add this

Tuesday, September 3, 2019

Hitler và Muslim


coll_2-040215.jpg
lính Đức gốc Muslim diễn hành
Hitler và the Muslims
Steve Coll, Hitler & the Muslims

1941, một giáo sư nhân chủng học ở Harvard tên Carleton S. Coon du hành đến Maroc, bên ngoài nói là đến để nghiên cứu tại chỗ. Nhưng sứ mệnh thực sự của ông là lén đưa vũ khi cho đám người chống Đức trong vùng núi Atlas, nhân danh Office of Strategic Services, tiền thân của CIA. Năm sau, khi HK sửa soạn chiếm Bắc Phi, Coon và một đồng nghiệp tên Gordon Brown soạn thảo một tờ truyền đơn nhằm giảm phản ứng bất lợi của dân chúng đối với các đoàn quân Mỹ sắp đổ bộ. Hai ông nầy đã dùng các thành ngữ tôn giáo. “Hãy vinh danh đấng God duy nhất. Những chiến sĩ tôn giáo Mỹ đã đến để làm cuộc thánh chiến vì tự do. Ký tên Roosevelt.

Nazi cũng đang xúc tiến hình thành các luận điệu ba rọi gởi đến người Muslim Bắc Phi. Henrich Himmler, nhân vật thứ ba của Đức, chủ trương tận dụng Hồi giáo trong chiến lược tổng quát. Mùa xuân 1943, khi lộ quân của Rommel gặp nhiều thất bại, Himmler đã yêu cầu bộ chỉ huy an ninh tìm xem trong Koran có đoạn nào làm cho người Muslim chấp nhận rằng Hitler đã được tiên tri trong Koran, và được phép hoàn tất sứ mệnh của Nhà Tiên Tri. Ernst Katenbrunner, trưởng cơ quan, phúc đáp không có đoạn nào có thể giúp ích, nhưng ông đề nghị nên quảng cáo Hitler là Isa (Jesus) tái hiện như Koran đã tiên tri; Hitler, giống như thánh George, đánh bại ông vua vĩ đại Do Thái Dajjal, cút khỏi thế giới nầy”. Sau đó bộ chỉ huy an ninh đã cho in một triệu truyền đơn nhằm kêu gọi Muslim ủng hộ Đức:
“Hỡi người Arab, các bạn thấy chăng thời của Dajjal đã hết. Các bạn có thấy hình dáng của hắn chưa? Chính là thằng Do Thái mập thù lù tóc quăng đang dối trá thống trị thế giới, và cướp đất của người Arab. Hỡi người Arab, các bạn có thấy người đầy tớ của God không. Người ấy (Hitler) đã xuất hiện trên mặt đất, đã chỉa gươm vào Dajjal và bè lũ… Người ấy sẽ giết Dajjal như kinh đã nói, sẽ triệt hạ kinh thành của hắn và xua bè lũ của hắn xuống địa ngục”. (Dajjal trong Koran như kẻ phản chúa, anti god, của Thánh Kinh).

Lối tuyên truyền ấy, theo cách nhìn ngày nay, thật là vô nghĩa, ngu xuẩn, lố bịch. Nhưng nhắc lại để thấy rằng nó nằm trong câu chuyện dài Tây Phương vá víu để huy động và hợp tác với người Muslim, nó cũng vụng về như các hí họa và truyền đơn Mỹ thả xuống Afghanistan 2001 và Iraq 2003.

Tài liệu về thế chiến 2 cho thấy phe Trục lẫn Đồng Minh đã đầu tư hùng hậu trong chiến lược dành sự ủng hộ của khối Muslim; nhưng hai phe đều tạm thời thành công phần nào. Đối với đa số, chiến tranh nầy chỉ là xung đột giữa các phe thực dân đàn áp họ, họ chỉ mong chiến cuộc ngưng càng sớm càng tốt.

Đức chú trọng vận động Muslim nhiều hơn vì sự lớn mạnh ý thức hệ Nazi trùng hợp với cuộc vận động dân tộc Palestine chống Do Thái. Amin al-Husayni, một thủ lãnh quốc gia và là một giáo lãnh ở Jerusalem đã trốn qua Berlin, cộng tác với hệ thống tuyên truyền Đức suốt cuộc chiến. Thông điệp của Nazi luôn nhấn mạnh rằng Đức sẽ giải thoát Muslim khỏi chủ nghĩa thực dân Anh và chủ nghĩa vô thần CS bằng cách loại bỏ người Do Thái hiện ảnh hưởng mọi phương diện. Đức có một số “thính giả” hợp ý ở Palestine và nhiều nơi khác nhưng không ai có thể lượng định ảnh hưởng của Đức đối với quan điểm người Arab dành cho chính sách định cư Do Thái; lý do chính Đức hiện diện trong thời gian rất ngắn. Tuy vậy nhiều nhà nghiên cứu đồng ý rằng tuyên truyền Đức thất bại; bằng chứng rõ nhất một khối lượng rất lớn người Arab tham dự chiến tranh bên cạnh Anh quốc ở Bắc Phi và Trung Đông.

Hành động của người Muslim trong vùng Đức chiếm không có tính cách đồng loạt tập thể. Có người tham dự hành hung kẻ khác theo lệnh của Nazi; có người gỡ mái tôn nhà thờ Do Thái; cũng có người can đảm bao che giúp người Do Thái tránh truy nã. Nói khác, việc người Muslim liên hệ đến diệt chủng Do Thái và người Roma (du mục) không nên tổng quát hóa, vì nó không mô tả đầy đủ hành động có khi trái người của người Muslim.

Đến đây, xin nói qua một điều khá ngạc nhiên. Hitler đã nương vào đường lối của một người Muslim để có những hành vi độc ác. Ít ai ngờ đó anh hùng Thổ Nhĩ Kỳ được ca ngợi với nhiều lý do: Mustapha Kemal. “Ataturk” đã cung ứng cho Hitler và các nhà ý thức hệ Nazi một mẫu điều động kháng cự võ trang chống hòa ước Versaille và cách biểu thị sức mạnh của chủ nghĩa quốc gia cần thiết cho một chế độ mới ra ra lò.
Người sáng lập Thổ Nhĩ Kỳ tân thời đáng được ghi nhớ như một Mussolini trong trí tưởng chính trị của Hitler thuở ban đầu.

Ataturk đã có một hồ sơ cá nhân ghi các cuộc hành binh, gồm cuộc diệt sạch thành phần mà Hitler cho là các nhóm đa chủng đã hút mau đế quốc Ottoman. Thật vậy, việc Thổ giết hằng loạt người Armenia trong thế chiến thứ nhất rõ rằng đã ảnh hưởng đường lối Hitler giết Do Thái đầu thập niên 1920.
Hans Trobst, người tham dự chiến tranh dành độc lập của Kemal đã viết trên tập san quan trọng của Nazi “Heimatland”: Bọn hút máu và sống bám vào cơ thể quốc gia Thổ là Do Thái và Armemia: Phải tận diệt chúng, làm cho chúng kiệt quệ, nếu không thì cuộc tranh đấu vì tự do của chúng ta sẽ vào ngõ bí.
Bất cứ ai có chút liên hệ ngoại quốc đều phải chết; nửa triệu người đã chết. Trong thời kỳ phôi thai, Nazi đã tìm được trong nước Thổ mới một đường lối quốc gia chủ nghĩa thực sự và thuần tịnh: không còn một người Armenia hay Do Thái trong bán đảo Anatolie nầy nữa; điều nầy được nhắc nhở cả mấy trăm lần trong các bài báo, tài liệu nội bộ và các bài diễn văn.
Về chính trị, thành công của Ataturk cống hiến cho Đức phương cách vượt khỏi những ô nhục, cúi đầu mà hòa ước Versaille đã đặt trên đầu kẻ thua trận thế chiến 1. Không những nắm quyền bằng hành động dũng cảm nhân danh quốc gia Thổ, Ataturk còn ép các cường quốc Âu Châu tái thương thuyết các điều khoản của hiệp định nầy. Ảnh hưởng của ví dụ nầy đối với Hitler không kém ảnh hưởng của cuộc “đạp chân trên đất Rome” của Mussolini năm 1922. Hitler đã làm theo để tổ chức đảo chánh (bất thành) ở Munich năm 1923. Sau đó, khi xét lại biến động nầy, Hitler nói chủ nghĩa quốc gia diệt chủng đã đưa Ataturk lên nắm chính quyền. Ông nói: “sự cứu rỗi không xuất phát từ một trung tâm hư thối là Constantinople. Thành phố nầy, không khác các thành phố Đức, đã bị ô nhiễm bởi lớp người đã bị quốc tế hóa và chủ trương dân chủ hòa bình, không còn khả năng làm việc gì cần thiết. Sự cứu rỗi sẽ xuất phát từ nông thôn.
Ataturk chết năm 1938 nhưng Hitler ngưỡng mộ cho đến cuối đời; ông luôn giữ bên mình bức tượng bán thân của Ataturk, tác phẩm điêu khắc của Josef Thorak.

coll_1-040215.jpg
Hitler và bán tượng Kemal trong xưởng Thorak

Liên minh Nazi và Islam chỉ có tính cách thực dụng, không mang màu sắc ý thức hệ. Ataturk chủ trương thế tục. Hitler ca ngợi người Thổ Nhĩ Kỳ đã tẩy xóa những yếu kém sai lầm của đế quốc Ottoman, đồng thời kết án đức tin Islam làm trị trệ chận đường tiến bộ.
Điều nầy tương phản với luận điệu tuyên truyền khác: Muslim là đồng minh tự nhiên của Đức chống với Do Thái, Anh và Nga. Mâu thuẩn nầy được giải thích bằng hai yếu tố. Thứ nhất Hitler không có tư tưởng nhất thống, tùy hứng. Thứ hai, xưa nay Đức, dưới các chế độ khác nhau, vẫn dùng người Muslim có võ trang chống với các nước thù nghịch.

Khi thế chiến 1 bùng nổ, tình báo Đức đã nghiên cứu cách thức hữu hiệu nhất để khơi động các cuộc nổi dậy của Islam chống Anh từ Ấn Độ cho đến Ai Cập. Qua sự thúc dục của Đức, vua Thổ Mehmed ở Constantinople đã ra giáo lệnh kêu gọi Muslim cả thế giới đứng lên chống các cường quốc liên minh. Vua còn bảo đảm rằng những ai chết dưới họng súng của Anh được phong là thánh tử đạo vinh quang.

Berlin, Trung Đông Vụ tình báo đã tìm cách xúi dục thánh chiến ở các nước đối nghịch, đã in tài liệu hướng dẫn dày 136 trang. Làm việc cho cơ quan nầy gồm có các chuyên gia mọi ngành học thuật, các nhà ngoại giao, nhân viên quân sự và các cộng tác viên Muslim. Tuy quân đội Pháp cho biết quân Muslim quấy nhiễu suốt thời gian chiến tranh, giới nghiên cứu cho rằng Đức đã dùng một quan niệm sai lầm khi tin tưởng vào một liên minh Islam nổi dậy và không che dấu hữu hiệu bàn tay Đức trong cuộc vận động nầy. Thế giới Muslim rất hổn tạp nên không thể dùng một sách lược duy nhất; họ đã thấy bị lợi dụng vào mục đích chiến lược, chứ không phải vì một chính nghĩa tôn giáo. Nhưng hồi ký các cộng sự viên hay người thân tín cho thấy Hitler mê thích đức tin và lịch sử Muslim.

Hitler và Himmler đồng ý hoàn toàn với Trung Đông Vụ. Không có tài liệu chính xác để biết rõ Hitler đã nghĩ thế nào về Islam. Nhưng hồi ký các cộng sự viên hay người thân tín cho thấy Hitler mê thích đức tin và lịch sử Muslim; Hitler mô tả Islam là một hệ thống tín ngưỡng mạnh mẽ hơn Thiên Chúa Giáo và thích ứng cho việc xây dựng một nước Đức theo như ông muốn.
Theo Albert Speer, Hitler có lần đưa ra một đảo cách lịch sử: chuyện gì sẽ xẩy ra nếu các lực lượng Muslim thế kỷ thứ tám vào chiếm nước Pháp và thắng quân Frank ở trận Tours. Giả sử đúng như vậy thì người Muslim trong trường hạn, vì thuộc giống dân thấp kém, không thể chịu nỗi bầu không khí Bắc Âu, nhưng những người Đức theo Islam sẽ cầm đầu lãnh đạo đế quốc Islam nầy. Speer nhớ lời Hitler: “Bất hạnh thay, chúng ta có một tôn giáo sai; Islam thích ứng với chúng ta hơn TCG; tại sao chúng ta đã phải chấp nhận một tôn giáo ủy mị ngoan ngoãn như TCG?” Một nguồn tin khác từ em gái của Eva Braun, “vợ” của thầy mình cho biết trong các bữa ăn, Hitler thường nhắc đến Islam, so sánh với TCG để chê bai Vatican. Không mạnh mẽ và thực tiển như Islam, TCG yếu mền, giả tạo và gây thống khổ.

Sự sùng thượng Islam của Himmler thì có bằng chứng nhiều hơn; nhưng tổng quát thì không khác chi Hitler. Felix Kersten, y sĩ riêng của Himmler, đã dành một chương trong hồi ký để trình bày đam mê quá độ của bệnh nhân nầy đối với Islam và Mahommed. Rudolf đã giới thiệu Himmler cuốn Koran và ông giữ ở đầu giường và xem Nhà Tiên Tri là một trong nhân vật hàng đầu của lịch sử.
Himmler từ bỏ giáo hội Vatican năm 1936. Khi chiến tranh đến lúc vô cùng sôi động, Himmler đã nghĩ đến cách dùng Islam để khích lệ quân sĩ. Năm 1943, ông nói với Kerten: Mahommed biết rằng đa số người đời đều hèn và ngu xuẩn cho nên đã hứa mọi chiến sĩ anh dũng và chết trận sẽ có hai người đàn bà rất đẹp… Anh sẽ cười và cho điều nầy lạc hậu, nhưng đó là trí huệ thâm hậu; tôn giáo phải dùng ngôn ngữ của con người”. Không thể chối cải tính chất lập dị trong những suy nghĩ nầy, cũng như những điều Himmler bàn về huyền nhiệm và các khoa học gọi là huyền bí; ông chỉ là một độc giả Koran nông cạn.

Trong mấy năm gần đây, Christopher Hichens đưa ra một chữ mới: “Islamfascism” đặt tên cho luận thuyết song hành giữa các chủ trương Muslim quá khích hiện nay và của phát xít. Mặc dầu được cổ xúy trên hệ thống Fox TV, lý thuyết của nhà vô thần quá cố nầy không còn hấp dẫn ngay cả với khuynh hướng cực hữu, vì nó vô cùng giản lược và phi lịch sử. Himmler chỉ nói: Islam và Nazi có những kẻ thù chung, vượt qua các tín ngưỡng.
Balkan
The Balkan region according to Prof R. J. Crampton
Các lời phát biểu của Himmler chỉ có tính cách xúi dục khi chiều hướng chiến tranh đã bất lợi, cổ võ Muslim ngăn chận cuộc phản công của Nga. Himmler đã tuyển mộ, huấn luyện nhiều sư đoàn chuyên biệt Muslim để giữ các phần đất Nazi chiếm ở Balkan và Caucase, nay dùng những đạo quân nầy mong lật ngược chiến cuộc. Ông đã xác nhận: tôi không có việc chi phải chống Islam. Islam đã huấn luyện, giáo dục người cho tôi và hứa hẹn họ sẽ lên thiên đàng sau khi chiến đấu và chết trận. Rõ là một tôn giáo thực tiển và hấp dẫn cho lính”.
Thái độ thân thiện nầy nằm chung trong thời kỳ tuyên truyền Nazi uyển chuyển để khỏi mất lòng các đồng minh (trong tiềm năng) Thổ, Arab và Iran.

Hitler thường nói riêng rằng các nhóm nầy thuộc các chủng tộc thấp hèn nhưng khi bàn về chiến lược, ông đã bỏ qua kỳ thị chủng tộc. Muốn chống Anh và Pháp thì phải làm vừa lòng người Arab. Khi Đức đưa quân vào Bosnia năm 1943, Nazi tuyên bố người Muslim trong vùng, về phương diện chủng tộc, là người giá trị; họ trở thành người Muslim đầu tiên gia nhập quân lực Đức.
Tại vùng Caucase và Crimea, quân quân Đức cho hồi sinh văn hóa Muslim. Thế hệ đương thời chứng kiến việc Nga đàn áp, dẹp bỏ lễ lạc Muslim; Nazi cho các đền thờ sinh hoạt lại, cho phép trưng bày Koran tiếng Arab nơi công cộng, không như Nga đã cấm chỉ. Muslim Đông Âu xem việc Đức chiếm đóng là phương cách phục hưng văn hóa Islam. Nhiều tiểu đoàn chuyên biệt gồm hơn 20 ngàn người Tatar trong lộ quân 11 của Đức đã đánh trả quân Nga ở tuyến phía Bắc.

Khi Đức thua, số binh sĩ nầy và người Muslim đã trả giá quá đắc. Staline đày người Muslim ở Caucase và Crimea qua Trung Á. Tại hội nghị Yalta, Anh và Mỹ, để được thỏa thuận cho người mang quốc tịch Nga hồi hương, đã đồng lõa với những hành động độc ác nầy. Quân Anh Mỹ giữ cựu quân nhân Nazi Muslim trong các trại giam đặc biệt trước khi giao cho Hồng quân. Nhiều người đã nhảy khỏi tàu hỏa đang chạy; nhiều người đã nhảy xuống giữa Hắc Hải; nhiều người tự sát trên tàu. Khi đã đến đất Nga số người được chuyển giao nầy bị sát hại và đưa vào các gulag. Chính quyền Anh và Mỹ không để ý đến các cuộc phản đối do Hồng Thập Tự tổ chức. Báo chí tây phương cũng làm lơ.

Khúc nhạc ve vãn Islam của Đức mở đầu bằng một chiến lược giả dối, lợi dụng sự chống đối Do Thái và chấm dứt bằng cái chết tập thể và khổ đau triền miên của người Muslim.

hình ảnh cuộc chiến hiện ở Afganistan

Nhưng kịch bản nầy đã gợi lên một khuôn mẫu cho HK sử dụng trong chiến tranh lạnh. Với sự cộng tác của Saudi Arabia, HK đã tìm cách vận dụng Islam để chống sự bành trướng của Nga ở Trung Đông. Sau khi Nga chiếm Afghanistan, tổng thống Carter cho phép CIA ngầm giúp quân nổi loạn làm sống lại cuộc thánh chiến vì tự do mà tiền thân OSS đã khơi mào ở Bắc Phi.
Thi hành chỉ thị ầy, giám dốc CIA Casey đã cho in Koran tiếng Uzbek để phiến quân chuyền lén vô Nga. Casey còn cho phép du kích quân quấy nhiễu trên lãnh thổ Nga.

Cuộc kháng cự thành công chống Nga nầy nằm trong số ít trường hợp có kết quả nhờ hành động của người Muslim do bên ngoài thúc đẩy chống xâm lược của người không Muslim; tuy vậy không nên quên rằng công cuộc nầy đã bắt đầu tại chỗ và trước khi Mỹ và Saudi Arabia tung tiền. Nhưng khía cạnh tiêu cực của sự viện trợ nầy là một cuộc nội chiến tệ hại và sự xuất hiện tổ chức khủng bố al-Qaeda.

Tây Phương ngày nay đang dùng Islam chống lại Islam quá khích; nhưng Tây phương vẫn còn mang quan niệm xưa của Đức tin tưởng Muslim là một khối duy nhất để áp dụng một chính sách duy nhất. Với thực tế trên địa bàn chính trị và quân sự, nay bạn bạn mai thù, lời kêu gọi “hưng binh” của Tây Phương chỉ có hiệu lực giới hạn trong thế giới Muslim. Trong lúc ấy, nơi nơi, dân chúng tự hỏi còn bao lâu nữa mới có quả bom M nổ trong khu vực đang sống.  Hitler & the Muslim


=======================================================================






No comments:

Post a Comment