add this

Thursday, September 10, 2020

Tâm Kinh Bát Nhã









Tâm Kinh Bát Nhã
Thích Trí Th dch

Bồ tát Quán tự tại khi hành Bát nhã ba la mật đa sâu xa soi thấy năm uẩn đều không, vượt qua mọi khổ ách.
Xá Lợi Tử! Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc; sắc tức là không, không tức là sắc; thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy.
.
Xá Lợi Tử! Tướng không các pháp đây, chẳng sanh chẳng diệt, chẳng dơ chẳng sạch, chẳng thêm chẳng bớt. Cho nên, trong không, không sắc, không thọ, tưởng, hành, thức; không mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không nhãn giới cho đến không ý thức giới; không vô minh cũng không vô minh hết; cho đến không già chết, cũng không già chết hết; không khổ, tập, diệt, đạo; không trí cũng không đắc.
.
Bởi không sở đắc, Bồ tát nương Bát nhã ba la mật đa, nên tâm không mắc ngại; vì không mắc ngại nên không sợ hãi, xa lìa mộng tưởng điên đảo, rốt ráo niết bàn. Chư Phật ba đời nương Bát nhã ba la mật đa nên chứng a-nậu đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
.
Nên biết Bát nhã ba la mật đa là chú thần lớn, là chú minh lớn, là chú vô thượng, là chú không gì sánh bằng, trừ hết mọi khổ ách, chắc thật vì không dối.
.
Nên nói chú Bát nhã ba la mật đa, nên nói chú rằng:
Yết đế, Yết đế, Ba la Yết đế, Ba la tăng Yết đế, Bồ đề, Tát bà ha".


Tham lun
TTT
Trong những bản Anh Việt Pháp tôi có dịp xem, đây là bản dịch làm tôi thích nhất, tuy tôi không biết chữ Hán, Pali và Sanscrit; mặc dù tôi chỉ tụng bản Hán Tự khi làm vườn, khi thức giấc nhất là khi thức vì ác mộng. Người có trì hành mới biết cốt lõi của kinh mới dịch thỏa đáng. Tôi tin Thích Trí Thủ, ngoài những hệ lụy chính trị vì thời đại, là vị chân tu, tôi biết từ khi thầy là trụ trì chùa Ba La ở Vy Dạ, Huế.
Có luận thuyết cho rằng Huyền Trang viết kinh ngắn nầy là tóm lược bộ Đại Bát Nhã rồi dịch qua Phạn ngữ. Đôi lúc tôi nghiêng về đó khi thấy Tâm Kinh rất logical (duy lý), trong khi văn chương, kinh sách vùng Thung Lũng Ấn rất dài dòng, nhiều tưởng tượng, không khúc triết cô đọng, hữu lý như văn chương Tàu. Theo tôi, tài liệu ngắn này rất vững chãi, dựa trên các xác định (affirmation) rõ ràng. Tôi chỉ chú tâm đến phần thứ ba trong sự phân đoạn chủ quan; bài nầy gồm ba phần.
Thứ nhất. Bồ tát Quán tự tại khi hành Bát nhã ba la mật đa sâu xa soi thấy năm uẩn đều không, vượt qua mọi khổ ách. QTT Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời chiếu ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách.
Là một đối chứng (testimony, như tường trình trước quốc hội, to testify); trình bày sự kiện cụ thể QTT làm như vậy (hành thâm Bát Nhã), và có kết quả như vậy, hết khổ nạn. Rõ ràng như mình nói: Nguyễn Quê theo đúng Luân Lý Giáo Khoa Thư học ở lớp ba tiểu học (do đó) trở thành người lương thiện được xóm làng mến thương. Ngày nay hơn nửa số bài viết, luận thuyết, báo chí v.v…bắt đầu bằng câu chuyện.
Thứ hai: Xá Lợi Tử! Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc; sắc tức là không, không tức là sắc; thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy.
Xá Lợi Tử! Tướng không các pháp đây, chẳng sanh chẳng diệt, chẳng dơ chẳng sạch, chẳng thêm chẳng bớt. Cho nên, trong không, không sắc, không thọ, tưởng, hành, thức; không mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không nhãn giới cho đến không ý thức giới; không vô minh cũng không vô minh hết; cho đến không già chết, cũng không già chết hết; không khổ, tập, diệt, đạo; không trí cũng không đắc.
Là phần quảng diễn Bát Nhã như vầy, như vầy.
Phần thư ba còn lại:  Bởi không sở đắc, Bồ tát nương Bát nhã ba la mật đa, nên tâm không mắc ngại; vì không mắc ngại nên không sợ hãi, xa lìa mộng tưởng điên đảo, rốt ráo niết bàn. Chư Phật ba đời nương Bát nhã ba la mật đa nên chứng a-nậu đa-la tam-miệu tam-bồ-đề..
Nên biết Bát nhã ba la mật đa là chú thần lớn, là chú minh lớn, là chú vô thượng, là chú không gì sánh bằng, trừ hết mọi khổ ách, chắc thật vì không dối.
Nên nói chú Bát nhã ba la mật đa, nên nói chú rằng:
Yết đế, Yết đế, Ba la Yết đế, Ba la tăng Yết đế, Bồ đề, Tát bà ha".
Phần cuối là cách dùng, mang tính cách hữu dụng. Chân Thiện Mỹ là ba lý tưởng có từ thượng cổ muốn đứng vững phải thêm yếu tố dụng, để đem lý tưởng từ trời cao xuống tầm gần. Kinh luật luận PG không để tô diễm bên ngoài như trang trí. Pháp Hoa (phẩm 16) có chỗ ghi: Như Lai quảng diễn kinh diễn độ thoát chúng sinh”.
Kinh Vô Lượng Nghĩa không ngần ngại nói chúng sinh hiểu biết giáo lý có chỗ khác nhau nhưng đều độ được. Sự khác biệt dưới mắt từ bi của Bổn Sư không mang tính chất đẳng cấp, nhưng pháp sư cần biết để giáo huấn hữu hiệu.
Tuy biết mọi sự phân tích là hướng tách biệt như năm ngón tay mở rộng góc độ giữa hai ngón, tôi vẫn xin tạm dùng để nhìn vào đoạn thứ ba nầy. Có ba cách dùng, nếu không phân biệt (different) thì cũng biền biệt (differential).
Cách thứ nhất: Bởi không sở đắc, Bồ tát nương Bát nhã ba la mật đa, nên tâm không mắc ngại; vì không mắc ngại nên không sợ hãi, xa lìa mộng tưởng điên đảo, rốt ráo niết bàn.
Bồ đề tát đõa nương chỗ hiểu về vô sở đắc mà đi tiếp trên con đường Bát Nhã thì sẽ không sợ hãi, xa lìa điên đảo hư cấu vì vọng tưởng. Theo cách nhìn riêng, bồ để tát đõa như chư đại thiện nhân thuyết giảng nơi nơi kể cả internet, tu thiền, ở riêng một tịnh cốc... Đó là nhìn theo biểu kiến còn bên trong họ đã là Phật mình không biết được như có người hạch hỏi Lão Tử không phải là cá thì làm sao biết cá vui thich.
Cách thứ hai: Tam thế chư Phật y Bát Nhã Ba Mật Đa cố, đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Phẩm 16 Pháp Hoa chữ nầy được Thích Trí Tịnh 1948 dịch là vô thượng chánh giác, thành ngữ nầy bây giờ phổ thông hơn.
Đối với hạng bình dân như tui thì kinh phải dùng nhiều chữ hơn, nói trước nói sau, dặn dò đầy đủ. Ca dao VN, trước khi đẩy thuyền ra sông thì: khoang khoang, ơi mụ chèo đò, ơi ông cầm lái dặn dò trước sau. Số lượng chữ thay đổi cho ba cách nói lên phương thức dùng. Ít chữ nhất là cho giới Phật, chỉ nói qua. Nhiều hơn một chút là phần dành cho bồ để tát đõa.
Với giới hẹp trí bình dân như bề tôi, kinh ưu ái dùng nhiều chữ để lưu ý:  a) chú BN là thần chú, vô đẳng, peerless, sans égal / b) chân thật bất hư / c): có hiệu ứng trừ khổ nạn, lập lại chủ để cũ “độ nhất thiết khổ ách"; như trong một symphony, hành âm cuối làm recap chủ đề chính, sít sao trong bố cục.
Do đó, phải hành động, trì niệm, nói, cố thuyết. Đây không phải chỗ giải thích như trên nào là sắc, nào là uẩn. Cái chú nó như thế nầy, tụng đi, thuyết đi, ngõ hầu năng trừ nhất thiết khổ.
[Bạn tôi gần 10 năm tù Bắc Việt, đói Đại Bi, Bát Nhã; lạnh Bát Nhã Đại Bi].

See the source imageThích Trí Thủ không ỏng a ỏng ẹo như một số bản dịch, nhất là Anh Ngữ. Theo tôi Thích TT chủ về hành, trong lúc đa số chủ về tri kiến, biết sâu xa về sắc, đem vào phân tâm học, dùng cả Freud, Jung, có bản đã bỏ quên phần chính yếu là độ nhất thiết khổ ách. Cách dịch cũng khác nhau.
Nhiều bảnh Anh Việt Pháp, trước khi vào chỗ cuối nầy (Cố tri…) thêm mấy chữ: Do đó, vì vậy, therefore, par conséquent không có trong chính bản mà làm đổi ý nghĩa, xem hành động “thuyết” nầy là một hậu quả, một con đẻ của các việc trước. Nó là một cách dụng trong ba thứ dụng.
Thích Trí Thủ dùng chữ “nói” nói chú Bát nhã ba la mật đa, nên nói chú. Tôi thấy hơi ngờ ngợ, lại muốn dùng một chữ Hán là niệm. Một số dịch giả Anh vì muốn làm cho trang trọng, đã dịch chữ “thuyết” của Tàu là expound, họ tránh chữ “say”.
Khi gặp bản dịch nầy, tôi liên tưởng đến Mai Thọ Truyền, cư sĩ khiêm tốn nhưng là đại học giả. Công của ông về mặt xã hội là thành lập hội Phật Học Nam Việt và xây chùa Xá Lợi, ông đã bị đẩy lùi vào bóng tối bởi biến cố 1963. Trong vô số biên khảo, hai tập luận ngắn về kinh Pháp Hoa và Tâm Kinh cho người đọc thấy toát yếu một cách đơn giản rõ ràng như lối nói Đàng Trong vốn bình dị.
*
Ý niệm tóm lược đưa chúng ta đến chữ “tâm” là nắm ruột, là tinh lý, là điểm giữa, chứ không phải là cái tâm thâu tóm mọi giáo lý của Phật. Nhưng tóm lược có thể hiểu là cách rút gọn một cuốn kinh có đủ những qui lệ: Như thị ngã văn, ….đệ tử vui mừng đón nhận ra về. Thực tế, ít ai biết chuyện nầy. Nếu xét rộng rãi như vậy thì hai chữ “Tâm Kinh” không “phạm giới” (thiếu chữ) kinh do Phật thuyết, ngoài Phật thì có luận mà thôi. Nếu “phạm giới” thì rõ ràng nhất là Kinh Pháp Bảo Đàn. Nhiều người cho rằng Kinh nầy ngụy tạo kể cả việc đấu lý của Huệ năng và Thần Tú đều là những fantaisies.
Về ngôn tự, VN mình cho lưu hành Kinh Na Tiên mà chính Thích Trí Thủ đã giới thiệu bản dịch của Cao Hữu Đính; dịch từ tiếng Tàu “Na Tiên Kinh”.
Tôi không biết Pali có dùng chữ sutta hay không. Thích Giới Nghiêm không dùng chữ kinh mà chỉ dịch “Mi Tiên Vấn Đáp” với phụ chú Milinda Panha. Kinh sách nầy ghi lại cuộc đối thoại giữa vua Milinda và tỳ kheo Nagasena, rất quan trọng trong Nam Tông, nhất là Miến Điện.

A-Celebration-of-Women-Feature-Banner-e1352628808407 (1) 512A-Celebration-of-Women-Feature-Banner-e1352628808407 (1) 512


Bản Việt dịch "Tâm Kinh" (Hṛidaya)

"Một lần, tôi nghe như vầy :
Thế Tôn ở thành Vương Xá trên đỉnh Linh Thứu sơn cùng với đại Tăng đoàn và nhiều chư Bồ-tát, vào thời điểm đó, Thế Tôn đang nhập chính định về các "Pháp-giới phân-biệt" gọi là "Cảnh-giới trình-hiện thậm thâm".
Cũng chính tại thời điểm đó, Thánh giả Quán-Tự-Tại Bồ-tát, một đại thiện tri thức, thực hành thâm diệu Trí huệ Bát-nhã-ba-la-mật-đa, Ngài thấy được ngay cả năm uẩn cũng đều thiếu vắng tự tánh.
Sau đó, thông qua năng lực gia trì của Đức Phật, tôn giả Xá-lợi-phất thông bạch với thánh giả Bồ-tát Quán-Tự-Tại rằng: "Thiện nam tử nên phát tâm rèn luyện thực hành thâm sâu pháp Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế nào?"
Khi điều này được hỏi, Thánh giả Quán-Tự-Tại Bồ-tát đáp lời tôn giả Xá-lợi-phất rằng: "Này Xá-lợi-phất! Các thiện Nam tử, thiện nữ nhân phát tâm thực hành pháp Bát-nhã Ba-la-mật-đa thâm diệu nên thấy như sau :
Họ nên soi thấy đúng đắn, xuyên suốt và tái lặp là: đến cả năm uẩn cũng đều thiếu vắng về tự tánh. Sắc tức là không, không tức là sắc. Không (hoạt hành) chẳng khác chi sắc, sắc (hoạt hành) cũng chẳng khác chi Không. Tương tự, thọ, tưởng, hành thức thảy đều là Không.
Xá-lợi-phất, bởi thế, mọi hiện tượng đều là Không , thiếu vắng các đặc tính xác định; chúng không sinh, không diệt, không dơ, không sạch, không tăng, không giảm.

See the source imageCho nên, Xá-lợi-phất, trong Không, không có sắc, không thụ, không tưởng, không hành, không thức ; không có nhãn, không nhĩ, không tỷ, không thiệt, không thân, không ý ; không sắc, không thanh, không hương, không vị, không xúc, không pháp. Không có nhãn giới và vân vân cho đến không có ý thức giới. Không có vô minh cũng không có diệt hết vô minh, và vân vân cho đến không có già, chết; cũng không có diệt hết già chết. Không có khổ, tập, diệt đạo. Không có trí tuệ, không có chứng-đắc, cũng không có không-chứng-đắc.
Xá-lợi-phất, vì không có chứng đắc, nên do đó Bồ-tát an trụ theo Trí huệ Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì Tâm không uế chướng nên không sợ hãi, vượt khỏi sai lầm, đạt cứu cánh niết-bàn.
Tất cả chư Phật, an trụ trong tam thế tỉnh thức viên mãn và thấu suốt, cũng y theo Trí huệ Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà được vô-thượng chính-đẳng-chính-giác.
Do vậy, phải biết được rằng: chú Trí huệ Bát-nhã-ba-la-mật-đa , vốn là đại tri chú, là đại minh chú, là vô-thượng chú, là ngang bằng với vô-đẳng chú, diệt trừ được mọi khổ não, là chân thật vì nó không sai sót. Chú Trí huệ Bát-nhã-ba-la-mật-đa được tuyên thuyết như sau:
"Tadyatha - gate gate paragate parasamgate bodhi svaha !"
(Vượt qua, vượt qua, vượt qua bên kia, hoàn toàn vượt qua, tìm thấy giác ngộ)
Này Xá-lợi-phất, bằng cách này, các vị đại Bồ-tát nên hành trì trong Trí huệ Bát-nhã-ba-la-mật-đa thâm diệu."
.
Sau đó, Thế Tôn xuất khỏi chánh định và tán dương Thánh giả Quán Tự Tại Bồ-tát.
Thế Tôn nói: "Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử, Đúng là vậy. Phải nên hành trì Trí huệ Bát-nhã-ba-la-mật-đa thâm diệu như cách ông ấy nói. Ngay cả các Như Lai cũng đều hoan hỷ!"
Thế Tôn nói xong, tôn giả Xá-lợi-phất, Quán Tự Tại Bồ-tát, toàn thể đoàn tùy tùng chung quanh, và giới chúng sinh bao gồm trời, người, a-tu-la, và càn-thát-bà đều hoan hỷ và tán thán điều Thế Tôn dạy."

See the source image

Translation by the Nalanda Translation Committee

Thus have I heard. Once the Blessed One was dwelling in Rajagriha at Vulture Peak mountain, together with a great gathering of the sangha of monks and a great gathering of the sangha of bodhisattvas. At that time the Blessed One entered the samadhi that expresses the dharma called "profound illumination," and at the same time noble Avalokiteshvara, the bodhisattva mahasattva, while practicing the profound prajnaparamita, saw in this way: he saw the five skandhas to be empty of nature.
Then, through the power of the Buddha, venerable Shariputra said to noble Avalokiteshvara, the bodhisattva mahasattva, "How should a son or daughter of noble family train, who wishes to practice the profound prajnaparamita?"
Addressed in this way, noble Avalokiteshvara, the bodhisattva mahasattva, said to venerable Shariputra, "O Shariputra, a son or daughter of noble family who wishes to practice the profound prajnaparamita should see in this way: seeing the five skandhas to be empty of nature. Form is emptiness; emptiness also is form. Emptiness is no other than form; form is no other than emptiness. In the same way, feeling, perception, formation, and consciousness are emptiness. Thus, Shariputra, all dharmas are emptiness. There are no characteristics. There is no birth and no cessation. There is no impurity and no purity. There is no decrease and no increase. Therefore, Shariputra, in emptiness, there is no form, no feeling, no perception, no formation, no consciousness; no eye, no ear, no nose, no tongue, no body, no mind; no appearance, no sound, no smell, no taste, no touch, no dharmas, no eye dhatu up to no mind dhatu, no dhatu of dharmas, no mind consciousness dhatu; no ignorance, no end of ignorance up to no old age and death, no end of old age and death; no suffering, no origin of suffering, no cessation of suffering, no path, no wisdom, no attainment, and no non-attainment. Therefore, Shariputra, since the bodhisattvas have no attainment, they abide by means of prajnaparamita.
Since there is no obscuration of mind, there is no fear. They transcend falsity and attain complete nirvana. All the buddhas of the three times, by means of prajnaparamita, fully awaken to unsurpassable, true, complete enlightenment. Therefore, the great mantra of prajnaparamita, the mantra of great insight, the unsurpassed mantra, the unequaled mantra, the mantra that calms all suffering, should be known as truth, since there is no deception. The prajnaparamita mantra is said in this way:
OM GATE GATE PARAGATE PARASAMGATE BODHI SVAHA
Thus, Shariputra, the bodhisattva mahasattva should train in the profound prajnaparamita.
Then the Blessed One arose from that samadhi and praised noble Avalokiteshvara, the bodhisattva mahasattva, saying, "Good, good, O son of noble family; thus it is, O son of noble family, thus it is. One should practice the profound prajnaparamita just as you have taught and all the tathagatas will rejoice."
When the Blessed One had said this, venerable Shariputra and noble Avalokiteshvara, the bodhisattva mahasattva, that whole assembly and the world with its gods, humans, asuras, and gandharvas rejoiced and praised the words of the Blessed One.














No comments:

Post a Comment