thích rằng kế hoạch 1989 nhằm chuyển quyền hành từ cấp đảng qua tay công dân bằng bầu cử tự do chọn nhân viên hội đồng cai trị địa phương, cấp tỉnh và cấp quốc gia.

Việc mở cửa chính trường cho dân chúng bước vào là điều mong ước lâu ngày của nhóm ủng hộ tự do. Lớp nầy ngóng về thời dân chủ phôi thai có các cuộc bầu cử đúng nghĩa, trong giai đoạn ngắn có sự cải cách hiến định, có việc thành lập nghị viện, có hệ thống đa đảng tranh cử; những việc nầy xẩy ra sau cuộc cách mạng Nga 1905, được ít lâu thì bị Bôn sê vít chà nát. Taubman tin rằng chiến dịch bầu cử một một nghị hội mới cho Liên Bang Xô Viết sẽ là cuộc cờ mới, dân chủ hơn mà Gorbachev đeo đuổi tuy không rõ ông sẽ thắng hay không. Như ông tiên liệu, thành phần thủ cựu theo đường lối cứng rắn sẽ chống lại việc vất bỏ quyền lực của đảng. Nhưng mặt khác kế hoạch không thành tựu – đáng ngạc nhiên – bởi chính phe tự do cho rằng ông đi qúa chậm, để các lãnh chúa địa phương có thì giờ củng cố tại lãnh địa riêng (nhóm tự do gồm có kẻ bất đồng chánh kiến lừng danh Andrei Shakarov mà Gorbachev chấm dứt án lưu đày trên quê nhà).

Lãnh tụ địa phương quan trọng nhất là Boris Yelsin, một đồng minh cũ của Gorbachev. Tại tỉnh lỵ Sverdlovsk vùng Ural, Yelsin có uy danh là một nhà canh tân nhiều nghị lực nên ông được Gorbachev đem về thủ đô và trao cho nhiệm vụ điều khiển đảng bộ quan trọng nầy. Yelsin đã nhiệt tình nhiều hơn Gorbachev mong chờ. Nhưng những cay đắng tình đời và những tranh chấp chính trị xẩy ra giữa hai người được Taubman tả như những bi kịch của Shakespeare.
Yelsin vô cùng bực tức Gorbachev không chịu cho ông vào bộ chính trị với tư cách thành viên chính thức và có quyền thế đầy đủ. Khi Yelsin cả gan chỉ trích Gorbachev trong phiên họp của trung ương đảng, nghị trường đã dành 5 giờ sách hoạch ông. Nhưng bên ngoài, việc nầy gây phản ứng nghịch. Đối với người Nga đã quá chán đảng, Gorbachev đã trở thành bạo chúa, và trở thành nạn nhân của chính uy tín của mình. Gorbachev đã vô tình tạo ra một kẻ thù không đội trời chung.

Hai người cùng trân quý những giá trị và mục tiêu của nền dân chủ; nhưng phương pháp thì khác nhau ở mức độ trầm trọng.
Gorbachev định tâm duy trì một liên bang xô viết canh cải dưới sự lãnh đạo của mình. Để đi đến kết quả ấy, ông như cởi lưng ngựa; một chân bên nầy, một chân bên kia. Một bên là đảng CS, một đảng dân chúng nguyền rửa, chia rẻ và không có đầu óc và một bên là phong trào dân chủ non trẻ chống với cơ cấu quyền hành hiện hữu. Yelsin trái lại dùng hết ý chí và tâm lực củng cố cộng hòa Nga (một trong 15 cộng hòa của liên bang), từ đó ông có thể điều ngự sức ly tâm của liên bang. Yelsin đã được bầu làm tổng thống năm 1991 sau khi đã rời đảng CS năm trước và đưa ra khẩu hiệu: vì sức sống của cộng hòa Nga.

Nhóm ủng hộ tân trào hiện nay đang cố viết lại lịch sử, chú trọng đến huyền thoại Tây Phương, nói riêng là Mỹ, nhúng tay vào việc xé nát Liên xô. Kỳ thật, lúc ấy HK không theo đuổi mục tiêu nầy.
Khi mới bước vào Bạch Cung, Georges Bush Sr đã yêu cầu HK tạm ngưng “ôm ấp” Moscou để ông có thể hội kiến với bộ trưởng quốc phòng Dick Chenney và cố vấn an ninh Brent Scowcroft. Những viên chức nầy cho rằng tổng thống tiền nhiệm Reagan đã đi quá với khi ủng hộ chính sách tu chỉnh cơ cấu chính quyền và các cuộc cải cách khác ở Nga. Theo quan điểm của Taubman, việc ngưng nghỉ nầy là một điều sai lầm nguy hại. Lần đầu tiên từ cuộc cách mạng bôn sê vít 1907, Liên xô có nhà lãnh đạo không gọi HK là kẻ thù mà là một người cọng tác song hành, ít nhất trong tiềm năng.

Gorbachev có lý do chê trách sự ủng hộ lai rai cầm chừng của Mỹ từ 1989 làm ông mất hậu thuẩn trong nước. 1990 và 1991, ông khẩn cầu Mỹ giúp đầy đủ như ở mức độ của kế hoạch Marshall ở Âu Châu sau thế chiến 2, Washington từ chối, nại lý do kinh tế Mỹ đang đi xuống. Bush xoa dịu bằng cách nói lại lời khen của Reagan dành cho Gorbachev đồng thời nói thêm các cuộc canh tân ở Nga rất hữu ích cho Mỹ và nền hòa bình thế giới.

Bush đã cố sức giải trừ áp lực đòi độc lập của các cộng hòa xô viết, đặc biệt là Ukraine, nơi dân chúng đang chuẩn bị trưng cầu dân ý ly khai. Trong mục đích nầy, Bush đã đến Moscou và Kiev, nhưng không thành công ở hai thủ phủ nầy. Gorbachev khó xử nhưng Yelsin thì tin tưởng kết quả tốt. Tại Ukraine, chính quyền và dân chúng bát bỏ lời khẩn cầu của Bush để cho Gorbachev rảnh tay có thì giờ tự do hóa toàn quốc.

Hai tổng thống Nga Mỹ không thể thấy rằng mối đe dọa sinh tử cho Liên xô đã đã đâm mầm. Từ đầu xuân, Vladimir Kryuchko, đứng đầu KGB, đã tổ chức một âm mưu phản loạn yêu cầu Gorbachev tuyên bố tình trạng khẩn cấp, trao quyền cho nhóm quân phiệt. Tháng 8, 1991, nhóm phản loạn đã quản thúc tại gia Gorbachev và gia đình tại nhà nghỉ ở Hắc Hải.
Cuộc chính biến thảm bại. Nhóm chủ mưu không khả năng, có một chàng say túy lúy, một chàng tự sát. Nhưng dẫu sao đó cũng là một sự thua thiệt nặng nề cho Gorbachev và ông có lỗi đã không ngăn chận. Ông không để ý các lời báo động kể cả từ Bush rằng cuộc đảo chánh sẽ xẩy ra. Những phụ tá thân cận đã than phiền chủ tướng quá tự tin; ông không tin những kẻ nổi loạn sẽ phản bội, không thể làm gì nếu không có người lãnh đạo.

Dân chúng Moscou đã cứu Gorbachev bằng cách xuống đường biểu tình ôn hòa. Tuy nhiên mục tiêu không phải để kéo ông trở lại cầm quyền mà cốt để bảo vệ nền dân chủ sơ sinh do ông khơi mào và nay được Yelsin bảo vệ. Yelsin nhảy lên một chiếc xe tăng, kêu gọi dân chúng một lòng và chứng tỏ với thế giới nay ông là người của tương lai. Đối với Gorbachev, cuộc đảo chánh là một thảm kịch vừa cho cá nhân ông vừa có tính cách chính trị. Raisa, vợ ông bị đột quỵ vì không chịu được sự nhục nhã và vì những di lụy thời bị quản thúc ở Crimea. Bà không bao giờ bình phục.

Khi nhóm phản loạn vào tù, Gorbachev trở về văn phòng tại Cẩm Linh, ông như kiệt sức. Ông từ chức tổng thư ký đảng, hy vọng ông đứng xa cách đảng và duy trì chức vụ tổng thống. Nhưng không kịp. Yelsin và lãnh tụ các cộng hòa khác đã thương thuyết thành lập Khối Thịnh Vượng Chung của các cộng hòa độc lập. USSR giải thể ngày 26 Dec và ngày đầu năm 1992, cờ búa liềm sau 60 năm phất phới trên điện Cẩm Linh đã bị hạ xuống thay thế bởi cờ tam tài ba màu của Nga hoàng xưa. Cuộc chuyển tiếp không hổn loạn như Gorbachev lo ngại. Để tránh những sách nhiễu cho Gorbachev, Bộ trưởng ngoại giao Mỹ James Baker đã yêu cầu Yelsin “hưởng chiến thắng” một cách tử tế như Tây Phương. Năm 2006, có ký giả hỏi Gorbachev lúc ấy ông có nghĩ đến việc dùng bạo động để duy trì Liên bang Xô Viết hay không: ông trả lời: không, nếu có vậy thì còn chi là Gorbachev. Câu nói nầy hàm ý ông vẫn là một khuôn mặt anh hùng. Đồng thời ông cũng suy nghiệm về chính cuộc đời chính trị của mình, cảm thấy “tội lỗi”, chính trị đã gây bao nỗi khổ cho vợ (bà chết 1999, ung thư máu tại Đức). Nếu đời sống của chúng tôi khiêm tốn hơn thì bà nay vẫn còn sống.

Khải hoàn của Yelsin và niềm hoang lạc của người ủng hộ không kéo dài. Những bước sai lạc, những thất bại, những buồn tủi đã chờ đón ông từ những ngày đầu của thời gian bảo tố tám năm, đen tối như bóng đen mà ông đã thấy trong các thời tiền nhiệm. Nhưng ông vẫn mang nét thô bạo của thời đại CS. Tuy ghét bạo lực, ông phải dùng tới để chận sự bất ổn khi một quốc gia có diện tích lớn nhất thế giới rời rã thành nhiều miếng. Một trong những quyết định quan trọng nhất của ông là giữ nguyên biên giới xưa giữa các cộng hòa trong liên bang thành biên giới quốc tế khi các cộng hòa nầy độc lập thành các quốc gia riêng rẻ (có nghĩa không xét sự ấn định biên giới bất công khi các Nga sáp nhập các lâng quốc). Tuy vậy sự thi hành ấn định nầy đã giúp liên bang Nga xưa tránh những thảm sát vì tôn giáo, chủng tộc hay giành đất như đã xẩy ra khi Yugoslavia qua phân.

Người Nga thường so sánh thời gian hổn loạn khi Yelsin làm tổng thống với giai đoạn không có chánh chúa (interregnum) ở Nga cuối thế kỷ 16 chuyển qua đầu thế kỷ 17. Dẫu sao Yelsin lẫn Gorbachev đã tạo lập một nền dân chủ có sự tham gia của dân chúng và sự cộng tác với Tây phương. Cả hai ông, tuy ghét nhau, vẫn ước mong con cháu của họ sẽ sống trong “một xứ sở tân tiến và bình thường”; một thành ngữ rút ngắn để chỉ thành quả, như các nhà cải cách đã thấy, thâu lượm sau một diễn trình dài, khó khăn và có khi nguy hiểm.

Vladimir Putin riding with the Night Wolves, Russia, 2011
Putin và nhóm Sói Đêm, 2011

Suốt lịch sử Nga, mọi tiến bộ đều khơi dậy những sức mạnh thụt lùi. Vào ngày cuối của thế kỷ 20, Yelsin vừa đau tim vừa quá mệt mỏi về chính trị, đã từ chức tổng thống, không báo trước. Dưới thời của ông đã có sáu người làm thủ tướng; một người ông chỉ định hai lần, và bốn người ông giải nhiệm. Putin là thủ tướng cuối cùng khi Yelsin từ chức đã trở thành quyền tổng thống. Lý do thăng tiến của ông là dẹp yên vụ Chechnya ly khai, đem cái rốn của Caucasus trở lại dưới quyền kiểm soát của Moscou và được tiếng cương quyết anh dũng.

Trong 19 năm qua, đặc biệt sau nhiệm kỳ thứ hai 2008, Putin đã đẩy ngược cuộc cách mạng và phá tan nền dân chủ phôi thai mà Gorbachev và Yelsin có công thực hiện.

Chuyện gì đã sẽ xẩy ra nếu 34 năm trước bộ chính trị đã không phớt lờ mấy ông “lính già” và không giao cơ hội canh tân cho chàng thanh niên Gorbachev? Chắc hẳn, USSR, đảng CS Nga, minh ước Varsovie, bức màn sắt, bức tường Bá Linh, chiến tranh lạnh sẽ tiếp tục qua đến thế kỷ 21. Và trong “kịch bản” nầy, trung tá Putin, điệp viên ngầm trong hồ ước đọng Đông Đức, đã sẽ tiếp tục phục vụ nhà nước xô viết trong tăm tối âm thầm.
Thay vào đó, sau khi đốt hết hồ sơ trong trụ sở KGB ở Dresden, Putin trở về quê quán Leningrad, nhảy vào quỹ đạo của thị trưởng Anatoly Sobchak, một nhà lập pháp tự do trong nghị viện thực sự dân chủ do Gorbachev lập nên. Do cơ duyên nầy, Putin đến chỗ kế vị Yelsin. Không lâu trước khi chết Yelsin xác nhận lầm lẫn đã hỗ trợ Putin trên chính trường.

Putin đã mở máy cau có với tây phương, quấy phá lâng quốc, tập trung quyền hành trong tay, bịt miệng báo chí truyền thông, gian lận bầu cử, xía vào chính trị các nước.
Nhưng có một điều không thay đổi: Nga bây giờ vẫn đi cà thọt, khập khễnh với nền kinh tế bế tắt thừa hưởng từ thời Gorbachev và Yelsin. Không có khu vực sản xuất và dịch vụ đủ mạnh để cung cấp cho thị trường quốc nội và thế giới. Nga chỉ sống nhờ tài nguyên thiên nhiên khai quật từ lòng đất và đang khổ sở hơn bao giờ trước một sự tham nhũng đã định chế hóa, tức là một hình thái độc tài.

Sau bao năm dưới chủ thuyết Putin, người Nga dùng lại câu hỏi của Lenine. Viễn tượng của ai sẽ là viễn tượng trội yếu và tốt đẹp cho nước Nga? Phải chăng thí nghiệm dân chủ hóa của Gorbachev-Yelsin là điều sai lạc? Phải chăng Nga cần chấp nhận sự độc đoán của Putin là một định mệnh đương nhiên? Nhiều người tìm lạc quan trong trường hạn, về lâu về dài. Thậm chí có người tin rằng đương kim tổng thống cần phải đưa Nga trở về thời quá khứ thê thảm để củng cố quyền lực và hy vọng ông sẽ làm nước Nga thành vĩ đại, tuy rằng những phương tiện ấy sẽ hủy hoại đất nước. Viễn tượng Bôn sê vít dùng trả lời Lenine ai ai cũng biết nó ra sao. Không lẽ lịch sử trở lui dùng chủ thuyết Putin làm viễn tượng tốt đẹp cho nước Nga. Chuyện nầy của người Nga.  The Man Who Lost an Empire


See the source image





Monday, May 20, 2019

Doctor Zhivago và CIA


Yuri và Lara,  phim Doctor Zhivago
Doctor Zhivago và CIA
The CIA’s Zhivago
Michael Scammel, ttt dịch

Trụ sở CIA tại Langley, Virginia, có một viện bảo tàng ít khi mở cho công chúng xem. Mục đích của nó lưu trữ tin tức, dạy nhân viên khoa tình báo. Bên cạnh những chứng tích ly kỳ như khẩu AK 47 của Osama bin Laden, quan khách có thể tìm thấy một cuốn sách bìa mỏng, hình dáng lùi xùi khiêm tốn, cao 15 cm, rộng 9 cm, dày 2 cm. Đó là ấn bản bỏ túi cuốn sách Doctor Zhivago của Boris Pasternak, gồm 600 trang in trên giấy mỏng (thường dùng in Thánh Kinh) để tiện gởi chui. Nhãn ghi: “Ấn bản nguyên gốc tiếng Nga Doctor Zhivago do CIA xuất bản bí mật. Trang bìa trước mang hình thức Nga, trang bìa sau nói rõ in ở Pháp”.
Cho đến nay cơ quan tình báo trung ương Mỹ chỉ chưng một cuốn sách duy nhất là cuốn nầy; nó cho thấy tầm quan trọng mà CIA đã đặt để vào sách lược chiến tranh “mỏng” và tuyên truyền. Không rõ sách chưng lúc nào cũng như không rõ lúc nào sách được đưa lên internet.  Hơn 50 năm qua, CIA hoàn toàn giữ im lặng việc dính líu vào Doctor Zhivago, cho đến rất gần đây mới công nhận sự việc. Hầu như song hành với sự xuất hiện cuốn The Laundered Novel: Doctor Zhivago between the KGB and the CIA, năm 2009 của nhà báo và truyền hình Nga Ivan Tolstoy, là cuộc điều tra đầy đủ nhất trong nửa thế kỷ qua.  Không thể xác quyết cuốn sách trong bảo tàng CIA chính là cuốn mà Ivan Tolstoy cho rằng CIA đã sắp xếp mật xuất bản với số lượng rất nhỏ. CIA không có phản ứng nào đối với kết luận của Ivan Tolstoy.

Doctor Zhivago tại trụ sở CIA

Nhưng tình hình đổi mới rõ ràng. Hai tác phẩm hiện có trong tay (Inside the Zhivago Storm của Paolo Mancosu và The Zhivago Affair của Peter Finn và Petra Couvée) trình bày đầy đủ những cuộc vận hành bên trong của CIA nhằm xuất bản ở Âu Châu ấn phẩm tiếng Nga càng sớm càng tốt. Đặc biệt Finn và Couvé đã dùng bửu bối chính là 135 tài liệu giải mật của CIA cho thấy cơ quan nầy đã suy nghĩ ra sao cùng các bước sai lầm vì CIA chưa quen một điệp vụ nào tương tự.

Hai tác phẩm nầy cho người đọc biết thêm rất nhiều về Pasternak và Doctor Zhivago từ trước chưa được nêu lên. Ngoài việc mô tả hoạt vụ tình báo của CIA và những hậu quả tác dụng chung, hai công trình nghiên cứu nầy còn cho thấy thời niên thiếu của tác giả và nguồn gốc tác phẩm từ đầu cho đến quả bom xuất bản 1957.

Pasternak phải bỏ mất nửa đời mới viết xong Doctor Zhivago. Là một thiên tài thi ca từ nhỏ, ông viết văn xuôi không dễ dàng nhưng từ khi mới bước vào văn nghiệp, ông đã quyết định sẽ viết một cuốn tiểu thuyết “lớn” lối thế kỷ 19 “có mối tình éo le, có nữ nhân vật như kiểu Balzac”. Đề mục của ông là các cuộc cách mạng Tháng Hai và Tháng Mười cùng cuộc nội chiến Trắng Đỏ mà ông đã chứng kiến tận mắt. Ông bắt đầu khi còn “hăng máu” cách mạng nhưng sau đó đã đốt hết khi cuộc khung bố và thanh trừng của Staline đã dập tắt tinh thần lạc quan của ông, để rồi nhận biết từ nay rằng không có gì nguy hiểm bằng việc viết ra những tư tưởng, suy nghĩ chân thành của mình.

See the source image

Pasternak, trong vài năm sau, đã hai lần đụng chạm đến Staline. Lần thứ nhất năm 1934, khi Staline bất thần điện thoại hỏi ý kiến ông về Osip Mandelstam vừa bị bắt vì bài thơ trào phúng liên hệ đến nhà độc tài. Pasternak biết bài nầy nhưng trả lời qua loa làm cho Staline kết án ông đã không “nện thẳng tay” người bạn nầy. Khi chuyện đối thoại nầy được xầm xì thì có người nói Pasternak hèn nhưng chính vợ chồng Mandelstam không đồng ý. Lần thứ hai, khi Pasternak có tên trong danh sách xử bắn, Staline ngạo nghễ nói: hảy để yên, đừng đụng tới gã điên sống trên mây.

Pasternak cẩn thận khôn ngoan tạo cho mình khuôn mặt khiêm tốn, sống với một thế giới khác. Trong suốt cuộc thanh trừng, ông theo đường lối im lặng để sống sót nhưng vẫn giữ nguyên nhân phẩm, điều nầy trong thời ấy ít ai làm được. Không chắc “người trên mây” nầy đã muốn, 20 năm sau, ném quả bom Doctor Zhivago vào vũng nước ứ, nước đọng Xô Viết. Nhưng kinh nghiệm với Staline, nhất là qua vụ Mandelstam, và những thỏa hiệp trong thời Khủng Bố còn để chút cặn bã tội lỗi và ân hận trong những động lực mới của ông.

1946, Pasternak quay về với cuốn tiểu thuyết chưa xong, lần nầy ông có chút nhiệt tâm vì Nga giảm thiểu sự đàn áp trong thời gian Thế Chiến 2, và lòng yêu nước nồng nàn đã thúc đẩy ông lên tiếng. Một động lực mạnh mẽ mới là việc ông tiếp xúc tại tòa báo văn chương Novy Mir, một bĩnh bút và thông dịch trẻ tên Olga Ivinskaya. Pasternak, 56 tuổi đang sống với bà vợ thứ hai, Zanaida, cùng hai con, đã hoàn toàn bị hớp hồn bởi dáng minh tinh và sự gợi cảm đang ngún cháy của Olga. Nàng rất nồng thắm, tài hoa, năng động và – không như vợ ông – đam mê văn chương.

Sau cuộc gặp gỡ nầy, Pasternak đã viết cho Olga: Em là đời ta, thiên thần của ta, ta yêu biết làm sao cho vừa”.  Olga, ly dị hiện nuôi hai con, nhỏ hơn chàng 22 tuổi, đã viết trong nhật ký rằng nàng đã gặp một vị thần, (a god), nàng quá sức vui mừng vì được một thi sĩ tài danh chú ý. Sau những lần đi dạo chung, họ trở thành cặp tình nhân. Rồi nàng trở thành thư ký và người phụ tá; nhưng nàng phải trả một giá rất cao. Năm 1949, Olga bị bắt vì “hoạt động chống Xô Viết” (Pasternak nay đã nổi tiếng nên ở yên) và lãnh án 5 năm tù ở Gulag (giảm còn 4 năm theo lệnh ân xá của Staline).
Nhiều người nghĩ đôi bạn chia tay nhưng hình như Olga đã hư thai với Pasternak trong tù. Về phần Pasternak, ông cảm thấy có tội vì ông mà Olga bị bắt, hơn nữa Olga không phản bội khi bị KGB tra hỏi. Pasternak ghi lại mối quan hệ nầy trong Doctor Zhivago và ông kèm theo 26 bài thơ viết cho Ogla làm phụ bản.

scammell_1-071014.jpg
Pasternak và Olga Ivinskaya, 195..

Cuốn truyện hoàn tất năm 1954. Cốt truyện vòng vo phức tạp nhưng nói chung đi theo cuộc sống và những bước phiêu du của Yuri Zhivago, một y sĩ trẻ mộng mơ trong cơn gió bụi của thế chiến 1, của cách mạng, của nội chiến; đi lui đi tới giữa nước Nga chính gốc và vùng Siberie phía Tây. Tình cờ nầy đến tình cờ nọ, chàng luôn tiếp xúc với nữ y tá Larissa (Lara) Guichard; tuy hai người đều đã có gia đình, họ trở thành cặp tình nhân đầy đam mê. Nhưng họ phải chia lìa khi chàng bị phe Đỏ bắt cóc làm quân y trong thời nội chiến. Ngưng chiến, Yuri chia sẻ với Lara dăm ba tháng ân ái; chàng khuyên nàng nên qua vùng Đông Siberie và chàng trở lui thủ đô để sau đó có hai con với một phụ nữ khác trước khi chết vì bị bệnh tim. Lara tìm mọi cách đến dự đám ma, rồi bị bắt, bị thẩy vào Gulag. Cuốn truyện kết thúc bằng sự việc hai người bạn trong gia đình đã gặp một bé gái mồ côi giặt áo quần, trong thế chiến thứ hai và kết luận bé là con của Lara và Yuri.

Pasternak gởi Doctor Zhivago đến hai tờ báo Novy Mir và Znamya đầu năm 1956, mấy tháng sau mới được hồi đáp vì KGB phải điều tra quan điểm chính trị của tác giả và phải trình trung ương đảng duyệt xét đi đến kết luận là “một lời phỉ báng điêu ngoa”. Qua một bức thư do năm nhân viên tòa soạn ký, Novy Mir gởi bài phân tích đầy chi tiết về nội dung cho thấy chỗ nào sai. Pasternak được phán xét là tha hóa, xa rời xã hội mà ông đang sống, chống Xô viết; cho nên không thể xuất bản.

Trong lúc ấy, tin đồn về cuốn sách chuyền nhanh trong giới văn nghệ. Ít lâu sau, Sergio d’Angelo người Ý đã đến tận nhà yêu cầu Pasternak tính chuyện xuất bản tác phẩm ở Ý. Nhà báo trẻ nầy tin chắc mọi sự sẽ yên ổn và đề nghị nầy là điều có thể chấp nhận vì người xuất bản, Giangiacomo Feltrinelli là cộng sản. Pasternak không tin vào luận cứ nầy. Nhưng sau đó ông đã đưa bản đánh máy cho d’Angelo và cười mỉa mai u ám: “đây là thiệp mời bạn đến chứng kiến giờ xử bắn của tôi”.
D’Angelo mang trong người tập bản thảo quý giá và mở đầu cuộc trao đổi thư tín suốt một tháng giữa tác giả và người xuất bản, thực hiện bí mật qua trung gian nhiều người, có sự tham dự hăng say của Olga Ivinskaya. Nhưng hầu hết KGB đã chụp được phóng ảnh! Chính quyền Xô Viết, qua hội nhà văn, đã làm áp lực Pasternak lấy lại bản thảo và đảng CS Ý đã áp lực Feltrinelli từ chối xuất bản.

Có lời đề nghị hứa hẹn sẽ viết nhẹ hơn và xuất bản tại Nga. Nhưng quá trễ. Pasternak nói với một Isaih Berlin kinh ngạc rằng ông sẵn sàng hy sinh tính mạng nếu cần. Ông đưa cho học giả nầy một bản sao để đem về Anh, bí mật gởi một bản cho một người bạn Pháp nói tiếng Nga và bản thứ tư cho George Katkov, sử gia Nga lưu vong tại Anh. Từ nay Pasternak không cần để ý ai sẽ là nhà xuất bản, miễn là tác phẩm được ấn hành một nơi nào đó ngoài nước Nga.

Nỗi đau khổ, thất vọng, tin yêu của tác giả trong công cuộc nầy đã được tìm thấy trong thư tín giữa Pasternak và Feltrinelli, được in đầy đủ lần đầu tiên trong cuốn Inside the Zhivago Storm, của Mancosu.
Sự giằn vặt của Pasternak song hành với sự cam khổ của Feltrinelli đang chống trả với đảng CS Ý. Tuy vậy, Feltrinelli đã xúc tiến ấn hành bản tiếng Ý tháng 11 năm 1957; các bản dịch Anh, Pháp, Đức và các ngôn ngữ khác đua nhau ra đời, mùa xuân năm sau, 1958.

 bản tiếng Ý, Feltrinelly xuất bản

Mặc dù chính quyền Nga không mở miệng, Doctor Zhivago ở trong mục best seller của NY Times trong sáu tháng liền và tạo nên một cơn sốt cảm tính cả thế giới. Hầu như cuốn truyện có đủ thứ: chiến tranh, hòa bình, cách mạng, nội chiến, muôn vạn sự việc trên đời, danh sách nhân vật rất dài, giống như tác phẩm của người Pasternak xem là thần tượng: Lev Tolstoy. Với một mối tình bất chính làm trung điểm, cuốn tiểu thuyết nầy giường như có thể nhập chung Chiến Tranh và Hòa Binh và Anna Kerenima làm một.

Thế nhưng Doctor Zhivago đã tạo ra tình trạng khó xử cho các nhà phê bình. Trước khi sách ra đời, Kornei Chusovsky (thi sĩ, giải Lenine) đã gọi nó là: ngoại tộc, gây xáo trộn, nó phải tách khỏi đời tôi”. Akhmatova (thi sĩ bạn) dùng âm hưởng lời kết án nầy mà nói: nó nằm trong thời đại của tôi, trong xã hội của tôi, nhưng tôi không thừa nhận nó; nó là một sự thất bại của một thiên tài”.
Vladimir Nabokov, một trong số ít nhà phê bình ở Tây Phương, đồng ý với hai vị nầy, đã to tiếng chế diễu tập truyện là: “điều đáng tiếc, vụng về, sáo ngữ cũ rích, bi thảm vô duyên, tình tiết tầm thường, luật gia ham mê nhục dục, những đứa con gái không tin được, những kẻ cướp lãng mạn, những tình cờ vô lý".
Nhưng Edmund Wilson nhấn mạnh tầm quan trọng lịch sử và chính trị của tác phẩm, cũng như ý nghĩa tượng trưng của nó trong nội địa nước Nga. Người bạn cũ nầy của Nabokov tin tưởng rằng: Doctor Zhivago sẽ giữ vững địa vị của một trong những biến cố to lớn nhất trong lịch sử văn học và luân lý của nhân loại. Wilson viết tiếp: Dưới chế độ độc đoán tuyệt đối, viết như vậy rồi tung ra cho cả thế giới biết, chỉ có thiên tài với đầy đủ can đảm và nghị lực mới làm được.

See the source image
Boris  Pasternak 

Nội dung, chứ không phải nghệ thuật viết văn, đã quyết định tầm quan trọng.  Yuri nói với Lara: Cách mạng gia nắm luật pháp trong tay trông thật kinh tởm, không giống như phạm nhân mà giống như cái máy ra khỏi sự điều khiển của người dùng, như con tàu không người lái tự do tùy hứng tự chạy. Những kẻ khơi mào cách mạng không hành động vì một điều gì ngoài đảo lộn, lý do họ không có khả năng. Cách mạng được thực hiện bởi lớp người hành động quá khích, đầu óc một chiều hạn hẹp. Họ chỉ cần vài giờ hay vài ngày để phá bỏ trật tự cũ để rồi mấy chục năm sau, đầu óc hạt tiêu được tôn sùng là thần thánh.

Hành động chính trong truyện chấm dứt năm 1929, cốt ý nói đó là khởi điểm những thập niên đầu óc hẹp hòi; đoạn nầy giống như khúc nhạc truy hồn đưa tiển nền chính trị và văn hóa Nga. Không còn gì sót lại của thời gian trước năm 1920. Thảo nào, chính quyền đã xem Pasternak và tiểu thuyết của ông là chống Xô viết.

CIA cũng đi đến kết luận gần giống như vậy. Chưa được một tháng từ khi ấn bản tiếng Ý ra đời, CIA đã chuyển một văn thư nội bộ, thông tri ý kiến một chuyên gia nói rằng: Doctor Zhivago quan trọng hơn bất cứ tài liệu văn chương nào từ trước đến nay ra khỏi khối CS; do đó, hãy cẩn thận đừng để Pasternak bị hại khi chúng ta khai thác mối lợi của xuất phẩm nầy”.
Mấy ngày đầu năm 1958, CIA đã nhận hai cuộn microfilm do tình báo Anh cung cấp; và phóng ảnh bản thảo nguyên thủy trong tay Feltrinelli. CIA bắt đầu suy tính dùng những thứ ấy như thế nào.

Như Finn và Couvé tường thuật; thời gian thuận tiện. Lúc ấy CIA có nhiều nhân viên sành sỏi văn học và say mê sách báo. Họ tin tưởng sức mạnh của ý tưởng, họ đồng ý với giám dốc nha hoạt động bí mật rằng : “sách khác biệt với những phương tiện tuyên truyền khác, chính yếu vì một cuốn sách duy nhất có thể làm thay đổi toàn diện thái độ và hành động của độc giả, điều nầy không thể xẩy ra với các phương tiện đơn thuần khác".
Nhưng khá buồn cười, hình như ý nghĩ nầy mượn của Nga. Từ năm 1934 Maxim Gorky đã dạy giai cấp lãnh đạo Nga rằng: sách là vũ khí, là vũ khí quan trọng nhất của văn hóa XHCN. Liên Xô đã là các “sư” trong ngành tuyên truyền và vận dụng văn hóa một cách tài tình từ đầu thập niên 1930; George Kennan đã thấy như vậy (Kennan là tác giả chính sách bao vây và cha đẻ tinh thần của chiến tranh lạnh).
Quan điểm của Kennan đưa đến sự thành lập Hiệp Hội Tự Do Văn Hóa năm 1950, và hệ thống gởi sách báo Mỹ qua bức màn sắt đã manh nha năm 1958 trước khi xuất hiện Doctor Zhivago. Bước kế tiếp là một chương trình khiêm tốn dịch sách Tây phương qua tiếng Nga và gởi hằng ngàn tác phẩm đến các xứ do Nga kiểm soát. Finn và Couvé ước chừng mười triệu cuốn sách và tạp chí được chuyển lén vào đế quốc đỏ. Hoạt vụ nầy ít được công chúng biết và ít gây xáo trộn, không như các hoạt động văn hóa khác của Tây Phương trong thời chiến tranh lạnh. Theo hai tác giả nầy, thập niên 1950, Hoa Kỳ không có cơ quan nào có thể làm việc ấy vì Quốc Hội không cấp ngân khoản cho các hoạt động nghệ thuật và văn hóa, ngoài các tổ chức văn hóa đã có từ xưa.

Doctor Zhivago ra đời tạo cho CIA một thách thức mới. CIA biết rõ “giá trị tuyên truyền” của tác phẩm nhưng gởi ấn bản Anh ngữ qua Nga e không lợi ích gì; mặt khác chưa có bản tiếng Nga nên không thể in lại. CIA quyết định có ấn bản “đen” của chính mình. Nhưng điều nầy cũng tạo ra một vấn đề khó khăn. Chính phủ Anh yêu cầu đừng in trong nước Mỹ ngõ hầu không gây thiệt hại nguy hiểm cho người viết. Pasternak cũng gởi thư các nơi yêu cầu người Nga lưu vong đừng nhúng tay vào.

Giải pháp được chấp thuận là đưa việc nầy cho một nhà xuất bản ở New York tên Felix Morrow, cựu đảng viên theo Trotsky, nhà báo, nhà văn, đam mê chống cộng và có hồ sơ an ninh sạch sẽ. Khế ước ký kết ngày 23.6.1958 qui định Morrow soạn sẵn bản thảo tiếng Nga để sắp chữ và cung cấp hai bản “vỗ” (photo-offset) chậm nhất ngày 31.07. Mục tiêu là có thể dùng để in ở Âu Châu kịp thời phân phát cho du khách Nga đến dự Hội Chợ Quốc Tế ở Brussel trong tháng chín sắp tới cũng như phân phát cho thủy thủ các tàu đi Nga.

Rõ là một dự mưu ngu xuẩn tạo ra nhiều phức tạp khó khăn. Morrow thấy món lợi quá to, lại tiết lộ lung tung nhưng không tìm ra người xuất bản ở Âu Châu; Morrow vẫn tin sẽ bán giá cắt cổ cho CIA phân phối, nên đã yêu cầu một người bạn ở đại học Michigan ấn hành, nói dối CIA không thiết tha gì. Ông bạn lại đem bản thảo trình cho chính phủ Mỹ và cả CIA xin ý kiến. Việc không thành.
CIA vẫn không bỏ cuộc nhưng lại gặp một hài kịch vì sai lầm không cố ý. CIA đã nhờ tình báo Hòa Lan tìm giúp người ấn hành. Có tin đồn Feltrinelly trình bản thảo tiếng Nga cho công ty xuất bản sách giáo khoa Mouton. Có thật như vậy nhưng có khác là Feltrinelly không vội hành động. Tình báo Mỹ và tình báo Hòa Lan quyết đi riêng cho được việc, không cần đến Feltrinelly. Giám đốc chi nhánh địa phương của Paix et Liberté, một tổ chức chống cọng triệt để, được giao nhiệm vụ đem bản “vỗ offset” đến công ty Mouton và kết ước in gấp Doctor Zhivago chỉ trên một ngàn bản (chính xác là 1.160 cuốn). Vào phút cuối, một nhân viên của Mouton, cứ tưởng đây là dự án của Feltrinelly, đã dán vào bản vỗ tên người xuất bản là Feltrinelly.

Rút cuộc cuốn truyện đã in xong trước ngày khai mạc triển lãm quốc tế. Một phần ba số sách đã được phân phát. Chẳng mấy chốc, sân hội chợ la liệt những bìa vải xanh biển của cuốn sách. Người nhận đã xé bìa, chia nhỏ sách, nhét vào túi xách cho dễ dấu. Feltrinelly nổi giận cho đấy là một sự dối trá công khai vì ông không thể tưởng tượng một sự hiểu nhầm không cố ý của một nhân viện thuộc cấp. Mouton khúm núm xin lỗi và để đền bù, hứa sẽ in thêm 5 ngàn cuốn cho Feltrinelly; sau đó đại học Michigan cũng phát hành riêng năm 1959.

Cuối năm 1958, Pasternak được giải Nobel văn chương và bị trưởng đoàn thanh niên Vladimir Semichastny tố cáo là một con heo làm thối chuồng heo và cần được trục xuất để thở không khí tư bản. Pasternak lúc ấy bệnh hoạn đã từ chối giải thưởng và năm sau chết vì ung thư phổi. Olga Ivinskaya bi bắt về tội chuyển tiền ngoại quốc, và lần thứ hai bị án tám năm tù Gulag nhưng được thả sau bốn năm câu lưu.  Đến năm 1965, David Lean hoàn tất phim Doctor Zhivago thì thiên hạ nhiều người mới biết, chứ ít ai đọc truyện. 1978, Olga xuất bản hồi ký “best selling” về những năm chung đụng với Pasternak.

Từ đó có hằng bao cuốn sách về nhiều khía cạnh khác của cuộc tình nầy. Finn kê ra 184 quyển. Nhưng về nghiên cứu tìm tòi công phu thì đến 2009 mới có Ivan Tolstoy và cuốn The Laundered Novel (cuốn tiểu thuyết chui). Tuy vậy công trình của Ivan không được chú ý vì nhiều sai lạc. Độc giả phải chờ đến 4 năm mới gặp hai cuốn sách được đề cập ở đây.
The Zhivago AffairInside the Zhivago Storm sẽ là hai tài liệu văn học giúp người đọc hiểu nhiều về Pasternak cùng bầu không khí ngột ngạc của đế quốc Đỏ Xô Viết. Người hiếu kỳ có phần thất vọng vì hai tác phẩm nầy không nói thêm các chi tiết lâm ly cuộc tình Olga-Boris và làm sao Pasternak có thể lèo lái cuộc tình tay ba giữa ông cùng bà vợ chính thức và nàng thơ Olga. Chẳng may Finn, Couvé và Mancosu đều là ký giả, không phải là tiểu thuyết gia nên làm vừa lòng được.

Về học thuật, các vị nầy đã không lượng giá thành quả của Pasternak trong tầm nhìn chung về văn học sử. Finn có nói sơ qua về các người đi sau Pasternak như Solzhenitzin, Sinyavsky, Daniel và Brodsky nhưng bỏ quên việc Pasternak đã tạo ra một giai đoạn mới, một khúc quanh mới. Bằng quyết định gởi bản thảo ra nước khác để xuất bản, Pasternak đã phá hỏng luật lệ của Nga, làm việc không ai dám nghĩ tới từ khi Boris Pilnyak bị hành quyết về tội nầy năm 1929. Ông đã tạo ra một lối sống mẫu mực an toàn, không bợ đỡ, không làm mất nhân phẩm, nhưng hầu như không kẻ nào làm theo. Doctor Zhivago là một ví dụ sống động của đường lối ‘samizdat’ (in lậu in chui, phổ biến lén), đã chọc thủng bức màn sắt và hệ thống kiểm duyệt Nga. Solzhenitzin phê bình Pasternak từ chối giải thưởng vì sợ chính quyền. Nhưng cần nhớ nếu không có Pasternak thì dễ gì cuốn Một Ngày của Ivan Denisovich được xuất bản, chứ đừng nói gì đến sống còn để nhận giải Nobel. Pasternak xứng đáng là người cầm đầu phong trào bất đồng chánh kiến Nga và đã một tay ảnh hưởng hướng đi của chiến tranh lạnh.

Về phần CIA, việc phát hành ấn bản tiếng Nga và chuyền sách vào Nga đã làm Doctor Zhivago thành một hiện tượng samizdat, nhưng không giúp gì để cấu thành tiếng tăm hay giải thưởng của Pasternak. Chiến dịch đàn áp ồn ào của KGB và đảng CS Nga đã giúp Pasternak nhiều hơn CIA giúp. Nhờ kinh nghiệm nầy, CIA thành công trong chiến dịch phân phát sách báo và dịch thuật hướng về khối CS. Cuốn sách chưng bày trong viện bảo tàng không phải là từ "ấn bản nguyên gốc tiếng Nga”, bản nguyên gốc in ở Âu Châu bìa cứng vải xanh biển, trong lúc cuốn nầy bìa mỏng, có nghĩa được phát hành từ một nơi khác, in qua in lại từ bản gốc.--

 ==================================================================


DoctorZhivago