add this

Saturday, February 28, 2015

yoga, nhìn về đông phương



nhìn về Đông Phương
A Scientist Looks Eastward 
Manas Journal 1948 ttt dịch

Trong một bài diễn văn đọc trước đại hội của tổ chức New World Federation for Mental Health, nhà cầm thú học lừng danh người Anh Julian Huxley, cháu nội của triết gia Thomas Huxley, đã cổ võ các nhà khoa học trẻ nghiên cứu thực tế về yoga. Sau đó, trong một buổi phỏng vấn, vị giám đốc của UNESCO trở lại vấn đề bằng cách nêu “các điều đáng chú ý” đã thu lượm  bởi các thành phần được huấn luyện về yoga. Ông nêu một số thành đạt: kiểm soát hơi thở, trạng thái thôi miên và sản khoái thần bí. Theo ông, các nhà khoa học trẻ về tâm thần có thể học yoga thứ nào hay cách nào có lợi cho mỗi chuyên khoa riêng; ông hy vọng ai cũng sẽ nắm vững những bí quyết của yoga.
Mặc dầu không biết các sự nguy hiểm thực tế đối với sức khỏe thể xác và tâm thần do tập luyện yoga, chắc hẳn ông tự tin rằng khuyến cáo của ông sẽ không bị rắc rối về thần học. Tới nay, đã mấy năm rồi ông là phát ngôn viên chính yếu của chủ trương vô thần khoa học. Năm 1942, để cân bằng với các bài cọng tác của các nhà tôn giáo, như Jacque Maritain và Willard Sperry, báo Fortune đã mời Huxley viết cho số tháng 12 để minh xác lập trường khoa học hoài nghi. Luận văn hay ho và trong sáng nêu lên quan điểm Huxley qua ba mệnh đề: 

Sự siêu nhiên, ở chỗ nầy, là một phần của tự nhiên chưa được hiểu, ở chỗ nọ, là sự sáng chế tùy hứng của con người, ở chỗ kia, là cái không biết được.
Thân xác và linh hồn không phải là hai thực tại tách lìa mà là hai cục diện của một tổ chức… Vật chất và tinh thần là hai cục diện của một thực thể.
Từ nay, chúng ta không có quyền hạng trí tuệ và luân lý nào cho phép chúng ta hất đẩy trách nhiệm từ đôi vai của chúng ta qua vai của Thượng Đế hay bất cứ một năng lực nào bên ngoài. (The supernatural is in part the region of the natural that has not yet been understood, in part an invention of human fantasy, in part the unknowable. Body and soul are not separate entities but two aspects of one organization. . . . Matter and mind are two aspects of one reality. . . . we have no longer either the intellectual or the moral right to shift. . . . responsibility from our own shoulders to those of God or any other outside power)

Với những nền móng triết lý nầy, người ta có thể diễn dịch rằng Huxley thấy trong yoga những phương cách thâu đạt lợi ích về tôn giáo mà không cần phải chấp nhận bất cứ tin tưởng tôn giáo nào. Đó là ý nghĩa của lời khuyến cáo nói trên. Yoga coi bộ muốn đưa đẩy phương pháp khoa học rộng lớn vào lề lối cư xử của con người. Vì thế giới tây phương ngày nay bệnh hoạn, cư xử lộn xộn (bởi cá nhân hay tập thể), Huxley chú tâm đến các khả thể ấy.
Tò mò tìm hiểu các quyền năng “khuất mắt” ở Á Đông là chuyện rất thường tình nhưng một vấn đề đứng đắng ở cấp UNESCO cần được xem xét nó mang ý nghĩa gì đối với văn hóa Tây Phương (TP). Việc Huxley đã quá khen ngành tâm lý Đông Phương (ĐP) làm người ta nhớ đến một lời tuyên bố rõ ràng hơn của Louis Jacolliot hơn 8o năm trước về những thành quả của các nhà yoga Ấn Độ. Người Âu Châu, ông nói, so sánh với ĐP, chưa học được vài chữ cái đầu tiên trong mẫu tự ABC của tâm lý học. Jacolliot, nhiều năm làm chánh án ở thuộc địa Pháp ở Ấn Độ, viết sách về những kỳ diệu mà ông chứng kiến ở Ấn; trong một cuốn, ông lập lại lời của vị Bà La Môn nhiều trí tuệ: Các ông, người nầy muốn nói là nền văn minh Âu Châu, các ông đã nghiên cứu thiên nhiên vật chất, và các ông nhờ các định luật thiên nhiên mà đạt những thành quả kỳ diệu, ví như động cơ hơi nước, điện v.v.. nhưng trong hai mươi ngàn năm hay nhiều hơn nữa, chúng tôi đã nghiên cứu các năng lực trí huệ, và chúng tôi tìm thấy định luật của chúng, và, bằng cách vận dụng chúng riêng rẻ hoặc phối hợp với vật chất, chúng tôi đã đạt những hiện tượng còn đáng kinh ngạc hơn của các ông”.

Dĩ nhiên Jacolliot bị quần chúng thế kỷ 19 bất tín nhiệm như một nhà tiểu thuyết hoang đường. Nhưng mặt khác gần hai mươi cuốn sách của ông ngày một được thêm nhiều độc giả. Mặc dù những tác phẩm ấy có phần sáng tác, Jacolliot là một trong những người Âu đầu tiên đã cố sức lập một bản tường trình các hiện tượng tâm linh ở ĐP. Tuy nhiên, chú tâm của những người như Julian Huxley về các năng lực tâm linh có một hướng đi khác. Nó bắt đầu bởi sự điều tra khoa học theo chủ thuyết duy linh của thế kỷ 19, được xem là một chương trình nghiên cứu đứng đắng; nhiều tổ chức đã cố gắng làm cho những cuộc điều nghiên tâm linh trở thành “khả kính”, giữa lúc các nhà khoa học coi thường và phỉ báng những ai chú ý đến hiện tượng tâm linh. Phải nói Hội Thông Thiên Học, thành lập 1875 – với một trong những mục tiêu là tìm tính cách duy lý của các năng lực tâm linh – đã tạo ra trào lưu chú tâm vào các hiện tượng nầy. Hội đã lôi kéo nhiều người thích, mê những hiện tượng huyền nhiệm, dẫu rằng phương pháp nghiên cứu của Hội nêu rõ sự khác biệt giữa “loại trung bình” và những kỳ công của người Fakir và Yoga. Theo đó, giới trung bình chỉ có sự thụ động bệnh hoạn và bất thường, trong khi người Yoga dùng ý nguyện mà thành tựu các kỳ diệu. Tuy vậy tính chất siêu nhiên của hai loại chứng nghiệm nầy làm người ta góp chung mọi thứ vào một lãnh vực rộng lớn: nghiên cứu tâm ý.

Tại Mỹ, William James đã tiên phong nói về yoga ĐP nhưng mãi đến cuối thế chiến I mới có các cuộc nghiên cứu khoa học hay bán khoa học. Năm 1915 có 52 tạp chí chuyên về duy linh, con số nầy thành 136 năm 1920; điều nầy cho thấy sự chờ mong của cha mẹ hay người thân dành cho chiến binh. Rồi đến 1923, hội Scientific American mở cuộc điều nghiên Margery (tên thật là bà Le Roi Goddard, vợ của một y sĩ nổi tiếng ở Boston). Có lẽ biến cố quan trọng nhất liên quan đến công cuộc nầy là tác dụng đối với  William McDougall, khoa trưởng tâm lý học của Harvard. Vài năm sau, giáo sư nầy mở tại đại học Duke những chu kỳ thí nghiệm (trở nên lừng danh là những học thuật ESP (Extra Sensory Perception: tri giác ngoại tầng cảm giác) của J.B. Rhine.
Trong 20 năm qua (từ 1948) ảnh hưởng của giới khoa học và bình dân đã đưa đến những cuộc nghiên cứu sâu rộng.  Bên Anh, luận trình An Experiment with Time 1927 của JW Dunne đã làm thế giới khoa học phải suy nghĩ về ảnh hưởng dị thường của báo mộng. Yale, 1937, bảo trợ xuất bản Yoga, A Scientific Evaluation của Behanan. Loạt sách của Evans-Wentz đã kích động giới học thuật chú tâm đến các đề tài huyền nhiệm huyền bí; nhờ một cuốn sách láo xược về Yoga của Yeats Brown, dân chúng ưa thích điều tạm gọi là huyền học ĐP. Wendell Thomas, qua cuốn Hinduism Invades America (1930) kể những chuyện không hay của các ông đạo xâm nhập Hoa Kỳ, sự tranh chấp giữa các thầy yoga chia chát lợi nhuận không đều; như vậy những người cung cấp các kỳ thú  ĐP đã hái bạc triệu. Trong lãnh vực tôn giáo, Gerald Heard – chủ trương Christian Quietism – có lần nói với tín đồ rằng tập thở là một trong những phương pháp nhanh nhất và mạnh nhất để ảnh hưởng, thay đổi và nới rộng tri giác”.

Julian Huxley

Huxley chỉ phản ảnh một khuynh hướng rộng rãi trong cách suy nghĩ TP. Trừ phi khi đã nghiên cứu tường tận mối liên hệ giữa sự thực hành tâm và thân như loại ông khuyến cáo và cách hành sử của con người, trừ phi như vậy, Huxley không thể nhận định rằng sự ông ủng hộ yoga như một bộ môn tâm lý học cho TP sẽ đưa đến kết quả tai hại, dù được nhiều người theo. Ông hầu như chỉ xem yoga đơn thuần chỉ là một kỹ thuật, thượng sách là tạo ra kỷ luật cá thể, hạ sách là làm tiểu xảo tâm lý.
Những ai đã học đầy đủ đề tài nầy ở Ấn Độ đều ghi nhận sự khác biệt vô cùng quan trọng giữa Hatha Yoga – căn cứ vào việc hít thở - và raja yoga – theo đuổi sự trong sáng trong lối suy nghĩ  và sự trong sạch trong mục tiêu luân lý. Raja yoga chẳng dính dấp gì đến việc hít thở vì mục tiêu của nó là nối kết linh hồn cá thể vào linh hồn đại thể (vũ trụ).
Như vậy hẵn là Huxley muốn chiếu ngọn đèn tìm tòi của khoa học phi nhân thể (impersonal) vào các định luật huyền nhiệm của ĐP. Nhưng ông lại không đặt mối quan tâm đồng đều dành cho luân thường của ĐP. Ông đã bỏ qua sự kiện các ngành học yoga tiên khởi mọc sâu trong siêu hình và đạo đức; rằng không có một hiền nhân ĐP nào khuyến cáo học viên đạt năng lực yoga trước khi giảng dạy kỷ lưỡng về việc tự thanh tịnh hóa và triết lý tôn giáo. Có thể sự xuống dốc của Đông Phương như Ấn hiện muốn tránh, bắt nguồn từ sự thiếu phát triển và dùng sai các hành lý mà Huxley muốn khuếch trương ở TP. Gandhi không bao giờ cổ súy năng lực yoga mà ông khuyến khích tinh thần hy sinh và đạo đức, nhấn mạnh vào năng lực tâm linh.
Hiện có một cái nhìn mới về vần đề nầy; đó là tâm thức đế quốc. Không những chỉ đế quốc Anh mà toàn thể TP bị bệnh nầy. Thái độ đế quốc thừa nhận rằng: có thể lấy những gì mình muốn và chỉ những gì mình muốn; khả năng lấy nầy đã tạo ra quyền (được lấy). Trường hợp bom nguyên tử. Các nhà khoa học vật lý nắm bí mật của nguyên tử năng và dùng vào mục tiêu hủy diệt. Không vị nào nhận định rằng một năng lực to lớn như vậy chỉ được phép tung ra trong sự hòa hợp với luân thường tự nhiên của vũ trụ, không hủy diệt vô lối. Cướp mất năng lực nầy khỏi bụng mẹ thiên nhiên, tự nó, là một hành vi đế quốc thô bạo. Bây giờ chúng ta được kêu gọi tách năng lực tâm lý khỏi hệ thống tôn giáo của tiền nhân Ấn, và dùng nó trong mục đích riêng. Chúng ta có năng lực vật chất siêu việt của nguyên tử năng, để rồi sợ tới điên. Tại sao không lấy sức mạnh tâm lý từ lò triết lý luân thường mà tìm cái ích dụng đem ra dùng cho văn hóa TP?
Rồi đây sử gia sẽ nói về nền văn minh của chúng ta rằng nó tự hủy diệt bằng cách áp dụng những kỹ thuật hữu hiệu để đạt những cứu cánh vô giá trị. Hẳn đã rõ chúng ta biết về kỹ thuật nhiều hơn cứu cánh. Xã hội ngày nay công nhiên ghét bỏ sự nghiên cứu các cứu cánh. Sự tiến hóa của khoa học ngày nay, từ đầu đã có đường nét riêng dệt thành bởi sự chối bỏ có hệ thống các cứu cánh. Sự thể nầy được cấu tạo, thứ nhất, bởi độc quyền thần học về các vần đề liên quan đến mục đích sự sống; thứ hai bởi quyết chí của các nhà khoa học là không bao giờ để cho nền độc tài thần học trở lại nắm quyền, một khi được độc lập với sự kiểm soát tôn giáo.
Do đó vào thế kỷ 20, chúng ta có một Huxley không những phủ nhận Thượng Đế, nhà độc tài thần học, mà phủ nhận cả linh hồn như một thực tại tâm linh có sức giúp ta quyết định thành công tốt đẹp các cứu cánh. Nói khác, khoa học gia, vì nghề nghiệp, phải phủ nhận mọi triết lý siêu nhiên về cứu cánh, nhưng đồng thời họ muốn tìm các lợi ích trong môn tâm lý học, môn nầy bắt nguồn từ triết lý linh hồn – đó là yoga – mà không cần các nền móng siêu hình.

Như một hậu quả, việc quần chúng hóa Yoga chỉ làm gia tăng “hàng hóa” của kẻ giả mạo tâm linh và nẩy sinh rất nhiều tà giáo. Một nhà khoa học trẻ, nhiều trí huệ, nôn nóng phân tích theo lối sinh học sự an lạc tâm linh sẽ đạt vài kỹ năng thiền định; nhưng để làm gì? Chỉ vì lý do yoga đã tách khỏi thần học và ngay cả lý thuyết về linh hồn, Huxley thấy Yoga hấp dẫn; điều nầy rất hợp lý, không phải vì ông không biết đạo lý, mà vì ông đã mang sau lưng ba thế kỷ truyền thống chống tôn giáo của khoa học. Sự tách biệt yoga khỏi siêu hình và các trách nhiệm luân lý rất tai hại cho TP.
Một thế kỷ trước, làn sóng ồ ạt các hiện tượng tâm linh và học thuyết duy linh bộc phát ở Mỹ và Âu châu. Nhưng vì thiếu hiểu biết về các hiện tương tâm linh, trào lưu mới nầy sinh ra các tà giáo kỳ dị và nhiều phái duy linh cầm đầu bởi các ông đạo tiên tri. Các học giả Hy Lạp vào mấy thế kỷ đầu đã quen những hiện tượng nầy và đã viết khá nhiều nhưng không ai đọc. Văn hóa TP không được chuẩn bị để tiếp nhận các hiện tượng tâm linh, với hậu quả hoặc giả tin mù quán như phép lạ, hoặc giả phủ nhận một cách đáng chê. Ngày nay vấn đề tương tự xẩy ra cho yoga. Vậy cần nhiều cẩn trọng và sáng suốt.-
nguyên bản: A Scientist Looks Eastward 

Xin mời đọc một bài khác cũng từ Manas Journal trên blog nầy:
Trống không và cách mạng

Zinnia With Eastern Tiger Swallowtail (Papilio glaucus)


Wednesday, February 25, 2015

kinh vô biện



kinh vô biện
tôn tht tu

Sáng ch nht gà tre quên gáy hay ti mình quên nghe?
Tâm bt ti thc bt tri k v, thy Khng kính,
tâm ca tôi đ ngoài b du con qu đen nó mượn đi chơi
không tr li còn chuyn cho con kh làm trò kiếm tin mua go.
Tâm ca tôi bn nh như d rách vì Jesus qu trách
có ý tà khi nhìn ng qun mng bay trong gió nơi công viên nhiu gió.
Tâm bt ti thc bt tri k v,
đàn tai trâu kh ti triết gia, nói vi đá cho côn trùng giác ng.
Tâm ca tôi, chân lý què góc xó.
Kinh Vô Bin đã qua sut tai trâu.

nét gầy
ttt

Ôi bt giác, nét gy trên mt
làn mây nh chn ngang khung tri nh
cun tr li nhc đ năm cũ
sau bao ngày không ghé li
tuy vn sng trong vòng kêu tiếng gi
du ngoc tay.
Em ngy trang bng n cười qung đi
nhưng nét gy hin l bóng ngày qua.


thung lũng tàn phai
ttt
em ch th nhng ct khói chiu màu xám
nơi bàn tay sơn n góc nhà sàn.
Mt con tàu xé nát tiếng lng thinh
bánh xe nghiến ct ngang vùng u tch.
Băng va ri nhng ngn tóc mây,
rng g tếch đã v thành ph
đi trên lưng nhng thây người thô tc.
Em trng rng trng không ch hy dit.



đại thừa tiểu thừa



Image result for mahayana buddhism
đại tha,tiu tha
tôn tht tu

Dẫn nhập: người bạn của tôi ở Canada hỏi hai chuyện, thứ nhất vì sao Thiên Chúa Giáo phát sinh ở Do Thái rồi chạy qua La mã; thứ hai là sự khác biệt giữa đại và tiểu thừa PG. Câu hỏi đầu tôi đả trả lời qua bài: Từ Jerusalem đến Rome ß- link trong trang nầy. Đây là phần thứ hai.

Thưa anh,
Trong con shn chế sách vmà tôi có cơ duyên đọc, cun The Tree of Enlightenment ca Santina rõ ràng mà sâu sc nht. Ông nói cun ny không nhng để dn li (initiate) người mi mà còn để "tune up" (chca tôi) nhng Pht Tquan nim PG tiêu cc, trái khoa hc v.v... Tôi có viết gii thiu mt chương. Nhng người thông tho Hoa Nghiêm sngc nhiên cun sách không có mt chcho kinh ny.
Lý do là Santina đã hc Pht ttng đin Pali. Ông bt đầu vi điu gi không đúng là Tiu Tha hoc Nam Tông. Sacred-texts lit kê kinh đin tiểu thừa dưới danh hiu Southern Buddhism để đối đãi vi bc tông là đại tha.
Hai chbc tông và nam tông ít gây xung đột hơn đại và tiu tha. Sxung đột cũng do tham sân si nhưng ngày nay ai cũng nhn rng tiu / đại tha chkhác nhau vhình thc. Bc tông chkhai trin nhng điu đã có trong Nam tông. Ngày nay danh xưng vi diu pháp dùng nhiu hơn lun tng, mt trong ba tng gi là ba cái thúng, vì vi diu pháp đã nói đến nhng bí yếu, nhiu chvượt qua ngôn ngmà Pht phi im lng khi bhi hch. Li gi y cho thy stôn kính ln nhau
Nhng khác bit ca hai ngành ny chỉ ở bình din thyếu. Nam Tông còn gitruyn thng cũ như kht thc, đắp y vàng. Tiu tha còn được gi không chính xác là PG nguyên thy (early / primitive Buddhism).
Stách đôi hai ngành xut hin khi xã hi n đã có nhiu thay đổi. Khôi hài, nó xy ra vì vài chuyn rt nhliên quan lli sinh hot ca tu vin (Tăng Già). Vùng dân sinh sng ni rng, các thy đi thuyết ging cn chút tin qua đò, hay đến nhng nơi không quen cúng dường thì phi mua thc ăn. Nhưng nhóm bo ththì không chu. Cn nh, vào nhng ngày cui đời, Pht lưu ý A Nan phi thích ng li sng ca Tăng Già vi nhng điu kin sinh sng mi. Ngài chnói đến Pháp là cn giữ để cm cân ny mc. Sư si bây gikhnh mũi cười chuyn tin còm đi đò ny vì lm ông gimy trăm triu trong nhà băng do các sư bà cm ssách.
Stách đôi ny không có mt chi tiết nhnào ging stách đôi Thiên Chúa Giáo thành mt bên là Western Roman Catholic và mt bên là Eastern Orthodox, song hành với schia đôi đế quc La Mã. Orthodox chkhác Roman Catholic chkhông có giáo hoàng.
Bên trên tôi có nói sxung đột gia tiu / đại tha là do tham sân si. Tht vy, nhiu người trong tiu tha cho rng kinh chPhn không phi là kinh Pht mà là kinh ca Long Th. Hchda vào skin các kinh nòng ct ca đại tha xut hin chng hai hay ba trăm năm sau khi Pht nhp dit. Hai hphái tu tp theo nhng kinh khác nhau. Kinh Di Đà nh hưởng mnh mbên Bc tông qua Tnh Độ nhưng không có bên Nam Tông.
Bây givn còn nhng sbàn lun trên cái “nếu”. Nếu trưởng lão Xá Li Pht không chết sm như Nhan Hi ca Khng Tử để được truyn tha thay vì Ca Diếp, nếu vy thì PGs skhông đóng kín ca sau khi Pht qua đời, thay vì qung bá như chính Pht làm. Người ta qui trách Ca Diếp làm cho Pht Giáo thoái hóa ngay vì Ngài chchú trng đời sng trong tăng già và chqui tp mt skinh, nht là gii lut. Vng bóng nhà lãnh đạo, PG đã bcác chthuyết xâm ln và thay đổi bn cht. Ssuy thoái được ghi nhn bi sư Pháp Hin viếng xPht năm 399, không đợi đến phát súng ân huca Hi giáo. Chthy nhng gì xy ra vi Ca Diếp nhưng không thchc nhng gì vXá Li Pht, con cá sy bao gicũng ln. Tuy nhiên vùng Pali thích Xá Li Pht, còn Ca Diếp có sự ủng hộ ở Bc Tông. Thin tông luôn nói đến chuyn Ca Diếp cười khi Pht đưa cành bông cho đại chúng xem.
Thích Ca đã dùng mt phương tin ai cũng có, đó là hc theo truyn khu, tuy ngài đủ sc viết, và nn văn minh có sn ngôn ng. (Socrate, Khng T, Jesus đều làm như vy). Kinh do Pht ging trc tiếp hay các môn đệ kli, ri rác khp tiu lc địa n. Cũng như Jesus, như Khng T, Thích Ca không ngi mt chmà thuyết. Ngôn nghc, nhân chng hc cho rng truyn khu có giá trhơn chviết, vì nó như mch sng tnhiên. Nói như bây gicái gì cũng store trong computer, cái gì cũng da trên các web; mt ngày đẹp tri nào đó computer chết, internet ngưng, tt cả đều đi theo như ánh mt em tôi đã cht tt.
Sau khi Pht nhp dit, vua Asoka đã giúp chn hưng Pht Giáo. Em vua là mt nhà tu và đã cm đầu mt nhóm sư từ đông bc n đi xung phía nam. Nơi khi hành là Bồ Đề Đạo Tràng. Nơi dng chân chính là Tích Lan (Ceylon, Sri Lanka). Thòn đảo ny sư si dùng thuyn ven bnhư các thuyn buôn khác, truyn đạo đến mãi tn Nam Dương, Vit Nam, Kampuchia...

Tích Lan là g
c phát trin PG qua Tây Phương, sau khi nhiu hc giTây Phương khai qut kho tàng kinh đin tiếng Pali. Đóng góp nhiu nht là ca Henry Steele Olcott, cũng là người vlá cPG. Ngày nay Tây Phương biết thêm về đại tha nhNht và Đài Loan.
Pali là tiếng sng langue vivante sinh ng; Sancrit là cngnhư chquc ngvà Hán T. Khi em vua Asoka và tùy tùng “nam phương trc chhành”, PG chưa có kinh đin bng Sancrit. Gn my trăm năm sau, trong hai thế ktrước và sau Thiên Chúa, đại tha hình thành. Thêm nhiu kinh đin được sưu tp và viết theo Sankrit, quan trng nht là Diu Pháp Liên Hoa (chúng sinh có ththành Pht).
Đại tha theo con đường tơ la (Silk Road) vhướng Đông Bc tc là Tây Tng và Trung Hoa; đấy cũng là hướng thoát khi Hi Giáo đui PG khi nơi sinh. Từ đó có danh tBc Tông đồng nghĩa vi đại tha và kinh đin Sankrit.
Theo tôi dùng BcNam Tông thun tin hơn vì nó mang tính cht địa lý.
Vì tính cht ào t và chính tr, vic truyn bá Thiên Chúa Giáo được xem là xut hin đầu tiên trên mc độ rng ln, vi các cuc ci đạo hng lot Nam Mbng nhng phương tin riêng. Thứ đến là Hi giáo. Nhưng các sgia cho rng PG là tôn giáo đầu tiên truyn bá có hthng như thuyn bè qua ĐNA, đi bqua Tàu và đến tn Ai Cp, Hy Lp, vi nhng phương cách khác.
File:Esak2010.jpg

Trước đây VN, sư áo vàng không được coi trng và quan nim tiu tha là nhbé chlo độ mình còn đại tha độ hết chúng sinh. My thy áo đà chc gì đã độ được mình mà nói chúng sinh. Bc tông VN 100% ging Tàu. Hãy xem cách đọc s. Ông sư qutrước bàn Pht mrng tsto như tnht trình, gia chủ đội cái khay có cái bao s. Ông sư ging như thy ký biết chlàm đơn trình quan huyn, quan ph, quỳ đọc thnh nguyn thư. Người dân dt chnhưng đội cái bì schng minh mình là đương s. Áo qun, mũ mão, chuông trng, kinh kv.v...chkhác chỗ đọc Hán Ttheo li Vit.
Đại tha phóng khoáng hơn, ít “society bound” nên dhòa hp vi địa phương. Khi đến Trung Hoa thì môn phái ny tiếp tc phát trin để có thêm nhiu nét khác hơn. Ngn ngcó câu: cái gì qua Tàu cũng bTàu hóa (toute chose qui passe en Chine sera chinisée). Đầu tiên nhng dch gi, nhcó tu chng đạt tinh lý ca kinh, đã chuyn mt ngôn ngữ đầy hình nh, đầy tưởng tượng vi mt tm nhìn quá rng rãi qua mt ngôn ngcô đọng và ngn gn. Họ đã tìm mi cách để dch nhng thut ngPG, hoc phiên âm (ba la mt) hoc theo nghĩa (giác ng, ngã…) có khi chai (đà la ni, chú, chân ngôn; có khi “a nu đa la tam miu tam bồ đề” có khi ‘vô thượng chánh giác”). PG ti TH là mt ví dca trăm hoa đua n.
Khi tiếp nhn đại tha tTàu, gii áo nâu áo lam, vi bn cht ttôn sn có, đã tcho mình cao hơn gii nguyên thy; rõ nht là gii áo vàng trong Nam bxem như “mi Mên”. Nhưng skthcó thmang mt lý do sách v: gii thích ngũ thi ca phái Thiên Thai mt cách sai lc. Tông phái ny chia sgiáo hun ca Pht thành 5 thi liên tiếp: Hoa Nghiêm, A Hàm, Phương Đẵng, Bát Nhã và Pháp Hoa. Mi giai đon có ni dung riêng nhưng nm chung mt hthng dn đến gii thoát và giác ng. Nếu lch trình ging hun ca Pht được mô tnhư hành trình ca mt tri trong mt ngày, thì thi A Hàm nm vào lúc Thái Dương đã lên khá cao để có thchiếu xung vc sâu ti thm, sau khi chiếu trên đĩnh núi (Hoa Nghiêm) lúc rng đông.(Nht xut tiên chiếu cao sơn, thchiếu u cc). Đại ý, dù có ngu ngc đến mc nào, chúng sinh cũng được chánh pháp soi ri chli. Thế nhưng có người gii thích giai đon ny dành cho kngu.
Slch lc ny đáng ngc nhiên. Đường Tam Tng thnh kinh tTây Vc vcquc dch đến 600 cun gm rt nhiu kinh Pali.
BVi Diu Pháp xut hin vi tên A Tì Đạt Ma, phiên âm Abhidarma. Klna là kinh ny có nêu lý thuyết duyên khi, mt lý thuyết duy nht trong lch stư tưởng xưa nay. Duyên khi là tài liu quý giá cho Long Th, sáng lp ngành đại tha. Vị Đệ NhPht ny đã đưa ra các blun vtánh không, trung đạo tgiáo lý y.
Cách nhn định ny đã làm cho nhiu người xm xì vThích Minh Châu “đi hc cho tn công tn ca mà chbiết thêm vA Hàm, không dám rti Hoa Nghiêm Bát Nhã”. Thích Minh Châu (xin bqua nhng hly chính trnếu có) đỗ tiến sĩ ti đại hc Nalanda vi lun án: so sánh hai bn Pali và Hán Văn ca kinh A Hàm, mt lun án khó khăn nht trong lch scn đại ca vin. Nhng công trình dch thut tPali qua Vit Ngvà nhng kho lun khác to nên cơ hi ni rng tm nhìn xa hơn khung tri đại tha, bù đắp nhng thiếu sót vì tham sân si, nht là tránh thiên kiến vtiu tha nguyên thy. Các sư Theravada cũng cgng làm công vic trên nhưng, theo nhn xét riêng, hiu qukhông bng công sc ca thy đại tha Minh Châu. Thích Gii Nghiêm đã dch và chú gii mt kinh quan trng trong ngành tiu tha Tích Lan, Miến, Mên và Lào: Na Tiên là ghi ký cuc tho lun gia vua Hy Lp Milinda và tkheo Nagasena.
Skhác bit Nam Bc Tông đại khái như thế để anh nghiên cu thêm. Nhưng chính yếu xin anh ghi nhn ý kiến ca Ikeda Daihatsu, chtch hi cư sĩ Nht SGI: kinh đin PG có tính cht nht thng (consistency) nhiu nht so vi các tôn giáo khác.  Như vừa nói, những dòng nầy chỉ có tính cách đặt vần đề, gợi ý để anh tự tìm thêm; chứ sức tôi tới đó là cùng rổi.
Mahayana Buddhism, teachings fronted by SKOGSTORKENEBB
Tin thtôi xin nêu vài đim quan trng, theo tôi dĩ nhiên, cho viêc hc hi ca tôi:
Thnht, mt cmt đời người chưa hc hết kinh đin nhưng chcn năm phút để tóm lược tinh túy ca PG: cu độ và gii thoát, Pht tính bm sinh, lut nhân quchi phi vn pháp (ni tâm và ngoi cnh); tâm là đầu mi thin ác.
Thhai, đừng so sánh PG vi khoa hc, đừng gi Pht là nhà khoa hc vĩ đại hay bé tí. “Như Lai qung din kinh đin độ thoát chúng sinh, khi chsmình khi chsngười, khi chthân mình, khi chthân ngươi”. Nhng sự ấy dùng trong mc đích giáo hun. Khoa hc gia tìm ra tính cht khoa hc là chuyn ca h. Cun The Tao of Physic ca Capra cho thy trc giác huyn nhim ca Đông Phương đã nh hưởng sâu đậm các vt lý gia hin đại như Niel Bohr, Albert Einstein … nhưng đừng vì vy mà quên mc đích chính là rút ba mũi tên độc tham sân si, cũng không nên dùng khoa hc để tô son đim phn cho PG, để tranh hơn thua. Hãy để tnhiên cho khoa học, tôn giáo, triết lý nghthut gp nhau nơi chúng xut phát, cái uyên nguyên ca vũ trcàn khôn, cũng là cái tâm diu vi nơi vn hu; cho nên không cn can thip vi vã.
Thba, khi mang mt điu gì, mt ch, mt trang, mt cun kinh cho người khác, mình phi hiu người nhn slà thy ca mình, sẽ độ mình. Thà không biết còn hơn biết để ngông nghênh mun hơn đời. Người nhn chưa có cơ duyên để biết tài sn tin bc tim n ca mình. Vt đưa chlà chìa khóa nhmà người đưa tm gi. Ging ht như bưu đin không phi là klàm ra nhng gì cha bên gói hàng. Biết và hành skhiêm tn y tc là mình bbt tính cách Pht giáo, ct bt nhng góc cnh nhn, như oan oan buông x, dit dc, ngi bán già kiết già trước mt đám đông chưa biết ngi xếp bng thông thường. Trước khi hc (trước khi giác ng), gánh nước; sau khi giác nggánh nước. Tôi chỉ đim cho vài người vmt đôi điu; sau đó họ đam mê hc hi tôi phi đến nhcy, đưa cho đọc nhng cun sách mình nut không được để thnh ý vsau. Đim ny da vào li khuyên “mc áo Như Lai, là khiêm tn”. ttt

mahayana