add this

Sunday, February 25, 2024

thịt cầy và thịt cấy

Trại nuôi chó Nam Hàn
Thịt cầy và thịt cấy
Cell Culture War, London Times Feb16, 2024
Regina Rini

Ngày 9 thg Giêng 2024, Quốc Hội Nam Hàn thông qua đạo luật cấm nuôi chó làm thịt, gây nhiều xáo trộn. Vào thời điểm 2015, các cuộc thăm dò cho biết 1/4 dân số Nam Hàn vừa nhấm nháp thịt chó. Trước cuộc bỏ phiếu nầy, Hội Thịt Cầy Nam Hàn tuyên bố: Không ai được phép tước đoạt quyền ăn thịt của 10 triệu người xơi thịt (cầy). Nhưng người Triều Tiên thế hệ trẻ cùng quan điểm với dân chúng các nước giàu trên thế giới cho rằng chó là loài thú gần gũi với trẻ em và không đáng làm thịt mà ăn.

Trong cùng thời gian nầy, lập pháp của tiểu bang Florida đang xúc tiến việc cấm một món nấu khác gọi là thịt cấy (cultured meat), thịt làm từ các tế bào trong phòng thí nghiệm. Loại thịt nầy hiện rất mắc. Một cái burger thịt cấy giá gấp 10 lần burger thịt bò sống. Nhưng cultured meat sẽ vinh dự phục vụ một thế giới mới có thể thỏa mãn khẩu vị thịt mà không cần đến thịt từ lò sát sanh.
 
Sau khi Cơ Quan Quản Lý Dược Phẩm và Thực Phẩm (USFDA) vào năm 2023 chứng nhận thịt cấy an toàn, các nhà hàng tiên phong ở Thủ Đô và San Francisco gấp rút đem vào thực đơn. Trong lúc ấy, các tiểu bang do Đảng Cộng Hòa lãnh đạo giành nhau danh hiệu tiểu bang đầu tiên cấm thịt cấy.

Cười khinh việc ăn thịt chó là một trong những thái độ bất thân thiện người Tây Phương dành cho Đông Á. 20 năm trước, trong cuộc giành nhau tổ chức Thế Vận Hội 2008 giữa Paris và Bắc Kinh, phe Tàu nói rằng trong cái kinh đô ngăn nắp của Trung Hoa, không như hố xí bên bờ sông Seine, không có ai lo ngại sẽ đạp lên cứt chó. Phe Pháp trả lời: ai chả biết vì Pháp không ăn thịt chó. (Kết quả, thịt chó cấm bán những nơi tranh tài Thế Vận Hội Bắc Kinh).

50 năm trước, Cora Diamond đã chỉ trích các triết gia khác bênh vực đường lối ăn chay dựa trên những nguyên tắc trừu tượng. Bà nói họ không biết con người sẵn sàng ăn mọi thứ thịt; chỉ không ăn thịt người, dù người chết một cách tinh tấn như bị sét đánh.

Nhưng với thịt cấy thì sao? Thịt cấy không lấy từ các con vật sống. Bênh vực việc cấm thịt cấy, thống đốc DeSantis nói: Quý vị muốn thịt hả? hãy đến Florida, chúng tôi có thịt; chúng tôi không tạo ra thịt giả". Nguyên động lực của ông có lẽ là để tránh cạnh tranh bất lợi cho ngành nuôi bò hơn là vì lý do luân lý. Ý Đại Lợi cũng làm như vậy vào tháng 11 năm qua.
Texas và Florida đều đưa chuyện thịt cấy vào cuộc tranh luận môi sinh giữa hai đảng, nào là canh nông làm cho nhiệt độ trái đất tăng, nóng hơn v.v...đúng hay không?
Kỹ nghệ chiến tranh văn hóa đã làm lu mờ mối bức thiết luân lý là giảm thiểu sự khổ đau của thú vật. Đừng dùng thịt cầy thịt bò thay cho thịt cấy, thịt cấy không dựa vào thịt từ lò sát sanh.

Bình loạn xạ:
Cách đấy 10 năm, các khoa học gia Thụy Điển tiên đoán 50 năm nữa thế giới muốn hay không muốn đều phải ăn chay vì lúc ấy trái đất không đủ nước trồng thực phẩm cho thú vật như cỏ, bắp và nước uống cho chúng. Rứa là còn 40 nữa thế giới có cơ duyên theo nhà chùa thứ thiệt, chứ không phải thứ giả bán tự vi sư.
Trước đó nữa, cách nay cả 70 cuốn lịch, người Nhật tuyên bố biển sẽ là nguồn sống khi mặt đất không đủ sức cung cấp thực phẩm vì thiếu nước, đất khô vì môi sinh bị phá hoại, núi trọc, lụt kéo đất màu xuống biển. Người Nhật nâm bờ oan ăn rong biển (sea weed) nên họ đoan chắc như vậy. 70 năm trước chưa có những vụ dầu ngập đại dương (oil spill), lâu lâu có chiếc tàu dầu vĩ đại đụng đá ngầm vì thuyền trưởng say thuốc lào. Cũng như khoan dầu ngoài khơi tránh sao cho dầu không rơi rớt. Những nước phát triển vội như VN và Tàu thải ra biển vô số thứ chất tóc xít; như quanh Saigon cá không sống được thì nước đó sẽ chảy ra biển. 
Nhưng hiện nay, sản xuất thịt rất tốn kém; nguyên do chính là trồng thực phẩm cho thú vật, nông cơ nông cụ đều dùng xăng, chuyên chở súc vật tốn xăng nữa. Ngoài ra phân bón làm ô nhiểm. Triệu tấn phân hóa học ở MidWest hằng năm trút xuống sông Mississippi, ô nhiễm vịnh Mexico.
Do đó, cứ rất thực tiển như ăn con gà chay, hãy phát triển thịt cấy. Thế giới không âu lo chuyện sinh tưởng, ngã tưởng, vọng tưởng của PG từ gà chay gà mặn. Họ gọi là "carnivorous taste", khoái ăn thịt. Vã lại chữ "meat" dùng cho thực vật: thịt quả xoài, meat of mangove, of banana.
Thần học Tây phương đã bớt nhắc luận thuyết rằng God sinh ra thú vật cho con người ăn, ngõ hầu có sức phụng thờ God; có người nói đó là egocentric; God chỉ làm cho chính mình để được phụng thờ. Quan niệm nầy được các giáo sĩ bảy tám trăm năm trước đưa vào Tàu mới có lý thuyết "vật dưỡng nhân''. Ngày nay các Bible nói bữa ăn đầu tiên Adam nấu cho Eva là bữa ăn chay, Adam vào vườn God tạo dựng hái lá và trái cây làm bữa cho Eva.
Các thay đổi lớn về sản xuất đều gây xáo trộn nhưng rồi cũng qua. Ví dụ mới nhất là trồng thuốc lá ở Mỹ. Thuốc lá là nguồn sống, đến độ tên tiểu bang Virginia là thuốc thơm thuốc màu vàng ghi trên các bao thuốc. Ngành trồng cây thuốc xem như tê liệt mà các tiểu bang như Virginia không chết. Trong kinh tế, nhiều nghịch cảnh mà lợi hơn. Chuyển từ nuôi bò qua một ngành khác có thể nhiều sinh lợi hơn tùy sáng kiến.
Chừng thập niên 1930, một nữ Phật Tử trẻ ở Bến Tre đã viết cuốn Phật Giáo Dưỡng Sinh gồm nhiều vần đề kể cả masturbation. Bà phân tích khá chi tiết việc ăn chay, bà trích dẫn một luận thuyết dài của một bác sĩ nói rằng cơ cấu thân thể con người là một giống ăn rau quả như không có răng nanh xé thịt, có những điểm giống như bỏ ăn cỏ.
Tuy vậy, con người đã ăn cùi giống con gazelle, thủy tổ con nai vàng ngơ ngác ngày nay.
Về cultured meat, Singapore đã khai thác khá nhiều.
Người Việt ở quận Gwinette Georgia USA thường mất chó và mèo; họ đổ thừa cho người Đại Hàn nhưng người Việt mình không ăn thịt chó hay sao. Sống trên đời phải ăn cái dồi chó, xuống âm phủ có có mà ăn không?

=========================================================================

chợ Nha Trang thập niên 1960

==================================



thương nhớ Đà Nẵng xưa





hình như Ty Kiến Thiết Đà Nẵng, 1965

BUỒN GHÊ LẮM NHỚ THƯƠNG TOURANE XƯA
Tôn Thất Tuệ

1954 đình chiến Đông Dương, Hỏa Xa VN cho chạy những chuyến tàu chợ từ Huế vào Đà Nẵng. Tàu chợ đi một chút thì ngừng như từ ga Huế xuống An Cựu thì ngừng, Dạ Lê, Nong, Truồi v.v... Tàu ra khỏi hầm thì than bụi đầy áo quần. Nhưng rồi qua khỏi đèo mình thấy nhiều ánh sáng hơn từ Huế vô. Dẫu sao cũng đến Đà Nẵng trên chuyến tàu không có những va gông bọc sắt và ba xe phía trước phòng khi mìn nổ thì đầu máy không bị thiệt hại.

Lúc ấy tôi 14 tuối vẫn còn những vô định trong đầu từ chiến tranh 1945. Tôi muốn ra khỏi thành phố Huế cho biết, vì ở Tourane có gia đinh Dì Bé của tôi. 1945 dì dượng ở Bao Vinh Huế có cho tôi một chiếc chiếu để xếp đội lên đầu cho đỡ nắng. Lúc ấy mấy chị em tôi tản cư và hồi cư từ làng Thế Chí phá Tam Giang, ghé Bao Vinh. Chúng tôi chia làm hai; hai đứa về Vi Dạ, hai đứa lên phía Thuyền Tôn. Hướng núi là tôi và người chị. Trưa nắng tôi đội chiếc chiếu trên đầu.

Rồi nghe nói dì dượng vô Đà Nẵng, dì có sạp bán rau cải ở Chợ Hàn đến mà hỏi thì ra. May đến thì người con gái giúp mẹ đi kêu dì về coi thằng bé nầy có bà con không. May quá nếu không thì tối đó ngủ chỗ mô.
Nhà dì dượng chen trong khu đất phía sau một sân tennis khu Chợ Cồn, làm bằng gỗ thùng. Ở lại mấy ngày, tôi đi lang thang và thấy như một mặc khải thiên đường, những nữ sinh Tàu đồng phục jupe xanh áo trắng và đi giày cao cổ mình gọi là giày basket bằng vải đen; vui chơi trong sân trường sau những hàng rào sắt uy nghi.
Nghe kể, dì mua cho một đôi giày basket đen nầy đem về kinh đô. Bẳng đi thời gian hơn nửa thế kỷ, tôi có về lại Đà Nẵng chừng 2010, tìm gặp lại dì ở Chợ Cồn. Dì mắt đã yếu nhiều.

T
rời ơi, e phải khóc thôi, dì nói mẹ tôi chết trên tay dì. Tôi sinh 1939, chỉ biết mẹ tôi chết khi tôi chừng một tuổi và dì đã bồng tôi theo đám ma. Dì bà con với mẹ tôi ra sao tôi không biết. Trước chiến tranh 1945 nhà tôi ở Bến Ngự và dì ở với ngoại cũng có nhà ngay đó. Dì thường đến nhà tôi bẻ măng vòi về nấu bánh tét tro màu đỏ.
Lúc tôi đến Đà Nẵng lần nầy, dì có người con trai lớn hơn tôi nhưng gọi tôi bằng anh, người ấy có tiệm sửa radio. Lúc ấy tôi không còn bình tĩnh và ra về không lấy địa chỉ của dì. Mất liên lạc cho đến nay.
Dượng tên là dượng Giờ, chuyên nghề lái xe vận tải, Huế Đà Nẵng và các tỉnh phụ cận. Dượng bị tim ngừng khi đang lái xe nhưng ngừng xe được không gây tai nạn cho ai. Dì và con gái tiếp tục hàng rau ở Chợ Hàn, khi dượng qua đời.

Tôi còn một vài kỷ niệm nữa với thành phố Đà Nẵng nhưng tôi không tin Đà Nẵng ngày nay còn giữ một chút gì của Đà Nẵng xưa trên hầu như mọi phương diện. Tôi yêu Đà Năng xưa là vậy; đúng như lời của Pierre Loti, nhà văn Pháp, hãy yêu thương những gì không thể thấy lần thứ hai.
Thân ái,

cầu Nam Ô từ Đà Nẵng đi Huế
======================================





Saturday, February 24, 2024





CÚNG SAO GIẢI HẠN

Đêm qua đúng 23h35, hai vợ chồng tôi mới về được đến nhà, vừa dắt xe vào nhà bà vợ tôi vội dâng lễ trên ban thờ. Miệng vừa lẩm nhẩm khấn vái vừa giục tôi;
- Chồng mau đem lộc ra để còn bày lên cho đủ lễ.
Vừa mệt, vừa buồn ngủ díp cả mắt, tôi thò tay vào cái túi lấy ra phần lộc cho vợ tôi sắp vào đĩa rồi tôi đi ngủ... Chưa kịp ngả lưng, tôi thấy vợ tôi thét lên kinh hoàng:
- Giời ạ, cái của nợ gì thế này hả lão chồng kia? Đây mà là lộc à?
Tôi lật đật chạy đến, chống mắt ngó vào đĩa lộc, tôi tự dưng á khẩu và đứng hình trong giây lát....??????

Từ trước Tết hơn một tháng, bà vợ tôi đã lo lắng và bảo:
- Sang năm chồng sao Thái Bạch đó, tôi phải tìm chùa làm lễ dâng sao giải hạn cho khỏi tai ương. Các cụ nói “Thái Bạch bán sạch cửa nhà” đó.
Nghe vậy tôi bèn nói;
- Khiếp, nhiều đứa lô đề cờ bạc vẫn bán nhà đó thôi, cần gì phải Thái Bạch, Thái Dương.
Đương nhiên bà vợ tôi mắng át đi;
- Có thờ có thiêng, có kiêng có lành, ông đừng nhiều chuyện phá ngang nhé.
Biết không cãi được nên tôi đành kệ. Sau nhiều lần hỏi han bạn bè,  bà vợ tôi hớn hở thông báo;
- Đầu năm tới, nhà mình sẽ dâng sao giải hạn tại chùa cây Đề nhé, đó là ngôi chùa vô cùng linh thiêng...
- Sao bà biết nó thiêng? tôi vặn lại.
- Thì tôi nghe nhiều người nói là nó thiêng, còn vì sao thì ai mà biết được... chắc xưa kia nó có thánh tích của Đức Phật chứ sao nữa.
Thôi thì đành chiều theo ý bà vợ, ngay từ 20 tết, hai vợ chồng tôi đã phải đến chùa làm lễ đăng ký. Vợ tôi nói, chùa thiêng nên đông lắm, nếu chậm chân là nhà chùa chốt sổ không nhận thêm nữa đâu.
---
Bà vợ tôi nói cũng không sai, sau khi nghe nói việc dâng sao giải hạn của vợ tôi, bà vãi giúp việc trong chùa chắc kiêm luôn thư ký, kiêm thu ngân cho sư trụ trì mở sổ ra và nói;
- Sao Thái Bạch sẽ giải hạn đúng ngày rằm tháng hai nhé, chị nộp tôi 800 ngàn, còn 4 người khác trong nhà chị sao không xấu, mỗi người 500 ngàn.
Vị chi là 2 triệu 800 ngàn. Nghe đến số tiền khổng lồ đó tôi suýt ngất, có mỗi cái lễ mà mất gần 3 triệu đúng là giết người không dao.
Nhìn vào cuốn sổ, tôi thấy tên nhà tôi cũng đang ở số 780 rồi. Chắc từ giờ đến lúc làm lễ phải tầm 2 ngàn người. Thấy bà vợ nộp một mớ tiền mà tôi thấy bần thần cả người, trên đường về tôi nói:
- Cứ tính trung bình 500 ngàn một người, vậy nhân với 2 ngàn người là có 1 tỷ rồi, buôn gì cho lại. Chưa tính các sao xấu như; sao La Hầu, sao Kế Đô... đúng là làm giàu không khó, lại không mất xu thuế nào... Biết thế ngày xưa tôi đi tu cho nhàn, tự nhiên có một mớ tiền tha hồ tiêu. Thích điện thoại xịn, có ngay. Thích xe ô tô 7 chỗ cũng có ngay.
Nghe thấy thế bà vợ tôi mắng luôn;
- Giời ạ, ông chỉ nói linh tinh, xe ô tô là để các sư thầy đi hoằng dương đạo pháp, lấy đâu mà đi chơi, người như ông có mà tu hú, tu trên chùa lô đề ý.
Không buồn tranh luận với vợ, tôi chỉ bận tâm về mấy mớ tiền mà nhà chùa thu được vào mỗi dịp lễ mà thôi. Đúng là giàu nghèo có số thật.
Như lịch hẹn từ trước Tết, đúng ngày 15 tháng hai, nhà tôi chở nhau đến chùa, quả đúng như tôi dự đoán, hôm đó trong chùa lẫn ngoài sân đông nghẹt người, hai vợ chồng tôi chen mãi không vào nổi gian tam bảo để đặt lễ. Nghe nói có người đã đi xí chỗ từ 9h sáng, dù 18h mới bắt đầu làm lễ. Cứ mỗi chiếc ghế nhựa con để ngồi trong sân chùa là mất phí 20 ngàn, dù chiếc ghế đó ra chợ mua chắc cũng giá đó. Nhưng vì đi muộn nên nhà tôi cũng chả còn chỗ để mà ngồi, trong gian chính thì khỏi bàn... không bao giờ có chỗ ngồi gần sư trụ trì rồi.
Đang tìm chỗ thì một bà vãi chỉ ngay sang dãy nhà đối diện chùa và nói;
- Trong này đông lắm, hết chỗ rồi cô chú sang bên kia mà ngồi, Phật tại tâm mình nên bái vọng từ xa vẫn được.
Nghe thấy vậy hai vợ chồng tôi lại kéo nhau sang dãy nhà dân ngay gần chùa, hầu như nhà nào cũng có dịch vụ trông xe máy và ô tô với giá cắt cổ. Thấy tôi bà chủ nhà nói luôn;
- Ngồi trên ban công tầng 3 vái vọng sang thì cho chị xin 50 ngàn một chỗ, có phục vụ trà nóng. Ngồi trên sân thượng thì 30 ngàn và chỉ có nước lã đun sôi, cô chú chọn chỗ nào.
Vợ tôi tặc lưỡi; cái áo còn lo được nữa là cái dải áo;
- Thôi bác cho xin 2 chỗ ngồi ban công, nộp xong 100 ngàn nhà tôi lên ban công ngồi hóng sang sân chùa đợi chính lễ.
Ngoài ban công có hơn chục ghế và cũng gần đủ người, một thằng cu tầm 16 ngồi ngay gần đó thông báo;
- Các bác đi tè cho cháu xin 5 ngàn, đi ị nhà cháu thu 10 ngàn nhé.
Đúng là dịch vụ quá chi li. Ngồi từ 6h đến nửa đêm, kiểu gi chả đi tè, vậy là nhà này lại thu được mớ tiền.
Lúc chưa đến giờ làm lễ, tôi mò lên sân thượng, trên đó gần 30 con người đứng ngồi lố nhó, trên này cũng có một thằng cu đang thông báo: các bác đi tè nhà cháu xin 3 ngàn nhé, không có có chỗ đi ị đâu. Thấy lạ tôi bè hỏi;
- Này sao đi tè ở trên này rẻ thế;
Nó bèn chỉ cho tôi chỗ thoát nước mưa ở góc sân thượng và nói:
- Trên này chỉ đứng và tè vào đây thôi nên rẻ hơn bác nhé.
Quả là hợp lý trong các mức dịch vụ, nhìn sang tất cả các nhà dân bên cạnh, hầu như nhà nào cũng có dịch vụ y chang như vậy. Tôi thấy dịch vụ ở đây giống như dịch vụ đi máy bay vậy, trên sân thượng là hạng phổ thông economy, còn dưới ban công là hạng thương gia business. Ngó nghiêng chán chê, tôi quay xuống hạng thương gia của mình.
Đúng 6h, tiếng gõ mõ tụng kinh bắt đầu vang lên, báo hiệu lễ dâng sao giải hạn bắt đầu, do nhà chùa đầu tư hệ thông loa có công suất lớn cho nên ngồi trên này tôi nghe khá rõ. Lúc đọc tên làm lễ theo danh sách dài dằng dặc cũng là gần 22h đêm rồi, đúng là uống nước trà bồm pha với nước chưa sôi nên tối đó, không riêng tôi mà các vị ngồi hạng thương gia đều phải vào nhà vệ sinh vài lần, riêng khoản phí xả thải này nhà đó cũng thu thêm được mớ tiền.

Đang gà gật bỗng vợ tôi kêu;
- Ông mau xuống lấy lộc đi, nhanh không hết bây giờ.
Ngó xuống sân chùa tôi thấy có kê một cái bàn khá dài và phủ miếng vải đỏ, trên đó cơ man nào là hoa quả để phát cho các phật tử; gọi là đem về thụ lộc.
Khi xuống đến sân chùa, một cảnh tượng hỗn loạn xảy ra, vì khuya rồi nên ai cũng muốn có lộc để còn về, thế là không ai chịu nhường ai, cảnh tranh cướp ngay sân chùa chả khác gì cảnh phá kho thóc của Nhật năm 1945. Cố chen vào gần bàn để lễ mà tôi vẫn bị bật ra mấy lần vì biển người xô đẩy nhau. Ai lấy được lộc rồi phải nhanh tay cho ngay vào người, nếu không sẽ bị cướp mất. Có mẹ chen khỏe quá tụt cả váy mà không sao cúi xuống kéo lên được vì sự xô đẩy chen lấn.
Mất 15 phút mà tôi vẫn không sao len vào được, cuối cùng tôi cũng nhìn thấy cái bàn lộc ngay tầm tay nhưng đông quá, tôi bèn nghiêng người rồi thọc mạnh tay qua đám người xô đẩy. Bàn tay tôi cũng tóm được một quả mềm mềm, tôi đoán là thanh long, vừa tóm vừa thu về mà không có được, tiếng la hét ầm ĩ khắp nơi. Nghiến răng tôi giật mạnh một phát, thoáng nhìn thấy miếng vải lộc màu đỏ, tôi nhét vội vào trong người và lại sấp ngửa chen ra ngoài để về.
Thấy tôi đầu tóc xơ xác, mồ hôi nhễ nhại, vợ tôi an ủi;
- Một miếng lộc thánh bằng gánh lộc trần, thôi thì mình chịu vất vả chút nhưng bù lại cả năm mọi việc hanh thông ....

K
hi nghe bà vợ hét ầm lên vì đĩa lộc, tôi ngó vào và giật mình; hóa ra cái mà tôi tưởng miếng vải đỏ của nhà chùa lại là một nửa cái coóc xê ren đỏ của mẹ nào đó.
Thôi chết rồi, đến đây thì tôi hiểu ra. Cái mà tôi tưởng là quả thanh long và túm bằng được là cái gì rồi...
Lúc đó quá hỗn loạn nên mọi tiếng la hét đều không nghe rõ được.
Chả hiểu sao tôi lại giật được nửa cái áo này nhỉ, cứ nghĩ lại cảnh đó tôi thấy ái ngại quá.
Chắc tôi phải mua lễ tạ lỗi ngay, khổ thân mẹ nào hôm nay bị tôi bóp cho bẹp tí... chắc thù tôi cả năm.
Mô Phật, thiện tai, thiện tai. [không biết tên tác giả]

Wednesday, February 21, 2024




     Chân Như Ảo Ảnh 
       Tôn Thất Tuệ

Đây mt cõi min nam sa mc
cui Cali ta đ li du chân đi.
Ta ng đ ngàn đêm lưu lc
mt triu ngày khut bóng quê xưa.
Thân di ma tàn không m mã,
không khói hương không nm giy vàng
không ngn nến đường qua âm ph
ln đt sâu tr li xóm thanh bình
ri xin tr gc mai vàng nng
đếm tng hoa như đếm bui xa nhà.

Hn chan cha cùng chúng sinh thp loi
run vì s tiếng còi xe báo đng
tay che đu tin đng đt k tai;
lung sét đánh linh đài sp đ
l thiên thn áo giy cho người coi.

Ta níu kéo vài giây trên qu đt
nghe mà chơi tiếng người st sot
nói mà chơi th tiếng lưu đày
ln đêm xung gác chuông lnh ngt
ngân vài chương sóng nhc lưng đy
lũ vc nâu tung nhy điu cô hn.

Ta quán nim trường kinh xoài mít i
dãi ngân hà sương li vô biên
sông là núi; núi v sông vi núi
đóa hãi đường đêm vng qut đêm đen.
Tiếng chuông đim đâm xuyên ý ni
m trong ta khóa hi bn mùa.
Nào nh nào chân như réo gi
quyn vào nhau vn chuyn bánh xe đi.

Ôi chân như, ôi nh, kh lm, tri;
Ôi chân như, ôi nh đ sinh đôi.
Ôi nh trong em đã có 
Ôi chân như ta l dáng mai gy.-



Thursday, February 15, 2024


 

Vực Thẳm Tháng Tư

Trần Doãn Nho

 

Dẫn nhập, ttt 

Gary Hart (hình như là anh Quân trường QGHC) gởi cho bài phê bình văn học của Trần Doãn Nho về một nhà thơ tên Trần Hoàng Phố. Cả hai ông đều là người Huế, tôi chỉ biết nhà phê bình là cựu sinh viên sư phạm Huế trước 1975. Bài nầy là một phần của một bài khác chúng tôi không có trong tay; chỉ có bấy nhiêu nên chúng tôi chỉ có vài dòng đáp lễ gởi anh Gary Hart theo email.

Dạ thưa, tôi là người miền Nam, tôi đã khai báo thành thật với người cách mạng miền Bắc. Khác với Trần Hoàng Phố, tôi không biết và không tham gia Phong Trào Đô Thị Huế trước 75, nói huỵch toẹt là một tổ chức trí vận CSVN. Không biết Trần Doãn Nho (TDN) có tham dự hay không. Chủ nhà sách Ưng Hạ, ông Bửu Thận đã được vinh danh có công trong tổ chức nầy. Ưng Hạ bán nhiều sách Pháp mà THP ghi trong bài thơ về Huế.
Nhà phê bình văn học Trần Doãn Nho đã tả THP thụ hưởng một nền giáo dục mang triết lý “dân tộc, nhân bản và khai phóng” trên tinh thần đa nguyên nên mạnh dạn tiếp nhận nhiều tinh hoa ở các khuynh hướng tư tưởng triết học của nhân loại, hiện tượng phổ biến trong tư tưởng của những trí thức miền Nam giai đoạn 1954-1975.

Một người đã có căn bản tư tưởng như trên thì sau 1975 không có khủng hoảng lương tâm nội tại, không vỡ mộng; người như thế ấy chỉ buồn lý tưởng nhân bản của mình nằm về phía thua trận.

“Nhưng rồi, cũng như bao lớp người cùng thế hệ, khi nhận ra những điều mình thần tượng,
tôn thờ cuối cùng cũng chỉ là “ảo ảnh”
được đắp xây bằng những ngụy tín và mọi danh vọng,
“lợi quyền trong cuộc đời suy cho cùng chỉ là hư ảo.

Bị tước đoạt
Bị lãng quên
Nhân dân
chính là người tù nhân vĩ đại của lịch sử
(Bài ca về sự dại khờ).
Bóng chúng ta in trên tấm thảm giấc mộng
Tháng tư xanh như nỗi đợi chờ
Tháng tư đỏ như niềm vô vọng cây trái bơ vơ.

TDN đã không đứng lại lâu ở nỗi bi thảm vỡ mộng triết lý của THP bằng cách nhấn mạnh đến tâm tình của thi sĩ nầy dành cho Huế, từ thơ ngây cho đến bi thương đứt ruột. Nhưng Huế ấy lại nằm trong những tang thương mới nói không cùng.


Thơ ngây:
dựa cột đèn Trần Hưng Đạo
ngắm từng em từng em đi qua
cốc cà phê Lạc Sơn chiều muộn
hơi người hơi ruốt
nhớ bâng quơ.


Đau đớn:
thành phố thì còn
Huế đã đi, vĩnh viễn đi!
lại có khi
thành phố bồng bế nhau
vứt cả rực rỡ hè mới chớm
rùng rùng bỏ chạy
đi đâu?
không biết đi đâu
miễn là xuôi Nam
.

Thôi, rứa mà được, miễn là xuôi Nam, đi về miền Nam bông lúa ngập đầy đồng. Xuôi Nam?!!! Hãy thương yêu những gì không thể thấy hai lần.
Xin chia sẻ với thi sĩ và nhà phê bình mấy dòng nầy:


đêm của huế

Tôn Tht Tu

Đêm của Huế ngày xưa buồn rất đẹp

buồn của tâm hồn đau đớn những xa xưa

buồn ai oán như tiếng rao hột vịt lộn.

Lộn đất trời lộn cả lòng ta;

Lộn úp mề mà đã chết nhăng răng

Bước xuống thuyền thì đã có kẻ phản bội

Chụp đầu ta đem luộc trứng vịt tươi.

Thôi cũng được,

để ta nếm chút rau răm cay đắng.

*

Đêm của Huế buồn vô hậu

Không vì em thì ta đã nhảy xuống sông.

Bên ni sông ta xem là vùng địch chiếm

nhưng bánh mì cơm gạo thiếu chi.

Bên kia sông còn sót lại nắng chiều

dư vị của một ngày nắng đẹp,

gọi đất Hàm Nghi; đất rất buồn đất khóc

bước vào đêm, có khi bụng đói ngủ ngon hơn.

*

Đêm của Huế, nhiều khi là đêm dài của lịch sử.

Huế của mình đau thương nhiều nhất trong lịch sử

tính từ ngày Chúa Nguyễn vô Nam.

Đêm của Huế là đêm của âm hồn

ngồi nguyền rủa gốc cây sanh quanh miếu

đêm oan hồn cũ mới đem đọ nhau vết thương thân thể,

bằng súng máy, bằng đao, bằng lưỡi cuốc, bằng búa tạ.

Đêm của Huế ngày xưa buồn vô hậu.

-----------------------------------------------------





Vực Thẳm Tháng Tư

Trần Doãn Nho

Cũng là một trong những khuôn mặt tham gia trong phong trào đô thị Huế trước 1975, Trần Hoàng Phố – một người tôi biết khá rõ nhưng không thân -, về sau này, chọn lựa một thái độ trầm tĩnh, chừng mực trước thời cuộc.

Anh làm thơ và trở thành một nhà thơ nổi tiếng.

Thơ anh, mới về cấu trúc ngôn ngữ, đậm đà triết lý và chan chứa suy gẫm nhân sinh, xuất hiện ở trong nước (cả trong luồng lẫn ngoài luồng) và ở hải ngoại.

Anh trở về những đề tài đã từng “là hiện tượng phổ biến trong tư tưởng của những trí thức miền Nam giai đoạn 1954-1975 vốn được thụ hưởng một nền giáo dục mang triết lý “dân tộc, nhân bản và khai phóng” trên tinh thần đa nguyên nên mạnh dạn tiếp nhận nhiều tinh hoa ở các khuynh hướng tư tưởng triết học của nhân loại,” theo Trần Hoài Anh, một nhà nghiên cứu văn học chuyên nghiên cứu về Văn Học Miền Nam.

Là một người sống trong cùng một không khí văn hóa thời đó, tôi tìm thấy trong thơ Trần Hoàng Phố đôi điều gần gũi.
Đọc Trần Hoàng Phố, trước hết, là đọc chữ.

Bên cạnh những nhóm chữ tương đối phổ thông như thiên thu tìm kiếm, dâu bể vô thường, giấc mộng vỡ tan, lênh đênh phận người, lang thang phiêu bạc, ta bắt gặp trong thơ anh nhiều nhóm chữ lạ, mang lại những ý nghĩa mới mẻ bất ngờ. Xin tạm kể ra một số: tán lá linh hồn, đồng tử lá, mái tóc cây, cơ thể đêm, miệng đêm, chén đêm, xao xuyến gió đêm, chiếc lưỡi chìa khóa, vương miện nỗi buồn, hoảng hốt hoàng hôn, ngực nắng vàng, nỗi cô đơn mưa, mặt nạ bất an, ký ức xanh, bóng khuya lịch sử, hư ảo trống, hòn bi số phận, kiếp người hoen rỉ, phố trần gian.

Nếu lưu ý, ta sẽ thấy chúng được tạo ra do khéo tận dụng hình thức ví von giữa một sự vật cụ thể với một khái niệm hay hình ảnh trừu tượng: tán lá + linh hồn, vương miện + nỗi buồn, mặt nạ + bất an; hoặc giữa một sự vật cụ thể này với một sự vật khác không liên quan gì nhau: miệng + đêm, chiếc lưỡi + chìa khóa, ngực + nắng vàng.

Cách tạo ngôn ngữ này khiến tôi nhớ đến Tô Thùy Yên: ngổn ngang câm, bất an già, khoảng cách đặc, án tử hình treo, lãng quên xanh, nỗi sầu vô dạng, u hoài mốc, gió hao đuối, nhớ hư hoặc, một phía mê tưởng, vũng vướng mắc, ráo gió, thiu hồn, ngất tạnh khuya…

Nằm trong cấu trúc thơ, những nhóm chữ như thế trở thành, hay đồng hóa với, hay có khi tạo thêm, ý niệm. Nhiều chỗ, Trần Hoàng Phố còn vay mượn cả những thuật ngữ và hình tượng tôn giáo, nhất là trong Thiên Chúa giáo: mùa thương khó, phục sinh, các thánh tuẫn nạn, thiên thần áo trắng, lễ thanh tẩy, lễ tro, thánh lễ tình yêu, hồi kinh lễ sớm, đóng đinh…

(Hạt bụi trần gian/ Bị đóng đinh vào cái đẹp); hoặc thỉnh thoảng, trong Phật giáo: ngũ uẩn, vô thường, sắc không…(lạ lùng ngũ uẩn).

Nói chung, dù là sáng tạo hay vay mượn, chúng giúp làm sáng tỏ, làm phong phú thêm hay thậm chí, làm bật ra những khuất lấp chìm sâu trong ý niệm. Chính vì thế, thơ Trần Hoàng Phố rất ít hiện thực; nếu có, hiện thực chỉ lả một chất phụ gia.

Anh dùng ý niệm, không hẳn chỉ để lý giải, mà hầu hết là để hình dung thế giới hay nói đúng hơn, hình dung cõi nhân sinh. Đó là một cõi buồn, tan vỡ, rạn nứt, lênh đênh, bấp bênh – một cõi ít thấy bóng dáng của hạnh phúc và niềm vui. Dẫu vậy, đó không phải là những thao thức hay suy gẫm đời thường (về một mối tình tan vỡ, một nỗi tuyệt vọng hay một cái chết cụ thể nào đó) mà là những thao thức, ray rứt đậm đà triết lý. Làm thơ như một tra vấn về hiện hữu. Như một khắc khoải siêu hình: hư vô, thời gian, bản ngã, linh hồn, phục sinh, cái bóng, tha nhân, luân hồi, bản thể, vân vân và vân vân.

Tôi bước đi và chìm trong mù sương/
Bóng của một cái bóng/
Tôi tan ra trong giá đông (…)
Tôi đối diện với chính mình” (Bóng của cái chết).


Đóa hoa thạch thảo tím biếc/
rơi vào bên trong khoảng trời ký ức/
Bạn lặng nghe tiếng nói bí ẩn/
từ đáy sâu nội giới thầm thì/
Gió/ Ra đi/
và/ Gió trở về/
Ngôi nhà xưa tịch mịch/
Hàng nghìn bóng ma kỷ niệm tìm về/
Trong tiếng rơi vỡ lặng lẽ thời gian 
(Tiếng rơi vỡ thời gian)

Ta dễ dàng nhận ra ngay: ngôn ngữ đan xen, chồng lấn, hòa tan với, hoặc trong, ý niệm.

Có vẻ như Trần Hoàng Phố thoát khỏi những ám ảnh đời thường”? Không hẳn.
Trong “Lời ngỏ” của tập thơ “Quê quán tôi xưa” (2002), Trần Hoàng Phố thú nhận:

“Một cơn “sốc” tâm hồn để đi đến mười hai năm “diện bích”,
mười hai năm chiêm nghiệm những cõi mình đã sống, đã mơ, đã nhớ.

Những bể dâu của lịch sử và con người. Những bão táp cuộc đời, những cuộc chiến tranh, những cuộc cách mạng là những tiếng vọng chập chờn và những hình bóng lung linh trên” vách đá của tâm hồn thơ.”


Cao Thị Hồng, dường như bắt mạch được trạng thái tâm hồn khá phức tạp này của Trần Hoàng Phố, nhận xét:

“Sinh ra và lớn lên trên một đất nước có quá nhiều biến cố lịch sử làm thay đổi vận mệnh dân tộc, cũng như phận số của biết bao người, lại mang trong mình phẩm tính của một trí thức dấn thân theo tinh thần tư tưởng triết học hiện sinh, Trần Hoàng Phố không thể “dửng dưng” đi “bên lề” những biến chuyển của lịch sử dân tộc, mà nhà thơ là một chứng nhân…” (…)

“Nhưng rồi, cũng như bao lớp người cùng thế hệ, khi nhận ra những điều mình thần tượng,
tôn thờ cuối cùng cũng chỉ là “ảo ảnh”
được đắp xây bằng những ngụy tín và mọi danh vọng,

“lợi quyền trong cuộc đời suy cho cùng chỉ là hư ảo.”



Theo tôi, đó là một khía cạnh khác – dù chỉ xuất hiện rải rác – trong thơ Trần Hoàng Phố. Khía cạnh này phản ảnh những ám ảnh lịch sử và đặc biệt, ám ảnh tháng Tư, hay nói theo ngôn ngữ Trần Hoàng Phố,

“vực thẳm tháng tư”.
Bóng chúng ta in trên tấm thảm giấc mộng

Tháng tư xanh như nỗi đợi chờ
Tháng tư đỏ như niềm vô vọng cây trái bơ v
(…)
Ôi tháng tư tháng tư
Xin cho linh hồn tôi bước qua được cây cầu phân ly
Bắt qua trái tim đầy những bóng mây xám u buồn lịch sử (Bài ca chiếc bóng tháng tư)

Đã kinh qua vực thẳm này, Trần Hoàng Phố tra xét lại cái gọi là “lịch sử”. Đó là một sự gặp gỡ giữa hai khái niệm “dối lừa” (đỏng đảnh) và (giấc mơ) “quyền lực”:


Lịch sử đóng kịch diễn trò trước sân khấu đám đông tháng tư
Nó tạo nên những kịch tính thiện ác địch ta tốt xấu
Nhân dân buồn thay chỉ là những con tốt thí qua sông
Cho sự dối lừa đỏng đảnh
của những giấc mơ quyền lực (Khúc hát về sự vô thường của lịch sử)

Những hình ảnh chứa đựng trong thơ mang ý nghĩa kép: vừa là ẩn dụ lại vừa bóc trần ẩn dụ. Vừa đóng vừa mở. Vừa cụ thể lại vừa trừu tượng. Vừa giấu vừa bày. Vừa ý niệm lại vừa hiện thực. Anh xé toạt từng góc khuất ẩn chứa trong khái niệm lịch sử. Nói về khái niệm mà đồng thời lại như một lời tự thú:

Lịch sử
như một kẻ ngây thơ tội đồ dại khờ
(…)
Nó loay hoay
với đám bòng bong sự kiện giữa thật và dối trá
Nó quay cuồng bối rối
giữa các lằn ranh ngoằn ngoèo ma quái con người và các giáo điều khô cứng (Bài ca về sự dại khờ)]

Lịch sử đôi khi được dẫn dắt bởi bầy cáo mù
chúng xảo quyệt ranh ma
cắn xé lẫn nhau như hổ dữ tranh ăn
nhưng chúng sờ soạng cứ đi ngàn bước loanh quanh
mà cứ tưởng như đang thẳng tiến tới tương lai rạng rỡ
mà chẳng ngờ đẩy cả cả bầy đàn
xuống hố lầm than (Đi về đâu hỡi lịch sử)

Những “tội đồ dại khờ” bị các “giáo điều khô cứng” phỉnh gạt chẳng ai khác hơn là “nhân dân”:

Bị tước đoạt
Bị lãng quên
Nhân dân
chính là người tù nhân vĩ đại của lịch sử 
(Bài ca về sự dại khờ)



Hậu quả là sản sinh ra một thời đại mà Trần Hoàng Phố gọi đích danh là “thời thổ tả”. Ngôn ngữ ở đây không nằm an toàn và sang cả trong lãnh vực ý niệm, mà quấn quýt lấy hiện thực, phản ảnh một cách trần trụi nhiều mặt của khung cảnh đất nước hiện nay.

Thời thổ tả
Bầy bướm quỷ bay đầy đêm liêu trai
Quan bỗng dưng hóa thành cướp
(…)
Mặt trăng đỏ màu máu
Tiếng quạ kêu thê lương đầy thành phố thôn làng
(…)
Cả nước đua nhau
bán buôn ăn thực phẩm bẩn
Cửa công
Quan trường người ta đua nhau
mua quan bán tước
(…)
Nhân dân là kho của cải vô tận
Cho các nhóm lợi ích thi nhau vặt lông
(…)
Tài nguyên
rừng biển núi đất đá
khoáng sản hàng triệu triệu năm
Bị khai thác
bị vắt kiệt
xuất khẩu vô tội vạ
(…)
Nợ công cứ vay tràn đìa
cho các dự án đa phần bánh vẽ
Nợ chồng lên nợ
Bẫy thòng lọng giăng ra
Các quan tham lao vào như những con thiêu thân đớp
Và nhân dân bị treo cổ
(…)
Học đường thiêng biến thành nơi phô diễn bạo lực
Ngay cả nữ sinh biến thành thú dữ
Đánh hội đồng màn man rợ như một bầy thú hoang
Thầy hiếp dâm học trò vừa buông lời kinh sách
(…)
Các toà nhà cao tầng lộn ngược
Thánh thần đu dây làm xiếc
(…)
Các đền đài chảy mồ hôi máu
Ruộng nứt những khe sâu rộng bằng dòng sông mùa lũ
(…)
Cả nước ăn bùa mê thuốc lú
Tỉnh mê mê tỉnh như nhập đồng
khi tinh hoa cặn bã lên ngôi cửu đỉnh
(…)
Rồng lộn đầu thành con cá chết trôi
|Trong dòng sông lịch sử ô nhiễm 
(Bài bi ca thời thổ tả)

Hiện thực mà tưởng như siêu thực!

Nỗi Huế
nơi đó
thành quách nhiều hơn người
giai thoại đè lịch sử
thuở nhỏ
tôi đi dọc theo những con đường vuông
góc thành này đến góc thành kia
lớp lớp rêu bám đầy
nhẫn nhục, cổ sơ
nghiêm cẩn đến nao lòng
nhìn hoài vẫn cứ tự hỏi …
*
tôi giẫm bước vô danh trên những địa danh
quá khứ được ăn tiêu rất kỹ
những khu vườn có cổng chắn
tường lở nhiều chỗ
vài đoạn rào thép gai
chắp vá hờ hững
ngôi nhà thấp
chật ních kỷ vật
câu đối sơn son thếp vàng hồn nhiên ngủ kỹ 
ngang và dọc
mục và quý phái
cũ và kiêu sa
giai thoại mọc lên từ mỗi góc nhỏ
ngày tháng co giãn
đậm đặc nỗi tự hào

*

thuở thanh xuân

mân mê những livre-de-poche Ưng Hạ
đọc cọp báo Sài Gòn Mới Gia Long
tà tà Phan Bội Châu
nhìn trộm Phương Lan
dựa cột đèn Trần Hưng Đạo
ngắm từng em từng em đi qua
rỡ ràng phố chật
cốc cà phê Lạc Sơn chiều muộn
hơi người hơi ruốt
nhớ bâng quơ

*

chiều mưa giông Đồng Khánh

những con chim bồ câu túa ra

ướt mèm áo trắng

cậu học trò không chịu về nhà

nép dưới tàn cây hiên phố

ngẩn ngơ

*

huế rất lạnh mà rất nắng

mưa thì phùn và gió rất khô

trời mênh mang mà người thì lặng

những buổi chiều hiền

thẩn thơ đường nhỏ

em đi như tĩnh vật

tôi rụng rời cơn mơ
*
nhiều lần lang thang quanh hoàng cung
nghe gạch ngói thở
sờ đám tượng trên sân chầu
ẩn nhẩn
đìu hiu
leo lên lầu ngọ môn
thấm thía dòng hư tự
quan ở đâu vua ở đâu cờ quạt ở đâu
chỉ là mấy bông sứ lặng lẽ rụng
trong hồ sen ngơ ngác
hít hà chút cổ sử
ngậm ngùi thơm.
*
đó là nơi tỏ ra rất tiện lợi
cho nhiều màn trình diễn
ngoạn mục bất ngờ
có khi trịnh trọng có khi bình dân
có khi rất chuyên nghiệp
và những tan vỡ liên tục diễn ra
thật chậm rãi
đủ để người ta thưởng thức nỗi mất mát
của chính mình
*
lắm khi
từ trong cái ù lì lặng lẽ
bỗng vươn vai đứng dậy
y như thể đã chuẩn bị từ bao giờ
vội vội vàng vàng
băng cờ la hét
đường phố hừng hực
khát khao thu gọn chiều dài lịch sử

*
dưới kia
sông vẫn lặng
đò vẫn trôi
sông còn thơm
mà đò thì chật
*
những ngày xuân âm khí năm nào
thành quách nín
đất đá nghẹn
cỏ cây câm
hố hầm co quắp
ngột
âm bản cuộc liêu trai
*

lại có khi
thành phố bồng bế nhau
vứt cả rực rỡ hè mới chớm
rùng rùng bỏ chạy
đi đâu?
không biết đi đâu
miễn là xuôi Nam
để lại một cõi lặng
không gian rỗng
sàn diễn trống trơn
những con chó mất chủ chạy rất tự do
và vô vọng
hàng phượng lạc loài
chấp chới bay
gió nắng rong chơi
vòng vèo quanh nội thành ấm ứ

*

kiêu binh về
bắt đầu mắng mỏ nhiếc móc
thậm chí oán thù
những người đã chết
y như thể không có họ
thì đất nước sẽ thành cường quốc từ thế kỷ 18!
bỗng nhiên
mọi thứ được vội vã hóa thân
hội hè đình đám
những ngợi khen đẫm mùi tiếp thị
phục chế/tân trang kẻ thù
đem ra bày bán

*
chữ nghĩa không xương…

*
sorry huế!
đành phải ra đi
*
bỏ phía sau nhìn phía trước.
lạc lõng giữa đất trời lạ hoắc
*
ăn cũng huế
nói cũng huế
đ

what’s hue, ngoai?
hue here! tôi chỉ vào bà ngoại
really, ngoai?
yes

ngoai oi, so i love hue so very very much.

*

tháng bảy quay quắt huế

đến hẹn nước lại lên
nước tràn Đập Đá nước lút bến đò Cồn nước ngập Bao Vinh nước ngâm quốc lộ
…đãng trí
tôi không về
ai lội lụt thăm em
*
một thuở
vỉa hè/góc phố
nắng/mưa
lụt/bão
nghèo/thiếu/đói/no
tù/ngục
…một thuở…
*

thành phố thì còn
huế đã đi
vĩnh viễn đi!


11.
Aristotle bảo: Con người là một con vật xã hội.
Vâng, tôi là con vật Huế: những biến cố Huế đã định hình tôi.
Ở xa, tôi nhớ Huế.
Đi giữa lòng Huế, tôi lại càng nhớ…Huế!
Nỗi nhớ lớn hơn cả tôi.


Những Huếs 

Tôi, một vết quá khứ nhỏ nhoi xẹt vào hiện tại; một thoáng thời gian rớt xuống không gian. Bất cứ cái gì còn lại cũng gợn lên những điều đã mất. Đi mà như thể chẳng đi. Về mà như thể chẳng về. Thực mà hoàn toàn ảo! Thời gian ở đây đã nhanh, lại ít oi, nhưng tôi để giành mỗi buổi sáng, đến đó theo một tiếng gọi âm thầm của ngày tháng cũ. Một con đường nhỏ Thành Nội, vắng và xưa. Lề đường lổn chổn đất, đá, cỏ xanh, lá úa, tường rêu, những chậu bông nhỏ, gốc cây già dưới tàn lá rộng, ghế bàn nhỏ nhắn, cốc cà phê đơn sơ, tách trà tém tủm, nữ chủ quán nhu mì, khách quen nhẵn mặt. Người cổ vật xưa, đạm bạc. Chuyện thì cũ, rất cũ. Những nụ cười. Những câu chuyện. Quyện vào trong không gian tràn đầy quá khứ. Những Huếs tôi. Huế thu nhỏ lại. Nhưng vô cùng lớn.

Thì Huế là nỗi huế nỗi huế nỗi huế nỗi huế…