add this

Friday, December 31, 2021

năm mới an lạc

 


2022 năm mi an lc

Bữa ni, là ngày cuối năm tây, xem như chiều tuế mộ nhưng nó không có âm hưởng ngày Tết của mình. Dễ hiểu thôi. Chúng tôi tìm mãi một câu chuyện để kể vì mang tiếng nhiều chuyện tầm khào.
Bỗng dưng anh Hiền bên California điện thoại thăm và cho biết Golden State có tuyết mà tuyết nhiều nữa cơ. Bên Georgia, xứ tôi thì mấy năm nay xem như không có tuyết vì lớp tuyết mỏng biến mất trong một hay hai giờ.
Sự thay đổi thời tiết nầy nếu không đột biến thì chưa đến mức đe đọa nền văn minh nhân loại. Khảo cổ cho biết nền văn minh thượng thừa thung lũng Ấn đã bị tiêu diệt vì thời tiết. Nhưng nền văn minh của chúng ta không được định danh, tuy có tính chất toàn cầu, global, một thuật ngữ.
Văn minh Indus Valley tượng trưng bởi thế ngồi thiền định, văn minh Hy Lạp được hiểu theo tính chất duy lý và cũng đã sụp đổ.
Văn minh của chúng ta hiện nay là nền văn minh chất độc hóa học như VN đã mua hàng trăm tấn thuốc làm pin đen nguy hiểm để pha màu cà phê và tiêm thuốc vào trái cây và rau quả. Văn minh của chúng ta là trước thế giới có đứa bé hát nhép tiếng hát của một em bé khác; ấy là mở đầu thế vân hội Bắc Kinh và cả thế giới phủ phục Bắc Kinh như chư hầu.


Văn minh của chúng ta là đệ nhất phu nhân mặc chiếc áo trị giá 69…ngàn dollars trong lúc một tuần take home một ngàn đã chợt ruột.

Nhưng nền văn minh ấy sẽ tự nó hủy diệt không cần nhờ khí hâu đổi thay, nhường chỗ cho nền văn minh cứt trâu trong chuyện rất ngắn nầy.
Thằng bé Chu Văn Bình cùng mẽ đi bộ qua làng bên ăn cổ cúng, tức là ăn kỵ. Thời xưa làm gì có cổ mà ăn. Hai mẹ con đi được nửa đường thì gặp bãi phân trâu, bà mẹ bèn hốt đem trở lui nhà rồi đi qua chỗ hẹn như đã bắt đầu. Thằng bé về sau chính là Chu Tử. Chu Tử kể chuyện nầy trước khi viết lên giấy, hình như lúc ấy có cả anh Lữ Hồ.
Khi nền văn minh hiện nay sụp đổ sẽ có những người như mẹ của Chu Tử mở một sinh lộ mới. Đó là lương tâm nhân loại. Và hy vọng những người nầy sẽ không ở trong hoàn cảnh thách thức quá nhiều không thể làm gì mà cải thiện, hay quá ít không cần thiết phải làm gì như Toynbee, sử gia Anh Quốc đã minh chứng.
Trong lịch sử các nước gồm cả VN, những bà mẹ như mẹ Chu Tử đã tạo dựng nền móng cho lich sử, họ không cần chiếc áo cả 70 ngàn đô, họ chỉ có những chiếc tơi lá.


=================================================

Mozart Symphony 25

======================


Tuesday, December 21, 2021

huyễn hoặc

 




Huyễn Hoặc
Tôn Thất Tuệ


Những đứa con tôi như nhành bông lúa
chờ ánh nắng há mồm uống nắng
chiều chờ sương ngậm miệng giữ hơi sương
trong thinh vắng đồng quê ngây dại
thả tâm hồn cùng đom đóm nói yêu thương.

Những đứa con tôi thích dòng nước mịn
trong vách đá trào ra như máu rịn
nuôi bên bờ những cây cói đứng song song
làm tàng lọng che lũ cá màu trắng bạc.

Chúng quên bẵng những ngày dài khoai sắn
ruột như bào không đủ cơm canh
thèm kẹo ngọt nên tưởng bờ rào là mía
có thỏi đường trong đống đá bốc hơi.

Chúng chia sẻ nguồn cơn của người lớn:
có ai kìa gọi bố lên làng
ba ngày gạo mà đi công tác
bồ về chăng hay ở mãi không thôi.
Ba ngày gạo đã là chuyện khó
mà bố đi ai dẫy cỏ nương khoai
trời mưa xuống một ngày bằng một tháng
phải chạy đua cho kịp mùa mưa
mà nắng đến cỏ khô bốc cháy
khô mảnh vườn và khô cả nồi cơm,
nhỡ bố đi không về như dạo trước
thì làm sao biết sống chết nơi nao.

Tôi để lại những đứa con nầy trong cỏ rác
với vợ hiền vóc dáng sinh viên
tay gõ nhịp trên cán cào tre nứa
hát lời ca mấy độ mới thương nhau.
Tôi để lại một lũ con thích hát
những cung vần giai điệu thật vu vơ
như gió lạc như chính mình đi lạc
thế giới người chỉ biết sợ nhau thôi.

Tôi khẳng quyết là tôi không có tội
cùng đấu tranh thua thắng chuyện đua bơi.
Nhưng tôi thấy tội tôi dày tâm khảm

đem chúng vào thế giới của đời tôi
cùng gánh chịu một oan khiên vô lối
một tội danh hoang đường huyền thoại.

Và cô bé trời xanh đi học
áo em xanh trả hàng me xanh lá
ly mía ngọt hồi xưa em uống
nay đắng nhiều những ngày còn lại với đời ta.

Ôi tội danh từ thinh không mà có

định cho ta mà cũng quyết cho đời em
rồi thấm xuống lũ con vô tội.
Ta hối hận vì ta đã chung sống
với giống người
tôn huyễn hoặc
lên làm vua.-



 

Monday, December 13, 2021

nắng quảng trị

 

nắng quảng trị

Tôn Tht Tu

Gió Lào thổi cháy cả tay kèm theo những hạt cát như tên bắn vào da. Hơi nóng ấy ở Quảng Trị tôi nghĩ đủ sức đập vỡ những phân tử tinh dầu trong những ngọn lá tràm hoang không chờ người cắt về nấu chưng cất thành một dung dịch xanh lục có tác dụng giảm đau nhức, dầu khuynh diệp bác sĩ Tín, dầu tràm Dung ga Huế...  Dân cư mắt bét vì cát tác quái lên phần da mỏng thín bên trong con mắt. Trên những truông những độn ấy, chỉ có những cây thấp, chặt về nhà lấp dưới vồng khoai lang cho xốp đất, hoặc bỏ vào chuồng heo đạp sau nầy làm phân. Những rừng chồi có sim, móc...Cây tràm nhỏ lắm không như cây tràm Cà Mâu dùng làm cừ cất nhà.
Dãy Trường Sơn dựng đứng như vách, biến vùng phía tây thành khu đại lục về phương diện khí hậu. Mặt trời mùa hè làm cho không khí căng ra như bong bóng. Hơi nóng từ bên Lào theo nguyên tắc trao đổi nhiệt lượng chạy qua khe núi như cái sấy tóc vào Quảng Trị tiếp giáp biển Đông. Thung lũng Bakerfield bắc thành phố Los Angeles cũng mang hình thái đại lục vì bị chấn ngang bởi một dãy núi ra tận bờ nước. Bầu "nhiệt tình" ấy hằng năm tặng cho Nam Cali lớp sóng nóng (Santa Ana Heat Wave). Nó không tác hại cho dân Mỹ vì điều kiện sinh sống đầy đủ, nhà cửa che kín, máy lạnh v.v...

Nhưng với Quảng Trị thì khác. Gió Lào, nó rất lào!, nó đến kèm theo cát bụi và nhất là không thổi cơm được, không thể nhóm lửa. Phải nấu cơm từ khuya, lúc ấy nhiệt độ đại lục xuống thấp, không khí teo lại chờ mặt trời mới phình trương mà đi xuống Quảng Trị.

Trong nắng trưa hè, khoảng 1970 tôi đi qua mảnh đất nghèo xác xơ ấy, tháp tùng bộ trưởng Xã Hội và hai hay ba nhà ngoại giao Âu Châu trong nhiệm vụ thanh sát đời sống của dân di tản các làng nay thành trận mạc. Đoàn thanh tra được hướng dẫn bởi ông trưởng ty địa phương và các nhân viên tòa tỉnh. Đi được một hồi, đột nhiên ông vội vã đưa tay mời đoàn người đổi hướng.

Bên hẻm không người đi
một mái tranh trên cát bều xều như ở bãi biển                  
một thiếu phụ, duy nhất một người, nói lại chỉ một người
không có áo tang, chỉ có vành khăn trắng,
trên cát bều xều,
trong tư thế nửa ngồi nửa nằm sấp,
bà khóc.
Hai tay bấu vào nền cát như đang xoa bóp lưng ai.
Trong cái u ám của lòng người và ngoại cảnh tiêu điều
có hai màu rực sáng: màu vàng và màu đỏ.
Lá cờ vàng ba sọc đỏ phủ trên một quan tài.
Túp lều trống vốc, ngoại cảnh, nội tâm
đều nằm hoàn toàn trong quyền thống trị
của ba hiện hữu liên hệ mật thiết dính bó với nhau:
quan tài phủ cờ vàng ba sọc đỏ
thiếu phụ vọc đất,
lon sữa bò có cắm mấy chân nhang đỏ.-




Monday, November 29, 2021

bán lu

bán lu

Tôn Tht Tu

Facebook Một Thời Để Nhớ nêu vài trường hợp nghề bán hàng cùng vần với tên người bán. Em tên Trang em bán nhang. Em tên Kim em bán chim…Theo phong thủy xưa có thể là một nhịp cầu trôi chảy, mua vô nhanh, bán ra nhanh. Ở Huế một thời, cha mẹ thường đến nhờ thầy Giáo Ảnh (có trả tiền) coi tên nào tốt cho con thi đậu, có chồng ngon lành. Các tên nầy không thể ghi vô khai sinh làm tên mới. Nó không dễ như bên Mỹ. Theo luật của VN xưa, chỉ được đổi tên khi tên xấu, thô tục. Thầy Tôn Thất Tiêu, kết nghĩa với chị Cầu, vì hai chữ cầu tiêu, tòa cho đổi thành TT Kiên, thầy làm luật sư. Nếu là nhà em thì xin đổi thành kỳ, cầu kỳ nghe êm tai. Chuyện ông Giáo Ảnh có người làm chứng. Ông nầy người Quảng Bình, gặp ai cũng đòi đổi tên. Ông đã thành công thuyết phục ông bà Ýến chủ Morin đổi tên hai cô con Tuyết Hồng Tuyết Ngọc thành Thanh Hồng Thanh Ngọc vì tuyết rất lạnh. Cuộc đời hai cô nầy thi khá bất hạnh cùng với vụ ông Yến bị bắt và tra tấn bởi kẻ muốn giành chiếm hay mua cơ sở thương mại nầy. Ông cũng đề nghị người học cùng lớp không dùng tên Quỳnh Hoa vì sớm nở tối tàng nhưng bị từ chối. Tùm lum tà la đi mô cũng nghe ông Giáo Ảnh.

Một facebooker dưới tên Thu DK đã viết:

Em tên Thu, em bán lu.  

Chị Thu của chúng ta chẳng mấy chốc trở thành tỷ phú (tính theo tiền đô Mỹ nhé). Thiên thời, địa lợi, nhân có hòa hay không chưa rõ. Ngập lụt ngày một nhiều, xả lũ ngày một thêm. Này Thủy Tinh nghe đây: cao nhân tất hữu cao nhân trị. Hơn cả Sơn Tinh, nhà nước đã thấy cái gót Achille * của bạn, một chấm nhỏ trúng tên ở gót là bạn chết. Nhà nước XHCN của chúng tôi chỉ bắn mũi tên nhỏ vào gót chân Achille của bạn là bạn đi đong. Nhà nước chúng tôi ra lệnh mỗi nhà mua một cái lu múc nước lụt đổ vô thì nước khô teo như cá bống kho khô.

Lúc ấy chị Thu bán lu không kịp, thiếu lu mà bán.

Bắt chước cái hanh thông của chị Thu, chị Bồng thì:

Em tên Bồng, em bán chồng. Từ từ, đừng đạo đức sớm. Em không bán chồng của em mô, "ai lâu mai hốt xà bần ve ri mớt." **Hốt xà bần là chồng, chứ không phải gạch vụn lấp hố. Chị em mình đừng: "chồng mỗng chồng mông xin trời cho tôi một tí chồng". Hãy inbox em, message cho em, gọi một tám trăm (1.800) cho em không mất tiền, giá vừa túi, nồi nào úp vung nấy.

Em Bồng, em còn tân trang chồng. Chị muốn chồng làm tiến sĩ, kỹ sư em có bằng tiến sĩ kỹ sư ngay. Bằng nầy không vớ vẩn như mấy cô lét cô liếc ký cấp đâu. Mà nữ hoàng Anh tổng thống Mỹ cấp. Khách hàng tuần tới của em là ông chồng kỹ sư cầu cống bông sốt***, bằng do Napoléon Đại Đế cấp. Em lo trọn gói mở tiệc rửa lon, à quên rửa bằng, làm khung chưng bằng nạm kim cương, có tủ kính chưng áo mão tốt nghiệp. Nhớ tên em nhé như xưa thượng nghị sĩ Mỹ Bob Dole đi từng nói: tôi là Dole, Dole như Dole Banana, bỏ phiếu cho tôi. Em tên Bồng em bán chồng.

Thế nhưng đừng thấy người ta ăn khoai mà xách mai đi đào. Nếu chị Bồng được bố mẹ gọi theo Bồng Sơn, xứ dừa Bình Định, bố mẹ em theo lối Tây gọi em là 'bonne", cho dễ nhớ em tên Bon.

không dạo dức cách mạng
Em tên Bon, không được phép bán lon, tuy thị trường nhậu và giải khát ngày một gia tăng. Nhà nước cấm "lon", nhà nước chỉ vì đạo đức, không có cái gì ngoài đạo đức (morality, nothing but morality) vì lon thêm hai dấu nhỏ thành một cấy chi kinh khủng dơ tởm hơn cái chi hết trên đời, phi đạo đức phi đạo đức cách mạng. Em tên Bon, Bonne, em không được bán lon.

Em tên Bồn, em khóc, nước mắt như sông Thu Bồn bố mẹ gọi em theo sông Thu Bồn, Quảng Nam.

Em tên Bồn em không bán gì được. Lon mà kinh tế thị trường hướng dẫn còn cấm thì huống hồ chuyện buôn bán của em.

Đúng vây, em tên Bồn.....

(nếu trùng tên, xin lỗi, chỉ tình cờ ngoài ý muốn).

Ghi chú:

*Achille, khi mới sinh, được mẹ Thetis, đem nhúng nước sông Styx để thân xác cứng như đồng, tên dao không làm tổn thương. Bà cầm gót chân thằng bé, bà sợ ướt tay nên gót của nó vẫn khô, không thay đổi. Trong trận thành Troie, anh hùng bất bại Achille bị một mũi tên nhỏ vào gót chân mà chết. Từ đó có thành ngữ talon d'Achille, Achilles' heel, Achilles' tendon chỉ nhược điểm tuy nhỏ vẫn không che dấu được.

** I love my husband very much. Husband gồm bốn âm “hớt zờ bơn đờ”

*** École Nationale des Ponts et Chaussées, Pháp Quốc

=======================================================================

Chợ hoa Tết Saigon năm xưa

================================


Tuesday, November 9, 2021

thư gởi bố


Nghĩa trang Arlington, USA






thư gi b

lettre à mon papa

letter to daddy

Đây là một bài thơ đưa lên một FB học tiếng Pháp; người post có lẽ nghĩ đến ngày 11.11 sắp đến, lễ tưởng nhớ chiến sĩ vô danh và là ngay chấm dứt thế chiến I, kèm theo hình một nữ binh sĩ trong nghĩa trang quân đội. Chúng tôi copy thiếu tên tác giả, nhưng trở lui thì mất cái window. Cập nhật: mới đây thân hữu Hoàng Vân cho biết tên tác giả là Flavien Sundhauser và gốc bài là https://www.facebook.com/1725619750875556/posts/4034159586688216/

Tiện thể có chút riêng tư, chúng tôi giới thiệu bài thơ vì cha con chúng tôi bị chia cắt xa lìa một cách bất công phi lý bởi lịch sử như ý chính trong bài: la vie nous a separéss, injustement séparés.

Lettre à mon Papa

Flavien Sundhauser

Je me balade dans les souvenirs que tu m’as laissés,

Dans une enfance qui reste inachevée…

Quand tu es parti j’ai si vite grandi

L’enfant que j’étais, est avec toi, lui aussi parti…

Je m’invente pas des chimères,

Préférant te raconter mes songes, dans mes prières,

J’espère juste qu’elles arrivent jusqu’à ta destination,

Je n’attends pas que tu reviennes, je le sais bien,

Mais j’aime à croire, que de moi, tu n’es jamais loin

Je ne remplace pas ton absence, par une imaginaire présence,

Je remplace juste les choses pour qu’il n’y ait pas trop de différence…

Je pleure encore, mes larmes ne t’oublieront pas,

Et il me plait de te dire, qu’elles te parlent mieux que moi…

Aujourd’hui, elles ne m’ont presque pas quitté,

Puisque c’est le jour, où la vie nous a séparés, injustement séparés.

Alors, papa, et pour la première fois,

Je t’écris, je t’écris tout ce que je t’ai déjà dit,

Pourquoi, je ne sais pas, soulager peut-être mon cœur,

Une inavouée pour demain, peur…

Non, je ne sais pas, mais j’en ai besoin aussi,

Et peu importe comment, partager encore avec toi, ma vie…

Je sais papa, mais je ne sais pas comment faire,

Oui, la vérité, la seule c’est que me manque, tant mon père…

 

Thư gởi bố

Con chạy quanh rong ruổi những kỷ niệm bố để lại cho con

thời thơ ấu, cái thời chưa sống hết trong tình thương của bố

Khi bố đi thì con lớn nhanh.

Thằng bé năm xưa cũng theo bố đi luôn.

Con không bày ra những ảo tưởng,

vì con thích kể bố nghe những giấc mơ tiếp theo những giờ cầu nguyện

và con hy vọng thư đến đúng nơi nhận là bố.

Con không chờ mong bố trở về, con biết không có được.

Nhưng con tin, tin riêng cho con, bố không xa.

Con không bù đắp sự vắng mặt của bố bằng một sự hiện diện tưởng tượng

Nhưng sắp xếp các thứ làm sao chúng không khác xưa.

Con còn khóc, những giọt nước mắt không quên bố;

Hay quá, chúng nói chuyện với bố giỏi hơn con.

Hôm nay nước mắt không xa con vì hôm nay là

ngày cuộc đời đã chia cắt xa lìa chúng ta,

chia cắt bất công, phi lý.

Bố ạ, lần đầu tiên con viết thư cho bố;

không gì mới, ngoài những gì đã kể bố nghe;

để làm gì con cũng không biết nữa:

mà như thể để ruột gan không nặng một món sợ hãi chưa nói ra,

sợ hải cho ngày mai, sợ hãi vì ngày mai.

Thêm việc nữa con không biết làm sao, nhưng con cần,

cho bố thấy cuộc đời của con.

Cũng không biết cách gì chia sẻ được

Trước thực tế duy nhất, chân lý duy nhất:

(ấy là) đời chỉ gồm thiếu vắng

và nhớ thương bố biết mấy cho vừa. (ttt dịch)

 

Letter to Daddy

I’m wandering in the reminiscences you left to me

during my childhood not yet finished under your care.

Once you gone, I grew up so fast,

the lad I was was gone with you too.

I don’t make up any chimera;

I prefer to narrate my dreams mixed up in prayers.

I only expect these would reach the right destination, you.

I don’t long your coming back; I know the impossible

But I believe, secretly in me, that you are not far.

I don’t replace your absence with any fancy presence;

I only straighten up things to keep them unchanged.

I’m still crying, my tears won’t ignore you;

so glad to say they talk to you better than I do.

Today, these tears don’t leave me, they stay with me

Because today is

The day when the life separated us,

Split us wrongfully, unfairly.

Well, Daddy, for the first time, I write to you

I write what I’ve told you up, nothing else.

For what, I fail to realize what for,

but partly as if faintly unburdening my heart

from an undisclosed specteur,

a fear of, and for, the tomorrow.

And this, neither did I recognize why but I need

To share with you my life.

Again, I don’t know to get it done.

Meanwhile, is self-offered to me the bare reality, the unique verity:

the vacuum in mind, populated by my intensely missing you.

(translated by ttt)

====================================================================

Ode ofJoy Beethoven

============================================

 

Thursday, November 4, 2021

Phán xét mới về Nga

Vladimir Bukovsky họp báo 1976 tai Zurich






Phán xét mới về Nga

Secret Files of the Soviet Union

Amy Knight reviewing “Jugement in Moscow, Soviet Crimes and Western Complicity

Vladimir Bukovsky, nhân vật trội yếu trong phong trào phản kháng Nga, đã từ trần ngày 27-10-1919 để lại cuốn sách xuất bản 20 năm trước bằng tiếng Nga, Pháp và Đức nhưng bản tiếng Anh mới xuất hiện gần đây. Đóng góp quan trọng của tác phẩm nầy là chép các tài liệu mật mà tác giả đã chụp hình khi văn khố Nga mới mở cửa tại Moscou; việc chép nầy cũng mang những ý kiến riêng của tác giả, giúp thế giới có cái nhìn hơi khác với cái nhìn hiện hữu về Nga trong thời gian ngắn trước và sau ngày đế quốc đỏ sụp đổ; nhất là vai trò của Gorbachev.

Vladimir Bukovsky (VB) sinh 1942 và lớn lên tại Moscou, luôn tin tưởng mãnh liệt rằng sức mạnh cá nhân là vũ khí quan trọng nhất để chuyển đổi nền chính trị quốc gia. Từ lúc nhỏ, ông đã “trở chứng”, không chịu làm lãnh đạo đoàn thiếu nhi tiền phong ở trường, và bốn năm sau không chịu gia nhập đoàn thiếu niên xung phong. Đầu năm 1963 ở tuổi 20, VB bị bắt vì sao chép các bài chống Liên xô (LX); trước đó hai năm ông đã bị đuổi khỏi đại học khi đang theo ngành sinh học, vì viết văn chống CSQT. Sau khi được “chẩn nghiệm tâm thần” ông phải ở hai năm trong nhà thương điên, loại cơ sở nầy KGB thích dùng thay cho nhà tù cổ điển để giam giữ thành phần chống đối.


Tổng cộng ông đã ở 12 năm trong nhà thương điên, trại lao động, nhà tù trước khi bị trục xuất, tay bị còng cho đến khi phi cơ hạ cánh ở Zurich năm 1976 để trao đổi với việc tha tù cho lãnh tụ CS Chile Luis Corvalan.

VB là một trong những người đầu tiên chủ trương biểu tình công khai, thay vì các hoạt động lén lút bất hợp pháp; ông thường kêu gọi tôn trọng trật tự xã hội. Chiến thuật đối đầu với chính quyền ông dùng là những đạo luật thành văn. Theo hồi ký, ông đã soạn bài tự biện hộ dài một giờ rưởi tại phiên tòa 1976 xử tội biểu tình bất hợp pháp, ông đã trưng dẫn nhiều bộ luật về hình sự tố tụng. Ông lãnh án ba năm lao động cưỡng bách.

VB xứng lời khen tụng đã gây chú ý về việc Nga hà lạm ngành chẩn trị tâm thần để gây khổ não cho dân chúng mà Alexander Solzhenitsyn gọi là gulag thần kinh. Năm 1971 ông đã chuyền lậu đến tay các bác sĩ tâm thần Tây Phương một bức thư kèm bằng chứng cho biết nhiều người bất đồng chánh kiến bị giam trong nhà thương điên. Bức thư công bố trên Times of London đã gây phẩn nộ lớn tiếng trong giới trị liệu tâm thần. Điều nầy đưa đến việc VB bị bắt và năm sau ra tòa về tội mạ lỵ ngành trị liệu tâm thần LX.

Tại hải ngoại VB tiếp tục chống đối chính quyền Nga từ lúc định cư ở Cambridge, Anh Quốc năm 1976. Sau khi Gorbachev được bầu làm thủ lãnh đảng CS Nga năm 1985, VB chú tâm khuyến cáo các chính phủ đừng quá nhiệt tâm, say mê nhà lãnh đạo mới nầy. Gorbachev đưa ra một kế hoạch – được Tây phương ca ngợi – đương đầu với sự suy thoái trầm trọng của nền kinh tế Nga quá bấp bênh, bằng cách khởi xướng chính sách kinh tế tự do giới hạn, tự do phát biểu, bầu cử có nhiều ứng viên ở cấp tỉnh, cấp vùng. Nhưng theo VB, Gorbachev chỉ dùng những chính sách glasnost (đổi mới) và perestroika (chỉnh đốn cơ cấu lãnh đạo) như để xả xì và chận đứng sự thành lập những lực lượng chính trị thực sự độc lập, chứ không phải mở đầu một nền dân chủ đầy đủ vững vàng.

Năm 1991, VB trở về quê nhà sau 15 năm lưu lạc, vào “buổi xế chiều hôm trước” ngày Xô Viết sụp đổ. Ông thất vọng khi khám phá rằng mặc dầu đại đa số dân chúng sẵn sàng xô sập chế độ, giới ưu việt, gọi là các nhà dân chủ lớn lên trong perestroika, không như thế, không sẵn sàng xô sập chế độ. Tại diễn đàn nghị viện Cộng Hòa Nga (tuyên bố tự trị trong Liên Hiệp Nga năm 1990), VB thúc dục đối đầu với chế độ Xô Viết bằng một cuộc tổng đình công, nhưng các dân biểu chỉ muốn thỏa hiệp.

Sau khi Boris Yeltsin dẹp tan cuộc tạo loạn của thành phần bảo thủ vào tháng 8, 1991, VB trở lại Moscou nhằm nghiên cứu tại trung tâm văn khố của đảng CS Nga vừa mở cửa. Nhưng ông thấy các viên chức trách nhiệm không muốn xúc tiến phơi bày các bí mật, từ khi Yeltsin ký quyết nghị tái lập việc bảo mật. VB không được phép xem các tài liệu lưu trữ quan trọng, những thứ liên quan đến đời sống của chính mình. 

Cuối năm ấy, ông gặp cơ hội mới. Ông được mời làm nhân chứng trong vụ án sắp tới xét xử đảng CS Nga tại tòa án hiến pháp mới thành lập. Ông đòi phải được tham khảo các văn kiện lưu trữ mới nhận lời. Nhờ một máy ảnh nhỏ trong lòng bàn tay ông đã chụp hằng ngàn tài liệu mật của đảng CS Nga và KGB. Về sau, ông đã đưa hết lên trang nhà, nhưng chỉ 1/3 đã được dịch qua tiếng Anh. Nội dung tổng quát của cuốn Jugement in Moscow cho thấy chủ tâm của VB là phơi bày những tin tức về việc lạm dụng trị liệu tâm thần mà hành hạ con người. Một tài liệu chụp hình được là tờ trình tháng 12, 1969 của phân khu KGB Krasnodar chuyển tiếp đến Bộ chính trị (BCT) bởi trưởng ngành KGB lúc ấy là Yuri Andropov xác nhận rằng tại vùng Krasnodar có 55.800 bệnh nhân tâm thần, là những tội nhân có ý hướng xấu về chính trị, có hành vi bất hảo như muốn trốn ra ngoại quốc hoặc viết thư mạ lỵ LX.  Ngoài ra khu vực nầy hiện còn từ 11 đến 12 ngàn người cần nhập viện để điều trị tâm thần. Phần trên tờ trình Andropov viết rằng các vùng khác, tình hình đều giống vậy.

VB làm bài tính: Nga gồm chừng 100 đơn vị vùng (quận hạt) lấy đó mà nhân lên thì KGB hiện có hơn một triệu người cần vô nhà thương điên. Như vậy KGB cần thiết lập một gulag tâm thần.

Vì chiến dịch trên thế giới chống hà lạm tâm thần, Andropov hủy bỏ ý định gia tăng số “bệnh nhân” nhập viện. Tuy nhiên việc khủng bố tâm thần vẫn tiếp tục cho đến hết thập niên 1980.

Những tài liệu VB chụp được còn cho thấy tầm mức rộng lớn và chiều sâu của cuộc chiến chính trị đầy tham vọng chống Tây Phương, gọi là các biện pháp năng động, gồm việc hậu thuẩn tích cực cho phong trào CSQT. VB viết: Từ 1969 cho đến ngày sụp đổ, Moscou đã giúp hằng tỷ dollar cho các đảng CS; từ 1979 đến 1989, hơn năm trăm lãnh tụ CS đến Nga tham dự huấn luyện đặc biệt. Nga đã cung cấp vũ khí và trang bị quân sự cho El Salvador và Nicaragua để nuôi dưỡng các tương tranh. Mặt Trận Giải Phóng Palestine đã dùng vũ khí Nga cung cấp trong những vụ khủng bố. Các con số thống kê trong sách cho thấy ngân sách đã bị hút sạch tiền.

Dĩ nhiên Nga không bao giờ bỏ mất cơ hội làm hại HK, kẻ đối nghịch chính. Trong điệp văn tháng 4 1970 gởi Trung Ương, Andropov ghi rõ: vì sự gia tăng chống đối của người da đen tại Mỹ sẽ gây khó khăn cho giai cấp cai trị ở Mỹ và làm cho chính phủ Nixon xao lãng trong chính sách đối ngoại, chúng ta phải thực hiện cho được một số biện pháp giúp đỡ phong trào nầy. Andropov tiếp tục khai triển một kế hoạch rộng lớn tuyên truyền rằng HK thực hiện diệt chủng chống Mỹ da đen. Gần 50 năm sau, Nga lại theo kế hach cũ nầy bằng cách điều khiển một đạo quân hacker trong cơ quan Nghiên Cứu Internet tung ra tin thất thiệt và xúi dục tranh chấp chủng tộc để ảnh hưởng bầu cử tổng thống 2016. Nga xem nhẹ ảnh hưởng của phong trào phản kháng đối với việc cai trị nội địa, nhưng chú tâm đặc biệt đến dư luận quốc tế. Để thành công trong việc quảng bá chủ nghĩa CS, Nga cần giữ bộ mặt cho toàn vẹn đẹp đẽ. VB in lại biên bản buổi thảo luận đầy kịch tính kéo dài nhiều giờ trong BCT về số phận của Solzhenitsyn, khi Tây Phương sắp xuất bản cuốn “Quần Đảo Gulag”.

SolzhenSitsyn
Tổng thư ký Brezhnev nói: “Thằng du côn Solzhenitsyn khoác lác khắp thế giới; chúng ta phải làm gì mà trị nó chơ?” Andropov, sau khi nhấn mạnh rằng ông đã lưu ý mọi người về nhân vật nầy từ năm 1965, đề nghị trục xuất ra nước ngoài. Nhưng những thành phần khác kể cả thủ tướng Kosygin thì chủ trương tống giam: bắt hắn, đưa ra tòa, đày tận Bắc Cực, lạnh lắm không có ký giả nào dám mò tới”. Chủ tịch liên bang là Podgorny thì thất vọng, ông nói: nhiều nước như Tàu chẳng hạn, dân chúng bị xử tử công khai; bọn phát xít Chile nả súng vào đầu dân hay tra tấn; người Anh ở Ái Nhĩ Lan đàn áp giới lao động. Trong lúc ấy chúng ta phải giải quyết thằng nghênh ngang một cách yếu xịu để thiên hạ ném bùn vào mặt.

Nhưng cuối cùng, Andropov thắng. Solzhenitsyn bị trục xuất cuối năm qua Tây Đức, và năm 1976 ông định cư ở Mỹ.

Khác với cố gắng bất thành, chống việc tây phương lên án vi phạm nhân quyền, tuyên truyền Nga chú trọng đến luận điệu giải trừ vũ khí hạch nhân để vận động dư luận quốc tế thuận lợi. Chiến dịch nầy chống kế hạch của Mỹ sẵn sàng sử dụng hỏa tiển đầu đạn nguyên tử Pershing II, đặt các dàn phóng địa không ở Âu Châu. Mục đích là giúp Nga không chạy đua vũ khí quá tốn kém. Trung Ương đảng tháng 5, 1976 đã quyết định xây dựng một nền móng vững chắc để thực hiện kế hoạch tài giảm chạy đua vũ khí. Tài liệu của VB cho thấy hoạt động nầy kéo dài đến 1980, bộ chỉ huy đặt tại Phần Lan tài trợ bởi Quỹ Hòa Bình Xô Viết mà mọi người dân phải đóng góp. Chiến dịch nầy hoạt động thường xuyên, chỉ thay đổi chiến thuật theo tình hình từng lúc. Nga đã vận động thành công, triệu người khắp Âu Châu biểu tình chống việc thiết lập hệ thống hỏa tiển Perching của NATO.

Trong thời gian ấy khủng hoãng Ba Lan năm1980 trở thành một thử thách cho phong trào hòa bình và cho chính ngay sự sống còn của khối LX. Cuối tháng mười năm ấy BCT bàn luận về diễn biến tại quốc gia nầy nơi bất mãn vì kinh tế đã đưa đến các cuộc đình công, thợ thuyền đã chiếm xưởng đóng tàu Gdansk. Brezhnev than phiền: Phản cách mạng đã diễn ra đầy đủ Ba Lan. Sao lại vậy? Bộ trưởng ngoại giao Gromyko lên tiếng: Chúng ta không thể mất Ba Lan. Trong cuộc thư hùng chống Hitler, Liên Xô đã mất 600 ngàn quân để giải phóng Ba Lan, chúng ta không thể cho phép phản cách mạng xẩy ra. Cuộc khủng hoãng trầm trọng hơn vì liên đoàn lao động Solidarity lớn mạnh và đưa ra nhiều đòi hỏi. Lãnh tụ LX càng lo ngại CS Ba Lan không thể đương đầu với tình trạng bất ổn nầy. Andropov trình bộ chính trị rằng thủ tướng Jaruzelski hoàn toàn bó tay trước áp lực của nghiệp đoàn; Kania uống rượu nhiều hơn. Ít hôm sau ông cùng bộ trưởng quốc phòng Ustinov mật đàm với hai lãnh tụ Ba Lan nầy yêu cầu tuyên bố tình trạng khẩn cấp nhưng không đi đến đâu.

Mặc dầu 44 sư đoàn đã chuyển đến biên giới, Brezhnev không có ý định đưa quân vào Ba Lan. Sự hăm dọa nầy như đùa nhưng hiệu nghiệm; Jaruselski tuyên bố quân luật. Nga biết rằng nền kinh tế lụn bại đưa đến bất ổn nhưng không thể thấy qua hành động của nghiệp đoàn Solidarity rằng XHCN không thể đi đôi với thịnh vượng kinh tế. BCT tiếp tục mù quán cho đến khi chế độ sụp đổ từ bên trong.

VB đưa ra một điểm quan trọng là không như Tây Phương nhận định, BCT không chia thành hai phe: bảo thủ cương quyết và tự do, trái lại luôn luôn đoàn kết giải quyết các vấn đề quốc tế và quốc nội. Ông đã chê cười ý nghĩ rằng Andropov và đệ tử ruột Gorbachev thuộc phái tự do chủ trương một cuộc cải cách toàn diện hệ thống cai trị LX.

Gorbachev
Những tài liệu VB trích dẫn hậu thuẩn luận điểm của ông rằng Gorbachev vận dụng cải cách như những biện pháp cấp thiết để duy trì quyền lực của giới lãnh đạo. Trái với nghĩ tưởng của các chuyên gia về Nga, khi hai chính sách perestroika và glasnost ra ngoài sự kiểm soát và cần những biện pháp mạnh, Gorbachev giữ tay lái. Gorbachev được thông tri mọi diễn biến, trên bàn ông có đủ các bản tường trình, từ vấn đề kinh tế mỗi vùng, tình trạng các tổ chức riêng rẻ trong đảng cho đến các biến cố quốc tế. Khi thi hành perestroika để giải quyết khó khăn kinh tế, Gorbachev vẫn chủ trương đè bẹp các bất ổn xẩy ra trong các cộng hòa không thuộc chủng tộc Russia. Ngày 9 tháng tư 1989, quân đội Nga xả súng vào đám người phản đối tại Tbilisi, Georgia giết chết 21 người và làm bị thương nhiều kẻ khác. Hai ngày sau Gorbachev nói với lãnh tụ Đông Đức, Hans Jochen Vogel: Ông đã nghe tin tức về Georgia rồi chứ? Biểu tình phản đối của nhóm chủ trương lật đổ Liên Xô, chúng chạy theo dân chủ, thổi phòng đam mê, đưa ra những khẩu hiệu, chủ trương khiêu khích đến chỗ mời lực lượng quân sự NATO tiến vào lãnh thổ của cộng hòa nầy. Ông hãy giữ dân chúng đâu ở đó, ông phải tích cục chống các mạo hiểm chính trị ấy, ông hãy bảo vệ perestroika tức là cuộc cách mạng của chúng ta”. Vai trò của Gorbachev trong vụ Tbilisi đã được bàn cải trong nhiều năm nhưng lời nói nầy đã đánh đổ lời của chính ông rằng ông không hay biết gì về kế hoạch dùng quân đội chống thường dân hay ít nhất ông không chấp thuận việc tấn công nầy.

Ngày 4 tháng 10 cùng năm sau khi được báo tin ba ngàn người bị giết tháng 6 vừa qua tại Thiên An Môn, Gorbachev nói với BCT rằng: Quý vị phải thực tế, người Tàu tiếp tục, không chịu rời chính quyền, không khác gì chúng ta. Còn ba ngàn há?”. Năm sau ông điều khiển đàn áp Baku; quân Nga ngày 19.01.1990 theo lệnh của ông tiến vào thành phố dẹp cuộc đòi hỏi độc lập khỏi Moscou. Hơn hai ngàn người chết và mấy ngàn bị bắt giữ. VB căn cứ vào nhật ký của thành viên BCT Vadim Medvedev ghi lại việc sửa soạn tuyên bố khẩn cấp và gởi lính đến Baku. Khi Nga đã vữa nát, Gorbachev vẫn xem quân sự là giải pháp chính yếu. Ngày 13.01.1991, quân Nga tấn công người biểu tình Lithuania trước đài truyền hình, 30 thường dân chết. Cố vấn ngoại giao Anatoly Chernayev ghi trong nhật ký hai ngày trước Gorbachev đã điện đàm với Georges Bush hứa sẽ không dùng vũ lực. Ông nầy viết tiếp: Báo chí và truyền thanh trong và ngoài nước thắc mắc Gorbachev có biết và điều khiển vụ nầy hay đã hoàn mất sự kiểm soát. Tôi không quả quyết gì nhưng tin rằng Gorbachev muốn tình hình diễn ra như vậy.VB phát giác mọi tài liệu liên quan cuộc đảo chánh 1991 đã bị tiêu hủy nhưng tác giả nhấn mạnh huyền thoại nhóm bảo thủ và phản động quyết chống Gorbachev; thông tin bóp méo nầy giống như huyền thoại đối nghịch giữa nhóm tự do và bảo thủ.

VB lý luận rằng văn khố cho biết không một cơ quan nào kể cả KGB dám hành động tự ý mà không có sự chấp thuận của Gorbachev. Sự chuẩn bị tình trạng quân luật đã bắt đầu mấy tháng dưới sự lãnh đạo của Gorbachev. Mặc dù có nói đã đổi ý, Gorbachev vẫn chủ định trở lại Moscou nắm quyền nếu kế hoạch thành công.

Dưới con mắt nhà điểm sách, VB chỉ trích quá đáng nữ thủ tướng Anh Margaret Thatcher, Ronald Reagan và Bush. VB cho rằng tây phương, khi ủng hộ Gorbachev và chính sách cải cách, chịu trách nhiệm việc không thể thực hiện cuộc cách mạng dân chủ thực sự tại Liên Xô. Người đọc có thể hỏi VB có chắc rằng hàng trăm triệu người sau bức màn sắt sẽ cùng Tây Phương triệt hạ CS nếu Tây Phương ủng hộ tầng lớp bất đồng chánh kiến thay vì Gorbachev. Phải chăng các cải cách của Gorbachev tuy chưa toàn bích đã đi đúng hướng?

Một nhà phê bình khi đọc Judgment in Moscow đã nhận xét rằng VB không biết hay không nhìn nhận rằng perestroika của Gorbachev đã giảm thiểu tương tranh hạch nhân ở tầm mức đầy ý nghĩa.

Nếu VB cần tìm một người để trách móc, người ấy là Yeltsin, người tác giả đã cho qua hầu có thì giờ chỉ trích Gorbachev. Sau khi đã qua mặt Gorbachev, Yeltsin tái lập mật vụ an ninh thay KGB bị giải tán mùa thu 1991, cho phép hình thành nhóm tư bản “du côn”, giàu có trên sự thiệt hạ của người dân Nga.

Công ty Random House đã mua bản quyền Judgment in Moscow năm 1995 nhưng không ấn hành vì VB phản đối các hiệu đính của bĩnh bút Jason Epstein. Epstein không thích lối hành văn lê thê và lời phê bình các chính khách Mỹ không yêu nước. Mặc dầu hiệu đính nằm trong diễn trình xuất bản, VB cho đó là kiểm duyệt chính trị. Phản ứng nầy dễ hiểu vì VB đã quen với hệ thống pháp luật Nga, bắt buộc phải viết theo nhà cầm quyền.

Các bĩnh bút không đồng ý với VB rằng Tây Phương không thắng Chiến Tranh Lạnh, trái với dư luận đương thời.

Nhưng ngày nay, VB không còn bị chê bai khi ông nhấn mạnh rằng tội phạm trong chế độ CS không bị triệt hạ mà còn hoành hành. Kinh tế gia người Nga Andrei Illarionove 2021 nhận xét rằng: hãy xem những kẻ chiến thắng năm 1991 đã giữ những chức vụ cao cấp, (tổng thống, thủ tướng, chủ tịch thượng hạ viện v…) không có ai không thuộc đảng CS hay KGB.

Nếu Tây Phương thắng Chiến Tranh Lạnh thì vì sao Tây Phương đang đối đầu với một Kremlin hiếu chiến, can thiệp vào bầu cử các nước và lập lại kho vũ khí hạch nhân. Vì sao Nga đàn áp bắt bớ truy tố những người biểu tình ôn hòa?

VB trước đây đã thúc dục Yeltsin trừng trị tội phạm CS như kiểu tòa Nuremberg, nay hoàn hoàn tuyệt vọng. Nga bây giờ là một màn bi hài kịch, những thủ lãnh hàng thứ hai trong cấp đảng cũ, các tướng lãnh trong KGB đang điều khiển những nhà dân chủ và những vị cứu  Nga thoát khỏi CS; cuộc sống của họ vô nghĩa, những hy sinh của họ không ai công nhận.

Không ngạc nhiên khi VB chỉ trích mạnh mẽ Putin. Năm 2008, theo đề nghị của giới dân chủ, ông tranh cử chức vụ tổng thống nhưng bị từ chối, ông không ở đủ 10 năm trước ngày bầu cử.

Từ khi chính quyền Nga không tái tục chiếu khán thẻ thông hành năm 2014, VB không bao giờ trở về quê cũ. Có lẽ VB vẫn mang trong tim hy vọng đồng hương sẽ thách thức phản kháng chế độ Putin như ông đã làm thời son trẻ một kẻ phản kháng trong hòa bình. Nghe tin VB chết nhà báo Ukraine Matvey Gnapolsky đã chia buồn như sau. “Ông không thể chờ ngày Putin ra đi. Nhưng nhiều kẻ khác sẽ chứng kiến giúp và nhớ đến Vladimir Bukovsky”.----

Xin đọc thêm cùng blog nầy: Gorbachev cầm vàng lội sang sông



 










Xuất xứ: Jugement in Moscow 


''

Thursday, October 28, 2021

Đại Sứ Bùi Diễm qua đời

 


Đại Sứ Bùi Diễm qua đời

Tôn Tht Tu

Cái bậy của tôi trong đời là không "đeo" những người tốt. Ví dụ tôi đã không “đeo’” anh Bùi Diễm.

Không đi nhận nhiệm sở ở Phước Long, chỗ xấu nhất vì ra trường hạng chót, nên tôi không có lương. Tôi đã đến Phủ Thủ Tướng yêu cầu bổ nhiệm tôi chỗ khác nhanh nhất cho có tiền ăn. Tôi gặp anh Bùi Diễm trong phòng đại tá Dương Hồng Tuân, đổng lý văn phòng. Anh Bùi Diễm thấy vậy, móc túi đưa tôi một ít tiền. Ông Tuân làm theo, tôi không nhận vì tôi không quen.

Nhưng quan trọng nhất với tôi là nhờ anh BD mà tôi khá tiếng Anh. Chúng tôi gặp nhau trong một buổi tiếp tân ngoại giao khi Saigon còn sôi động vì cuộc đảo chánh 1963. Tôi nói đùa xin anh cho tôi tờ The Saigon Post nhé; Anh ừ, tôi nghĩ là ừ cho qua chuyện. Nhưng từ hôm sau, mỗi sáng có người đưa tận ký túc xá cho tôi một tờ Saigon Post, đóng dấu báo biếu (complimentary copy). Lúc ấy mua một tờ tiếng Anh hình như gấp sáu bảy lần báo Việt Ngữ. Thời ấy còn có thêm The Saigon Daily News của ông Tôn Thất Thiện, chưa làm bộ trưởng thông tin. Saigon có thêm tờ "Reo" (jeo, Journal d'Extrême Orient) đã thu mình từ một tờ báo hàng đầu tiếng Pháp thành một tờ báo chỉ in lại các tin của VN Press.

Bậy quá, nếu tôi đeo có lẽ anh đã cho tôi làm tham vụ ngoại giao ở Washington, biết ăn McDonald trước nhiều người.

Ông Bùi Diễm Cựu Đại Sứ VNCH ở Mỹ (1967-1972) đã qua đời ngày 24 Oct 2021 tại vùng thủ đô HK, hưởng thọ 99 tuổi. Ông là chủ nhiệm The Saigon Post, nhật báo Anh ngữ (1954 - 1966). Ông đã thành lập hãng phim Tân Việt đã sản xuất các phim Chúng Tôi Muốn Sống, Hồi Chuông Thiên Mụ, Thiếu Phụ Nam Xương. "Chúng tôi muốn sống" dựng trên bối cảnh cuộc di cư 1954. Hồi Chuông Thiên Mụ đã giúp Kiều Chinh có nhãn hiệu minh tinh và Lê Quỳnh đã nổi danh từ phim nầy, không cần nhờ tiếng hát của vợ là Thái Thanh, sang đổi vợ.

Trong đời sống bình thường ông Bùi Diễm là người hiền hòa, dễ mến, rộng rãi. Nhà văn Ninh Hạ cũng nhận xét như vậy vì đã cùng dạy tại trường Phan Sao Nam, chung với các ông Bùi Diễm và Lữ Hồ (Lữ Hồ và Ninh Hạ anh em ruột). Ông hút ông dố (pipe) như Lữ Hồ.

Chúng tôi không biết quan điểm chính trị và hành động chính trị của nhà ngoại giao và nhà báo nầy từ 1975 đến mãn đời.

Hết sức ngậm ngùi, biết nói gì đây!

Nghe tin anh qua đời, tôi vẫn nghĩ anh chẳng đi đâu, vì có trụ vào đâu mà nói đi hay ở; tôi chỉ nói anh nhẹ bỗng thinh không, như trong ý thơ của Rumi, hoàn toàn giải thoát khỏi những ý niệm sai lầm của bản thể luận. Nến anh có vào một cảnh giới khác thì cảnh giới nầy và cảnh giới trần gian móc chung với một thực thể duy nhất, nhờ cái "huyền đồng", cải bản lề, của Lão Tử. 

Je ne suis de l‘Est ni de l'Ouest

ni de la mer ni de la terre

je ne suis matériel ni éthéré

ni composé d’éléments.

Je n’existe pas.

je ne suis une part ni de ce monde ni d’autre

je ne descends ni d’Adame ni d’Eve

ni d’aucune origine.

Ma place n’a pas de place

une trace de ce qui n’a pas de trace

ni corps ni âme.

J’appartiens au Bien Aimé

j’ai vu les deux mondes réunis en une seul

le premier, le dernier, celui du dehors celui de dedans,

simples comme le souffle d’un homme qui respire.

Rumi, Mathnawi, Book One

Tôi chẳng từ phương đông mà đến,

chẳng từ phương tây mà đến.

Chẳng từ biển hay đất liền.

Tôi không phải chất đặc hay chất hơi

Chẳng phải do nhiều thứ ghép lại mà thành.

Tôi không hiện hữu

Tôi không thuộc thế giới nầy hay thế giới khác.

Tôi không phải là hậu sinh của Adam và Eva,

Cũng không thuộc một nguồn gốc chủng tộc nào.

Chốn tôi ở không có gì là nơi chốn

Mà chỉ là một dấu tích của một thứ gì không dấu tích

Không thể xác, không linh hồn.

Tôi thuộc về Đấng Thương Quí

Tôi đã thấy hai thế giới hợp nhất là một,

cái đầu, cái cuối; cái trong, cái ngoài

đơn giản như hơi thở của một người đang thở.

Xin ”hầu” anh bài thơ nầy và thay vì cổ bồn như Trang Tử xin mượn một chút của Sebastian Bach:   ♪♪♪  Air J.S. Bach

=====================================================================

Bình dân trí thức đều đọc The Saigon Post
==================================================

Wednesday, October 27, 2021

ngã tư Bảy Hiền


chép sử từ Ngã Tư Bảy Hiền

thuongcangthuquan

Ngã tư Bảy Hiền là cửa ngõ phía tây-bắc của Sài Gòn từ thời xa xưa. Từ Sài Gòn phải đi qua ngã tư Bảy Hiền mới đi được Củ Chi, Hậu Nghĩa, Tây Ninh và xa hơn là thủ đô Phnom Penh của Kampuchia. Trước năm 1975 quân hay dân muốn đi Phnom Penh tất tất phải đi qua ngã tư Bảy Hiền.

Với vị trí khá đặc biệt như cách khu Lăng Cha Cả (cửa chính của Phi trường Quân sự Tân Sơn Nhứt và cửa chính của Bộ Tổng Tham Mưu Quân đội VNCH) chỉ chưa đầy hai cây số về hướng bắc, cách cổng trại Hoàng Hoa Thám của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù chưa đầy một cây số về hướng tây, đi về trung tâm Sài Gòn hướng đông (chợ Bến Thành) và trung tâm Chợ Lớn ở hướng nam chưa đầy sáu cây số… thì về mặt chiến lược trong các năm chiến tranh 1954-1975, ngã tư Bảy Hiền mới thực sự là một vị trí đía lý trọng yếu mà các bên tham chiến đều đặc biệt quan tâm so với các cửa ngõ khác của Sài Gòn.

Từ ngã tư Bảy Hiền theo đường Võ Tánh  để đi về Lăng Cha Cả, theo đường Nguyễn văn Thoại để đi về Chợ Lớn. Trục Tây Bắc – Đông Nam là đường Lê Văn Duyệt nối thẳng về trung tâm Sài Gòn sau khi đi qua Ông Tạ, Hòa Hưng, Công trường Dân Chủ.

Phân bố dân cư trong các năm 1954-1975 khá đặc biệt. Khu vực mặt tiền dọc theo đường Lê Văn Duyệt là người Bắc TCG giáo di cư. Họ sống dài dài từ Tân Việt xuống Bảy Hiền, Ông Tạ, Hòa Hưng… lan qua khu Lăng Cha Cả.

nghĩa trang của Pháp gẩn ngã tư Bãy Hiền

Khu người miền Trung chạy loạn vào Sài Gòn cùng với người nam theo Phật giáo bắc tông hay nam tông thường nằm khu phía trong có các hẽm chằng chịt. Đây là các vùng thường có các cơ sở VC nằm vùng trước năm 1975. Khu dệt Bảy Hiền là khu căn cứ VC nội thành trước năm 1975.

Các cơ sở của Quân đội VNCH nhằm phục vụ chiến tranh tại khu vực ngã tư Bảy Hiền được bố trí khá chằng chịt trong thời gian 1954-1975. Dọc đường Võ Tánh từ Bảy Hiền lên Lăng Cha Cả có bót cảnh sát thường và trại cảnh sát dã chiến, có đài phát thanh quân đội Hàn Quốc. Có khu vực phòng thủ không quân Mã Tây, có cổng trại Phi Long (có lăng mộ của Cha Cả) và cổng chính Bộ Tổng Tham Mưu.

Từ Bảy Hiền lên Chợ Lớn theo đường Nguyễn Văn Thoại về phía tay phải là các cơ sở hậu cần và giải trí cho quân đội Mỹ như hãng thầu quân đội RMK, hãng thầu Pacific, cơ sở sửa chữa container của hãng tàu biển SeaLand… Phía tay trái là trại lính yểm trợ cho Sư Đoàn Nhảy Dù, khu trung tâm truyền tin quân sự.

Bảy  Hiền 1972
Các năm 1965-1972 khu vực đường Nguyễn văn Thoại, sát ngã tư Bảy Hiền là khu đèn đỏ của quân đội Mỹ với các snack-bars, khách sạn, vũ trường… đèn sáng, nhạc xập xình suốt ngày đêm. Các cha, các thầy dạy học luôn dặn dò học sinh không được bén mảng qua khu vực ấy.

Một địa điểm mà chúng tôi muốn nêu lên trong bài này là trường Đắc Lộ. Từ nơi này trong một khoảng đời dài tuổi ấu thơ còn đi học chúng tôi đã chứng kiến những sự kiện xảy ra với ngã tư Bảy Hiền. Trèo tường ngồi vắt vẻo để xem lính nhảy dù ra trận, xem biểu tình, xem mật vụ rượt Việt Cộng nằm vùng… là chương trình liveshow thường xuyên của mấy ông học trò, mấy ông tu sinh Đắc Lộ học ít, cúp cua nhiều. Mấy chục năm sau ngồi uống cà phê tán dóc, những liveshow ấy được thêm muối, ớt, đường, bột ngọt… thành “ký ức những ngày thơ”. Những sử “da” cà phê tán láo như chúng tôi bây giờ đã sáu bảy mươi tuổi, có ông bị Alzheimer, nên sử liệu bị xáo trộn là điều chắc chắn.

Nhà thờ và tu hội Đắc Lộ được sáng lập năm 1957 do cha Giuse Vũ Khánh Tường (1925-1980) sau khi ông học từ Pháp trở về. Cha Tường có thời gian làm hiệu trưởng Trung học Nguyễn Bá Tòng trước khi tách ra riêng. Tu hội Đắc Lộ nằm tại số 31, ấp Tân Hiệp, xã Tân Sơn Nhì, Tân Bình, Gia Định.

Trước năm 1975, hoạt động chính của tu hội Đắc Lộ là mở trường dạy học có tên là trường tư thục Đắc Lộ.

Trường nằm trên con đường huyết mạch nối Sài Gòn với Củ Chi, Hậu Nghĩa, Tây Ninh và Kampuchia, lại kế bên căn cứ không quân Tân Sơn Nhứt và đối diện bộ chỉ huy sư đoàn nhảy dù của quân đội VNCH trước năm 1975… nên không biết may mắn hay bất hạnh những người sáng lập Đắc Lộ và những tu sinh, học sinh của trường (các sử “da”) đã chứng kiến hàng loạt các sự kiện quan trọng của Sài Gòn trong suốt thời gian khói lửa 1954-1975.

trại Hoàng Hoa Thám
Có lẽ ngẫu nhiên mà chứng kiến là vì những sự kiện quan trọng của Sài Gòn 1954-1975 luôn có sự tham gia của lính Sư đoàn Nhảy Dù đóng tại trại Hoàng Hoa Thám (đối diện nhà thờ Đắc Lộ). Đây là một đơn vị tổng trừ bị được trang bị đầy đủ nhất của quân đội VNCH, luôn có mặt trong những biến cố chính trị hay quân sự quan trọng của miền nam trước năm 1975.

Bảy Hiền cũng là nơi có đối kháng lương-giáo khá cao, một bên ủng hộ chế độ VNCH (người TCG di cư), một bên chống lại (người trung nhập cư). Bảy Hiền chứng kiến những thương vong dữ dội trong chiến tranh trong các năm 1966, 1967, 1968, 1970, 1971, 1972, 1975… qua những xe chở quan tài xuất phát từ cổng trại lính Hoàng Hoa Thám.

ngã tư Bảy Hiền 1972
Những ghi chú này không mang tính lịch sử, chính trị… gì hết. Viết ra để ghi nhớ lại gần hai mươi năm những đứa trẻ sử “da” như chúng tôi đã chứng kiến hay nghe các cha, các thầy, các bạn kể lại… theo kiểu nhớ đâu, kể đó.

(1)- Cuộc tảo thanh lính Bình Xuyên của Bảy Viễn khi ông Diệm mới về nước chấp chính được lính dù hậu thuẫn mạnh với các sĩ quan nhảy dù thời ấy như Nguyễn Khánh, Nguyễn Chánh Thi, Đỗ Cao Trí, Cao văn Viên.

(2)- Hai cuộc đảo chính ông Ngô Đình Diệm năm 1960 và 1963 đều có lính nhảy dù tham gia như một thành phần chủ chốt của quân đảo chính. Lính nhảy dù thường xuất phát từ cổng trại Hoàng Hoa Thám theo đường Lê văn Duyệt đi lên ngã tư Bảy Hiền, Hòa Hưng… vườn Tao Đàn và vào dinh Độc Lập.

(3)- Những biến động chống chính phủ của Phật giáo 1963-1967 thường xuất phát từ khu dệt Bảy Hiền (một thành phần ủng hộ phong trào Phật giáo miền Trung). Khu vực tụ tập biểu tình dữ dội thường là ngã tư Bảy Hiền kéo dài tới cây xăng đôi. Đàn áp phong trào Phật giáo miền Trung tại Huế và Đà Nẵng năm 1966 cũng do lính Sư đoàn Dù không vận từ Sài Gòn ra thực hiện.

(4)- Cũng năm 1963-1967 những cuộc biểu dương lực lượng ủng hộ chính phủ của người TCG di cư thường xuất phát từ khu vực nhà thờ Tân Việt, đi dần lên Bảy Hiền, Ông Tạ, Lăng Cha Cả… để đối kháng với phong trào ủng hộ Phật giáo miền Trung. Thường các người tham gia tập trung tại nhà thờ Tân Việt đi qua ngã tư Bảy Hiền, Lăng Cha Cả… kéo đến trước Bộ Tổng Tham Mưu. 

(5)- Mậu Thân đợt một và đợt hai tấn công vào phi truờng Tân Sơn Nhứt và Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù. Đợt hai kéo dài cả tuần lễ rất ác liệt tại ngã tư Bảy Hiền, nhà thờ Đắc Lộ, chợ Bảy Hiền. VC tham gia trận đánh lớn này đa số kéo từ Long An lên. Tướng Lưu Kim Cương chỉ huy phi trường Tân Sơn Nhứt bị bắn chết tại vòng rào khu Mã Tây.

Hai tác phẩm văn học nghệ thuật lớn phản ánh những trận đánh tại khu vực này năm Mậu Thân là “Dáng đứng Việt nam” của nhà thơ Lê Anh Xuân và “Cho một người năm xuống” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.

(6)- Trận Hạ Lào (Lam Sơn 719). Lính Sư đoàn Nhảy Dù thiệt hại nặng nhất so với các binh chủng khác của quân đội VNCH.

(7)- Mùa hè đỏ lửa năm 1972 do tham chiến cả hai mặt trận An Lộc (Bình Long) và Quảng Trị, Sư đoàn Nhảy Dù coi như bị tiêu hao nặng. Số binh sĩ và hạ sĩ quan Sư đoàn Nhảy Dù sống tại khu Bảy Hiền, Ông Tạ, Hòa Hưng… rất nhiều, nên mùa hè năm 1972 là một năm tang tóc với người TCG ở đây, gần như nhà nào cũng có tang.

(8)- Bảy Hiền chứng kiến trận đánh cuối cùng của cuộc chiến tranh 1954-1975 tại cổng Hoàng Hoa Thám vào lúc 18:00 giờ chiều ngày 30/04/1975. Ngày 30/04/1975 cũng là ngày Sư đoàn Nhảy Dù tan rã. Tướng Lê Quang Lưỡng (Tư lệnh Sư đoàn) chỉ mang được vài trăm binh sĩ dưới quyền ra Đệ thất Hạm đội Hoa Kỳ từ ngõ Vũng Tàu di tản sang Philippines rồi sau đó qua Mỹ.

Các sử “da” tán thêm rằng: Trong sự sụp đổ chóng vánh của quân đội và chế độ VNCH có trách nhiệm lớn lao của lính nhảy dù.

Tính tới đầu năm 1975 các tướng lĩnh nhảy dù nắm hết quyền lực của quân đội VNCH. Tổng tham mưu trưởng là Cao Văn Viên, tư lệnh các quân đoàn 1,2,3,4 là tướng Ngô Quang Trưởng (khu 1), tướng Phạm văn Phú (khu 2), tướng Dư Quốc Đống (khu 3), tướng Nguyễn Khoa Nam (khu 4). Sau khi thất thủ Phước Long đầu năm 1975, tướng Đống (nguyên Tư lệnh Sư đoàn Dù) mới chịu về hưu. Các ông Viên, Trưởng, Phú, Đống, Khoa Nam đều là sĩ quan cao cấp của Sư Đoàn Nhảy Dù trước đây.

Lính nhảy dù thiện chiến, tinh nhuệ… nhưng chỉ tác chiến giỏi khi có đầy đủ vũ khí và hậu cần yểm trợ. Năm 1973 khi người Mỹ rút quân, các yểm trợ từ phi cơ, pháo binh, hậu cần cho lính nhảy dù giảm hẵn… cũng là lúc lực lượng này suy thoái nhanh chóng, hiệu quả tác chiến không còn cao. Tướng Lê Quang Lưỡng có lần than rằng: Quân tôi đã yếu và ít, xẻ ra khắp các nơi, chúng tôi đánh đấm làm sao được?

Khi về nắm các chức vụ chỉ huy cao cấp trong quân đội VNCH, cách tác chiến chính quy kiểu lính nhảy dù với đầy đủ vũ khí và hậu cần như trước không còn, các tướng lĩnh xuất thân từ Sư Đoàn Nhảy Dù ra mệnh lệnh chỉ huy cho các đơn vị bộ binh khác không còn hiệu quả được nữa… việc thất bại chóng vánh là đương nhiên.

Với lại vào hai tháng cuối của chiến tranh 1954-1975 hỏa lực của phía Hà Nội  vượt trội, trong khi rất nhiều đơn vị quân đội VNCH không còn tiếp liệu chiến đấu, kể cả đạn nhỏ để tự vệ.

Bốn mươi năm rồi… chuyện chỉ có vậy. Xin đừng ném đá. Hết cà phê rồi, về nấu cơm trưa kẻo vợ mắng cho! Ngày 12 tháng 03 năm 2015. 


không ảnh ngã tư Bảy Hiền

=================================================================================