add this

Saturday, June 23, 2018

tem thư VNCH 1951-75



B Sưu Tp Tem
 Vit Nam Cng Hòa
1951-1975
*****
1951 - "Thống Nhất Quốc Gia". nhà in: Hélio-Vaugirad Paris




Hoàng-Hậu Nam Phương  Phát hành (PH) 15.8.1952

nhà in: Hélio - Vaugirad Paris.




Liên Hiệp Viễn Thông Quốc Tế.  P/H 24.8. 952. 
Nhà in Thomas de la Rue Londres




Liên Hiệp Bưu Chính Quốc Tế . PH 12-9-1952. 
Nhà in Thomas de la Rue Londres




Giúp Thương Binh. PH 21-12-1952. 
Nhà in Thomas de la Rue Londres




Hồng Thập Tự Việt Nam; PH10-11-1952. 
Nhà in Hélio - Vaugirad Paris




Vạn Thọ Nhâm Thìn (Bảo Đại, Văn Miếu Hà Nội), 
PH 11-10-1952. Nhà in Thomas de la Rue Londres




Thái Tử Bảo Long, PH 15-6-1954.
Nhà in tem thơ, Đại lộ Brune Paris.



Con Quy và sách Lạc Thư  PH 20.7.1955 
(Nhân dịp Triển lãm đệ nhất chu niên Chính phủ Ngô Đình Diệm).  
Nhà in tem thơ, Đại lộ Brune Paris




Di Cư. PH 11-10-1955




Bưu Điện Sài Gòn. PH 1-10-1956
Nhà in: American Bank Note Company (Hoa Kỳ).




Tổng Thống Ngô Đình Diệm
(Khai mạc Quốc Hội lập pháp đầu tiên)




Bưu Điện Sài Gòn (Có dấu đè). Ngày  6-8-1956




Di Cư  PH 6.8.1955 (gạch chữ Chiến Dịch Huynh Đệ tại nhà in Imprimerie Francaise d'Outremer Sài Gòn).
Họa sĩ: Trần Kim Hùng
Nhà in tem thơ Đại lộ Brune Paris




Cộng Hòa Việt Nam  PH 26-10-1956. (Kỷ niệm Đệ nhất Chu niên CHVN)  "Khóm trúc" trích trong bức tranh "Viêm Uy Kinh Tiết"
Nhà in: Bộ tài chánh Nhật Đông Kinh.



Công Tác Huynh Đệ. P/h 7-11-1956. (Nhân dịp Đại Hội Quốc Tế Thanh-Thương-Hội họp tại Wellington, Tân Tây Lan.
Nhà in Bộ Tài Chánh Nhật Bản Đông Kinh.


Cao Nguyên; PH
Nhà in: Nhà in Bộ Tài Chánh Nhật Đông Kinh

Hội nghị Kế Hoạch Colombo; PH 21.10.1957 
(ngày khai mạc hội nghị cấp bộ trưởng tại Saigon).
Nhà in Bộ Tài Chánh Nhật.




Quốc Hội Việt Nam  PH 26-10-1957 

(kỷ niệm Đệ nhị Chu niên CHVN)
Nhà in Gieseeke and Devrient, Munich Tây Đức.




Cải Tiến Dân Sinh; PH 7-7-1958
Họa sĩ: Nguyễn Minh Hoàng
Nhà in Thomas De La Rue Londres




Tết Nhi Đồng (Girl and Lantern). PH 27-9-1958
Họa sĩ: Vũ thị Nga
Nhà in: Thomas De La Rue Londres



Đề Cao Nhân Vị. PH 26-10-1958.
Họa sĩ: Vinh Phôi (Vĩnh Phối?)
Nhà in: Thomas De La Rue Londres




Viện Bảo Tàng Sài Gòn. PH 16-2-1959.




Kỷ Niệm Hai Bà Trưng. P/H 14-3-1959.
Họa sĩ: Nguyễn Gia Trí
Nhà in: Nhà in Thomas De La Rue londres.




Đệ Thập Chu Niên Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền 

(1948-1958). PH 10-12-1958.




Tháp Thiên Mụ Huế. PH 15-5-1959.
(



Khánh Thành Trụ Sở UNESCO tại Paris. P/h 26-10-1958
Họa sĩ: Nguyễn Chí Hùng
Nhà in tem thơ Đại Lộ Brune Paris.




Cải Cách Địa Điền PH 7-7-1959
Họa sĩ: Lâm Văn Bê
Nhà in: Nhà in tem thơ Đại Lộ Brune Paris.




Hỏa Xa Xuyên Việt ‘Sài Gòn - Đông Hà’  PH 7-8-1959. 

(Ngày Khánh Thành đường xe lửa Xuyên Việt Sài Gòn – Đông Hà)
Tên họa sĩ: Huỳnh Văn Phụng
Nhà in: Nhà in tem thơ, Đại Lộ Brune Paris.




Nhà Thờ Phú Cam Huế . P/h 25-12-1958.
Nhà in: Thomas De La Rue Londres




Dinh Độc Lập Sài Gòn. P/h 7-9-1959. (Nhân dịp Đệ Ngũ Chu Niên ngày thu hồi Dinh Độc Lập)
Nhà in: Nhà in Thomas De La Rue Londres.



Phát Triển Cộng Đồng (. P/h 26-10-1959.
Họa sĩ: Nguyễn Minh Hoàng
Nhà in tem thơ, Đại Lộ Brune Paris.



Họp Bạn Hướng Đạo Toàn Quốc. P/h 25-12-1959. (họp bạn Hướng Đạo toán quốc tại Quốc Gia Lâm Viên Trảng-Bom, Biên Hòa)
Họa sĩ: Thái Văn Ngôn
Nhà in tem thơ, đại Lộ Brune Paris. 




Kỷ Niệm Đệ Nhất Chu Niên Ban Hành Luật Gia Đình;. PH 21-1-1960.
Họa sĩ: Thái Nguyên Bá
Nhà in tem thơ, Đại Lộ Brune Paris.




Năm Thế Giới Giúp Người Tị Nạn (
Họa sĩ: Nguyễn Minh Hoàng
Nhà in tem thơ, Đại Lộ Brune Paris.




Hồng Thập Tự (Henri Dunant sáng lập viên)). PH 8-5-1960.
Họa sĩ: Vũ Thị Ngà
Nhà in tem thơ, Đại Lộ Brune Paris.
Lối in: Chạm nổi.




Khu Trù Mật. PH 7-7-1960
Họa sĩ: Trần Xuân Vinh 
Nhà in tem thơ Đại Lộ Brune Paris.




Đệ Ngũ Chu Niên Cộng Hòa Việt Nam.;
Họa sĩ: Shen Yung Ling (Taipel-Taiwan). 
Nhà in tem thơ, Đại Lộ Brune Paris.\




Bài Lao Việt Nam; PH 01.08.1960( Ngày Bài Lao quốc gia)




Hội Nghị Địa Phương Lương Nông Quốc Tế -FAO. P/h 21-11-1960. (tại Saigon từ 21 đến 30.11.1960); 
họa sĩ Nguyễn Minh Hoàng.
Nhà in tem thơ, Đại Lộ Brune Paris.




Hàng không bưu chính" PH 20.12.1960



Hoạt động dinh điền; PH 03.01.1961



Bảo vệ nhi đồng; PH 23.03.1961




Nhiệm kỳ II tổng thống và phó tổng thống; 29.04.1961




Thanh niên; 07.07.1961 



Xa lộ Saigon - Biên Hòa; PH 28.07.1961




Alexandre de Rhodes; PH 05.09.1961





Chấn hưng đạo đức thanh niên; PH 26.10.1961





Kỷ niệm năm thứ 15 thành lập UNESCO; PH 04.11.1961





Ngày 11/12/1961 phát hành bộ tem "Cải tiến nông thôn"
(thất lạc)

Diệt trừ sốt rét; PH 07.04.1962




Khánh thành sở Bưu-Chi-Phiếu Saigon; PH 15.05.1962





Đức mẹ La - Vang; PH 07.07.1962





Ấp chiến lược; PH 26.10.1962 





Thác Gougah; PH 03.01.1963





Công trường Mê Linh; PH 01.03.1963





Chiến dịch thế giới chống nạn đói; PH 21.03.1963




Toàn dân bảo vệ non sông; PH 07.07.1963





Chiến sĩ cộng hòa; PH 26.10.1963





Đệ bách chu niên hồng thập tự quốc tế; PH 17.11.1963





15 năm tuyên ngôn quốc tế nhân quyền; PH 10.12.1963





Hệ thống thủy điện Danhim; PH 15.01.1964




Nguyên tử lực phụng sự hòa bình; PH 03.02.1964





Ngày khí tượng quốc tế; PH 23.03.1964





Thống Nhất; PH 20.07.1964 





Bãi biển Hà Tiên; PH 06.09.1964




Kỷ niệm ngày Cách mạng 01/11/1963"; PH 01.11.1964






Danh lam thắng cảnh; PH 02.12.1964





Kỷ niệm Hùng Vương; PH 11.04.1965 





Phật giáo; PH 15.06.1965






Đệ bách chu niên U.I.T.; PH 17.05.1965





Năm hợp tác quốc tế; PH 26.06.1965





Tem thơ các loại hoa; PH 10.09.1965





Tem thơ đại học Việt Nam; PH 15.10.1965





Thanh - Thiếu - Nông 4-T; PH 25.11.1965





Thể dục và thể thao; PH 14.12.1965 








Đài VIBA - SAIGON; PH 24.04.1966





Viện trợ của thế giới tự do cho Việt Nam; PH 22.06.1966 






Cứu trợ đồng bào tỵ nạn Cộng sản; PH 20.07.1966






Tết Trung Nguyên; PH 30.08.1966






Âm nhạc cổ điển; PH 28.09.1966 







Tân trụ sở tổ chức y tế quốc tế; PH 12.10.1966






Việt Nam đấu tranh và xây dựng; PH 01.11.1966 





Đệ nhị thập chu niên UNESCO; PH 15.12.1966






Các loại trái cây; PH 2.01.1967





Chí sĩ tiền bối; PH 24.03.1967





Đời sống dân chúng; PH 01.05.1967





Ngày 22/07/1967 phát hành bộ tem "Tiểu công nghệ Việt Nam"




Ngày 18/09/1967 phát hành bộ tem "Đám cưới Việt Nam"





Ngày 27/10/1967 phát hành bộ tem "Viện văn hoá"





Xây dựng dân chủ; PH 01.11.1967 






Ngày 05/12/1967 phát hành bộ tem “Lions International” (Kỷ niệm Đệ ngũ thập chu niên Hiệp hội Lions quốc tế)






Ngày 10/12/1967 phát hành bộ tem “Ngày quốc tế chống nạn mù chữ”





Ngày 15/12/1967 là ngày Lễ xuất phát Bưu cục lưu động và sử dụng máy bán tem trong chiến dịch Bưu điện phục vụ dân chúng




Ngày 26/01/1968 phát hành bộ tem “Xây dựng nông thôn”





Đệ nhị thập chu niên tổ chức Y tế Quốc tế; PH 07.04.1968





Phát huy tinh thần thân hữu với đồng minh; PH 22.06.1968






Các loại bướm”; PH 20.08.1968





Ngày 01/11/1968 phát hành bộ tem “Hữu sản hóa công nhân và nông dân”





Năm quốc tế nhân quyền; PH 10.12.1968 






Ngày 11/12/1968 phát hành bộ tem “Cơ quan cứu trợ nhi đồng Liên hiệp quốc”






Tái thiết đường sắt xuyên Việt; PH 15.12.1968






Phụ nữ Việt nam; PH 23.03.1969 




Chiến dịch chiêu hồi; PH 01.06.1969 







Ngày 09/06/1969 phát hành bộ tem “Dân chủ và pháp trị”







Ngày 10/07/1969 phát hành bộ tem “Bưu chục lưu động đầu tiên”




Dân tộc thiểu số Việt Nam; PH 29.08.1969







Tổng động viên; PH 20.09.1969








Đệ ngũ thập chu niên Tổ chức Lao động Quốc tế; PH 29.10.1969







Lăng Minh Mạng; PH 02.01.1970




Các loại chim; gồm 04 mẫu (tem dị hình hình tam giác).







Nạn nhân biến cố tết Mậu Thân; 31.10.1970







Y phục cổ truyền Việt Nam; PH 13.03.1970



Luật người cày có ruộng; PH 26.03.1970





Tái thiết cố đô Huế; PH 10.06.1970







Người cày có ruộng; PH 29.08.1970





Tái thiết khu gia cư; PH 15.09.1974




Năm năng suất Á châu; PH 03...1970 






Thi sĩ Việt Nam: Nguyễn Đình Chiểu";PH 16.11.1970






Năm quốc tế giáo dục 1970; PH 
30/11/1970 




Hội nghị hội đồng liên hiệp nghị sĩ Á châu kỳ 9; PH 08.12.1970





 “Đại hội đồng liên hiệp nghị sĩ Á châu kỳ 6”; PH 09.12.1970




Vũ điệu dân tộc Việt Nam PH 12.01.1971





Kỷ niệm đệ nhất chu niên ngày ban hành luật người cày có ruộng; PH 26.ỏ.1971






Người phu trạm thuở xưa; PH 06.06.1971







 Ngày quân lực; PH 19.06.1971








Thú rừng Việt Nam PH 20.08.1971






Mùa gặt; PH 28.09.1971






Tân trụ sở liên hiệp bưu chính quốc tế; PH 09.10.1971





Các loại cá; PH 16.11.1971 





Phát triển bưu chính nông thôn; PH 20.12.1971






Phát triển ngư nghiệp; PH 10.01.1972







Vua Quang Trung; PH 28.01.1972 







Cộng đồng phát triển; PH 04.02.1972






Ngày nông dân Việt Nam PH 26.03.1972 







20 năm phát triển hàng không Việt Nam 1951-1971; 
PH 18.04.1972 











Cụ đồ nho; PH 05.05.1972 







Ngày 15/06/1972 phát hành bộ tem "Nhân dân tự vệ"





Công khố phiếu; PH 10.07.1972 






Lính thú đời xưa; PH 14.08.1972 






Người thương binh; PH 01.09.1972 






Mùa gặt; ph 10.1.1972


Bình Long anh dũng; ph 25.11.1972







Năm quốc tế phát triển sách; ph 30.11.1972 







Kỷ niệm người hồi chánh thứ 200.000; ph 18.02.1972






Chiến thắng Quảng Trị; ph 24.02.1973








Bì thư kỷ niệm ngày Phụ nữ Việt Nam 10/03/1973




"Ngày khí tượng thế giới; ph 23.03.1973




Ngày nông dân Việt Nam; ph 26.03.1973 







Kỷ niệm 50 năm Interpol 1923-1973; ph 08.04.1973





Ngày viễn thông thế giới; ph 17.05.1973





Phát triển quốc gia; PH 06.11.1973





Con trâu; ph 20.12.1973





25 năm bản tuyên ngôn quốc tế nhân quyền; PH 29.12.1973






Kỷ niệm 25 năm thành lập Tổ chức Y tế Quốc tê; PH 31.12.1973





Cô lái đò; PH 13.01.1974






Kỷ niệm ngày Chiến Hữu Đồng Minh; Ph 28.01.1974







Kỷ niệm Hai bà Trưng; ph 27.Ò.1974








Ngày nông dân; PH 26.02.1974 






Kỷ niệm Hùng Vương; ph 02.04.1974






Thư viện Quốc gia; ph 14.04.1974 





Ngày 01/06/1974 phát hành mẫu tem "Thương binh" in lại giá tiền

Ngày 22/06/1974 phát hành bộ tem "Ngày quốc tế viện trợ"





Ngày 02/07/1974 phát hành mẫu tem "Kỷ niệm đệ nhất chu niên ngày ban hành luật người cày có ruộng" in lại giá tiền



Ngày 12/07/1974 phát hành bộ tem "Du lịch"






Ngày 18/08/1974 phát hành bộ tem "Hoa lan"




Ngày 01/08/1974 phát hành mẫu tem "Vũ điệu dân tộc" in lại giá tiền


Ngày 01/10/1974 phát hành bộ tem phạt "Các loại bướm" in lại giá tiền



Ngày 09/10/1974 phát hành bộ tem "Kỷ niệm đệ bách chu niên liên hiệp bưu chính quốc tế"




Ngày 18/11/1974 phát hành mẫu tem "Ngày khí tượng quốc tế" và mẫu tem "Ngày viễn thông thế giới"
in lại giá tiền



Ngày 01/01/1975 phát hành mẫu tem "Mùa gặt" và mẫu tem "Kỷ niệm 50 năm Interpol" in lại giá mặt




Ngày 05/01/1975 phát hành bộ tem "Di tích lịch sử"





Ngày 14/01/1975 phát hành bộ tem "Hội nghị quốc tế nhi đồng và phát triển quốc gia ICCND"




Ngày 26/01/1975 phát hành bộ tem "Thú vui ngày tết"





Ngày 23/02/1975 phát hành bộ tem "Hát bộ"







Ngày 26/03/1975 phát hành bộ tem "Ngày nông dân Việt Nam"





Ngày 01/04/1975 phát hành mẫu tem "Chiến hữu đồng minh" in lại giá mặt




Ngày 01/04/1975 phát hành mẫu tem "Kỷ niệm 25 năm thành lập Tổ chức Y tế Quốc tế" in lại giá mặt




Ngày 25/04/1975 phát hành mẫu tem "Phát triển quốc gia" in lại giá mặt





Dòng "QUÂN BƯU" phát hành ngày 01/07/1960




Dòng "QUÂN BƯU" phát hành ngày 01/02/1969





Tưởng Nhớ 30-4-1975






Tuesday, June 12, 2018

tượng Phật có từ lúc nào?


Buddha with Hercules Protector
Tượng Phật và Hercule hộ vệ, nghệ thuật Kandhara

Ấn Độ và Văn Minh La Hy
Cultural links between India & the Greco-Roman world  

Sanujit 12 Feb 2011, ttt lược dịch

Cyrus Đại Đế (558-530 tTC) đã tạo dựng đế quốc bá quyền đầu tiên từ Hy Lạp cho đến sông Indus, dưới triều danh tiếng Achaemenid, Ba Tư. Bia mộ người thừa kế Darius đệ nhất có ghi Kandhara (Afghanistan) trong danh sách các thống địa của đế quốc Ba Tư.
Cho đến năm 380 tTC, các vùng thuộc bán đảo Ấn trong tình trạng ngưng trệ nhưng một số các địa điểm nhỏ khác lại tự phát triển. Năm 327 tTC, Alexandre đại đế đã chiếm đế quốc Ba Tư và thành lập những cơ sở chính trị nơi nơi trên các lãnh thổ. Năm sau nhà vua đã lâm vào cuộc chiến gay go đối đầu với vương lãnh Ấn là Porus gần sông Jhelum ngày nay. Vương quốc của Porus phía đông giáp ranh với vương quốc hùng mạnh Magadha, thuộc triều vua Nanda. Theo sử gia Hy Lạp (HL) Plutarch, quân sĩ mất tinh thần; trước viễn ảnh giao tranh với một lực lượng người, ngựa, voi dàn khắp bên kia sông Hằng, họ nổi loạn chống lại quyết định qua sông. Alexandre nhượng bộ và, trước khi rút lui, để lực lượng HL ở lại và cho họ tự quản ở nơi bây giờ là thành phố Taxila, Pakistan.

Alexandre chết năm 323 tTC; sau đó Seleucus được chỉ định làm thống đốc Babylone. Tuy bị Antigonus đánh đuổi khỏi kinh thành, tám năm sau Seleucus trở lại, chiếm hoàn toàn Ba Tư và Media, trước khi chinh phục Punjab (hiện nay Bắc Ấn) và Pakistan năm 305 tTC.

Xưa nữa trước các cuộc chiến nầy, nhiều danh tự khác nhau để chỉ HL được tìm thấy trong các tài liệu tiền sử. Nhưng điều gọi là HL hóa thực sự bắt đầu từ khi Alexandre chết. Trong những thập niên vừa qua, ông đã chinh phục hoàn toàn đế quốc Ba Tư, lật đổ vua Darius 1, thâu tóm các vùng đất ở Tiểu Á, Levant, Ai Cập, Lưỡng Hà Địa, và những vùng hiện nay là Afghanistan, Pakistan, các thảo nguyên Trung Á, nói chung những vùng mà người HL đã biết đến.

Cuộc đông chinh chỉ tạo cho ông một vấn đề là sự cách xa: làm sao vẫn còn liên lạc, không bị cắt đứt với với thế giới HL sau lưng? Sự móc nối nầy là điều kiện tất yếu để được tiếp tế và viện binh. Theo ông chỉ có một kế hoạch duy nhất.

Ông đã đặt để quân đội thành những nhóm nhân chủng và thành lập các đô thị tại các vị trí chiến lược. Đó là các lính đánh thuê và cựu chiến binh nay không được điều động vào các chiến dịch. Bên cạnh ý nghĩa ngầm về quân sự và làm đường tiếp tế, các thị trấn nầy còn thống trị vùng quê chung quanh và nhất là bành trướng ảnh hưởng HL ở phía Đông. Plutarch viết: Sau khi thành lập hơn 70 thị trấn trong vùng dân mọi rợ và đặt nền pháp trị HL ở Á Châu, Alexandre đã xóa sạch lối sống hoang dã và mang rợ nơi đây.

Thật vậy, Alexandre đã mở lối cho những đợt di dân đông đảo; những kẻ kế vị cũng tiếp tục chính sách nầy bằng cách kêu gọi dân HL đến định cư các vùng mới chiếm đoạt. 75 năm sau khi ông chết, dân HL đã ùa vào phía đông, ít nhất 250 thuộc địa HL đã xuất hiện. Hiện tượng nầy không xẩy ra 300 năm trước vào lúc vùng Địa Trung Hải đã thành vùng nói tiếng HL.
Thí dụ cụ thể là thành phố Ay Khanoum vừa mới tìm thấy tại biên giới Nga và Afghanistan, không xa Tàu, tiêu biểu HL, có vận động trường, có đền đài, kiến trúc hành chánh. Tuy vậy thị trấn nầy không hoàn toàn HL, có những đền miếu và các di tích nghệ thuật Đông phương; điều nầy cho thấy người HL và người địa phương đã chấp nhận các hình thái tôn giáo của nhau.

Một trong những điều kỳ thú nhất là cột đá khắc một bài thơ dài tiếng HL của Clearchus, đệ tử của Aristote, chưng nơi công cọng cho mọi người xem. Clearchus chỉ ghi lời dạy của những người HL nổi tiếng, làm triết lý cho người dân thường và là kết nối của người HL với quê xa, đồng thời đóng góp vào nền văn hóa dân dã và cũng là đường lối dễ để cho dân cư tiếp xúc với văn hóa HL.

Như vậy ảnh hưởng của HL đã đến tận Viễn Đông; người mới đến và người tại chỗ đã dung hòa tập tục, tôn giáo và lối sống của nhau. Tuy không xâm chiếm hoàn toàn Đông phương, văn hóa HL đã giúp cho khu vực nầy một phương tiện giao tiếp với Tây Phương. Nói khác, chủ trương bành trướng HL đã tạo nên mối quan hệ chung cho Đông Phương, bán đảo HL và khu vục Địa Trung Hải. HL đã ảnh hưởng sâu sắc Rome để Rome trở thành một trung tâm quyền lực kế tiếp. Về phía nầy, Alexandre đã khai sinh thành phố Alexandria, Ai Cập, Antioch ở Syrie, Seleucia, Iraq. Tuy vậy, các người kế vị không theo đường hướng nầy nữa.

Các thành phố kiểu HL giống đô thị ngày nay ở nhiều điểm. Đó là một trung tâm văn hóa, có nhà hát, đền đài và thư viện; một nơi học hỏi, nơi tụ tập nhà văn, nhà thơ, thầy giáo và nghệ sĩ. Nơi đây dân chúng có thể tìm giải trí vui thích; nơi buôn bán, nơi chế tạo sản phẩm, là một thị trường nông phẩm trồng quanh vùng. Nói gọn, đô thị kiểu HL mang lại những cơ hội văn hóa và kinh tế, nhưng không cấu thành những doanh nghiệp liên hiệp tập đoàn. Hàng hóa thuộc loại quý phẩm được chuyên chở bằng đoàn lạc đà như vàng bạc, châu báu, tơ lụa. Từ đó có danh từ đường tơ lụa (silk road). Dần dà, đoàn vận tải còn mang theo những nhu yếu phẩm khác như dầu olive, vải vóc, trà, gia vị; tiếp đến là vũ khí bằng kim loại.

Từ 180 tTC đến năm thứ 10 sau TC, hơn 30 vị vua HL nối tiếp nhau cai trị vùng đất rộng với tên gọi Vương Quốc Ấn Hy, đánh dấu bởi việc vua Demetrius chiếm Ấn năm 180, và đặt trung tâm sinh hoạt tại Bắc Afghanistan ngày nay. Danh xưng vương quốc Ấn Hy không rõ rệt, bao gồm nhiều lãnh thổ có kinh đô riêng. Taxila hiện nay ở Pakistan có lẽ nằm trong số những thủ phủ của giới cầm quyền HL. Đáng chú ý là vương quốc nầy đã thực tế đứng riêng rẻ, tách khỏi gốc HL xưa.

Trong 200 năm cai trị, các vua Ấn Hy đã kết hợp ngôn ngữ và các biểu tượng HL và Ấn (bằng chứng là chữ viết trên tiền chì); cũng như đã trộn lẫn lối hành đạo cổ xưa của HL, Ấn giáo và Phật giáo, qua các bằng chứng khảo cổ; đặc biệt là sự giúp đỡ cho Phật giáo phát triển. Những vua nầy đã đạt sự dung hợp văn hóa ở mức độ tốt đẹp chưa từng có trong lịch sử, đặc biệt là sự quảng bá nghệ thuật Phật Giáo-Hy Lạp.

Theo sử liệu Ấn, quân HL đã giúp Chandrapupta Maurya (nội tổ của Asoka) lật đổ triểu đại Nanda và thành lập đế quốc Maurya khắp vùng Tây Bắc Ấn, năm 312 tTC. Năm 303, Seleucus đưa quân vào Ấn đối đầu với Chandragupta. Hai bên giản hòa và thành lập một liên minh. Seleucus gả con gái cho vua Ấn, nhượng các vùng đất Kandhara, Herat, Kabul và Makaran, để ngược lại nhận 500 voi chiến mà ông dùng trong trân đánh Ipsus.

Seleucus đã gởi đại sứ đầu tiên đến triều Maurya: Magasthenes, nhà nhân chủng học. Nhân khi thi hành nhiệm vụ, nhà ngoại giao nầy đã viết cuốn Indica. Theo ông, người Ấn tiền sử đã biết Dionysus, thần rượu và nghệ thuật, đã biết Hercule; đến thời Alexandre thì huyền thoại HL được nhiều người biết hơn. Sách cũng nói về địa dư như đề cập đến Hy Mã Lạp Sơn và đảo Tích Lan.

Về tôn giáo Ấn, tác giả cho rằng dân chúng thờ phụng Hercule qua Shiva, và Dionysus qua Krishna hay Indra. Nhưng không một dòng về PG; điều nầy cho phép suy diễn rằng PG chưa được bành trướng trước thời Asoka.
Các sử gia hậu thế ghi nhận vua Demetrius và Menander đã thống lãnh một đế quốc rộng lớn hơn đế quốc của Alexandre Đại Đế, từ sông Bea hiện nay cho đến Hy Mã Lạp Sơn. Đồng xu đầu tiên mang hình Menander với ghi chú ‘kẻ cứu tinh’ (của người HL di trú?).
Tiền cổ Ấn, mặt trước ghi Menander vị cứu tinh, mặt sau bàn tay chiến thắng
Các đồng tiền về sau có hai ngôn ngữ: mặt trước tiếng HL mặt sau tiếng Pali. Đấy là minh chứng hùng hồn sự dung hòa tương nhượng giữa các nền văn hóa khác nhau, điều chưa từng thấy trong lịch sử HL.

Menander (hay Milinda), nguyên gốc là một vị tướng của Demetrius, là vị vua Ấn Hy thành công nhất và cai trị một lãnh thổ vô cùng rộng lớn. Từ thế kỷ thứ nhất, xuất hiện thành ngữ “Menander Mons” để chỉ dãy núi viễn đông của tiểu lục địa Ấn, ngày nay là núi Naga, ghi rõ trong bản đồ thế giới của Ptolemy, thế kỷ 1. Dưới triều của ông có rất nhiều loại tiền chì hơn bất cứ thời vua nào; có một loạt thống nhất một mặt ghi ông là kẻ bảo vệ dân chúng, còn mặt kia tùy địa phương. Menander còn được biết tiếng trong kinh sách Phật Giáo qua tạng điển “Vấn đáp Milinda” (Kinh Na Tiên)*. Ông đã theo PG và tu chứng quả La Hán.

Cần nhận biết rằng sự xuất hiện của PG tại Ấn đánh dấu một khúc quanh quan trọng trong thế giới nghệ thuật, văn hóa, triết lý và tôn giáo. Nó có tầm ảnh hưởng lớn hơn bất cứ tín ngưỡng nào, nó đem lại một bình minh mới xuyên qua Á và Âu châu.

Phật Cồ Đàm qua đời ở tuổi 80 giữa 486 và 473 tTC. Theo một số nhà nghiên cứu hiện nay, Phật không có ý định thiết lập một tôn giáo mới và không xem học thuyết của mình tách biệt với những tín ngưỡng dân gian đương thời.  Dù điều nầy chưa có gì xác quyết, những môn đệ của ngài đã đưa ngài lên bậc thần thánh, thờ phụng ngài lúc còn sống và lúc ngài quá vãng, tiếp tục tôn thờ qua các biểu tượng như tháp, việc nhập niết bàn, việc giác ngộ, gốc bồ đề…  Đệ tử và vua chúa quanh vùng chia nhau tro cốt đem về xây tháp thờ riêng. Đến thế kỷ thứ ba, Asoka khai quật các nơi chôn cất nầy, phân tán nhỏ để nhiều nơi khác ở Ấn thờ trong các tháp.

Những hình chạm trỗ tại các tháp ở Bharhut và Sanchi cho thấy các đám đông cúi lạy những biểu tượng của Phật. Thật vậy, điêu khắc không chạm hình Phật mà chỉ có hình Pháp Luân, hai dấu chân, hay gốc bồ đề …
Trường phái nghệ thuật và điêu khắc Kandhara giành được vinh dự tạo ra hình ảnh đầu tiên của Phật, tuy nhiên học giả Ấn cho rằng hình ảnh Phật xuất phát từ phía nam của Delhi.

Quanh thời gian Menander chết năm 140 tTC, người Trung Á Kushans đã xâm chiếm đế quốc Ấn Hy và chấm dứt nền cai trị của người Hy Lạp. Chính quyền mới tiếp tục hổ trợ truyền thống nghệ thuật HL. Thời đại Kushans được xem là thời hoàng kim của Kandhara, có rất nhiều công trình điêu khắc tuyệt mỹ.

Văn minh Kandhara đạt mức sáng chói nhất dưới triều Kanisha (128-151) với các thành phố phát triển như vùng Taxila. Peshawar trở thành kinh đô của một đế quốc rộng lớn chạy dài từ khu Bengal cực đông của Ấn đến tận Trung Á. Kanisha là người bảo trợ PG quan trọng nhất; PG đã bành trướng từ Trung Á cho đến Viễn Đông tiếp giáp đế quốc nhà Hán. Kandhara trở thành thánh địa của PG, hấp dẫn những kẻ hành hương Trung Hoa đến xem đền đài và học hỏi kinh sách.

Tại đây PG đại thừa đã nẩy nở đầy đủ và Đức Phật được hình dung theo nhân dạng.


Gandhara Buddha
Tượng Phật, trường phái Kandhara
Dưới thời Kushans, nhiều tháp mới được xây thêm, tháp cũ được nới rộng. Các tượng Phật to lớn được dựng ở các tu viện hay chạm theo vách đá núi. Kanisha cho xây một tháp lớn cao 400 feet (chừng 120 mét) ở Peshawar. Pháp Hiền và Huyền Trang có ghi trong ký sự tây du. Công trình kiến trúc nầy bị phá hủy và xây lại nhiều lần, nhưng lần cuối bị phá sập bởi Ghazni thế kỷ 11.

Vào thế kỷ 19, quân sĩ và công chức Anh bắt đầu chú ý đến cổ sử của bán lục địa Ấn. Thập niên 1830 ghi nhận hai sự kiện, thứ nhất là tìm thấy nhiều đồng xu thuộc giai đoạn sau Asoka và thứ hai dịch các du ký của người Tàu. Các tài liệu nầy cho thấy địa điểm và các họa đồ đền chùa PG. Hai sự việc nầy đã dựng lại lịch sử của Kandhara. 1848, nhiều điêu khắc được tìm thấy phía bắc Preshwar. 1860, vị trí thành phố Taxila được xác định và tiếp theo vô số tượng Phật đã được khai quật trong thung lũng Preshwar. Công trình khảo cổ từ 1912 đến 1934 đã phát giác nhiều thành phố Hy Lạp, Kushans, nhiều tháp và tu viện.

Những đồng tiền thời kỳ đầu triều Kanisha mang hình ảnh các thần linh HL và dùng tiếng HL ghi các huyền sử. Những đồng tiền kế dùng chữ địa phương Bactria hay Iran, hình ảnh thần linh HL được thay thế bằng thần linh Iran; người Kushan nói tiếng Iran.

Tuy hiếm,  vẫn có một số đồng xu mà mặt trước là Kanisha mà mặt sau là Phật đứng, theo lối HL, bên dưới có ghi tiếng HL là Boddo. Trên sáu đồng tiền, hình Phật có tai dài khá bất thường. Sự khác lạ nầy vẫn còn được duy trì nơi các tượng tiêu biểu cho nền nghệ thuật Kandhara thế kỷ 3 và 4. Các tượng nầy tóc bối rất dày, quắn và cuộn thành núm tròn; có vài tượng có râu.

Vua Demetrius có thể là người mẫu hình ảnh Phật. Những tượng Phật đầu tiên kiểu HL có những đường nét như một ông vua. Những tượng đầu tiên nầy mang hình ảnh chính vị vua nầy, người được thần thánh hóa nhưng thân thiện và bảo vệ dân chúng Ấn. Dần dà, những bức tượng kế tiếp mang thêm nhiều yếu tố PG và trở thành tâm điểm của phong trào PG và trở thành hình ảnh Phật trong nghệ thuật PG-HL.

T
rong nghệ thuật Kandhara, Phật xuất hiện dưới sự bảo trợ của Hercule. Vị thần nầy cũng đứng sau lưng vua Demetrius trên các đồng xu.


Các vị thần trong huyền thoại HL cũng đã được đưa vào các biểu tượng PG một cách uyển chuyển và ăn nhịp. Ít lâu sau, hình Phật và cảnh đời sống của Ngài có khắp nơi trong các kiến trúc HL, nhiều nhất ở các cột trụ và móng chính. Bên cạnh hình Ngài còn có nhiều người cổ võ mặc y phục HL.

Theo truyền thuyết Mathura là nơi sinh của Krishna, một trong hai vị thần chính yếu của Ấn Giáo. Khu vực nầy cách Delhi 145 km về phía nam, cùng với Kandhara là hai trung tâm đầu tiên sản xuất hình tượng của Phật vào thế kỷ thứ nhất Công Nguyên. Nhưng tác phẩm hai nơi nầy khá khác nhau.

Tượng ở Kandhara rõ rệt theo lối La Hy: Phật có đầu tóc gợn sóng và búi lên cao, và mặc áo như người La Mã. Tượng phía Nam thì giống các vị thần “phồn thực” thời xưa, tóc ngắn hơn, mặc áo mỏng nhẹ hơn. Giống nhất là ở các tượng đứng vĩ đại vào đoạn đầu của thời đại Kushan. Cả bao nhiêu năm, cả thế kỷ, điêu khắc gia phải đục đẻo đá ong đỏ thành từng khối rồi đem về ráp ở nơi cách xa.


Những tượng đứng nầy, cũng như các tượng ngồi, nói lên một nghị lực bao la: vai rộng, ngực nở, hai chân vững và hai bàn chân cách nhau. Đặc điểm nữa là cạo tóc chỉ để núm nhỏ trên đĩnh đầu; mặt tròn cười tươi, tay phải đưa lên bắt ấn rất tự tin và tay trái thả thỏng rất hiền hòa; y áo gần sát thân, xếp, cuốn móc vào vai trái, vai phải để trần. Thay đổi mới là đài sư tử thay vì đài sen. Về sau, Phật có thêm tóc ngắn và cuộn tròn từng nhúm nhỏ. Ngày nay các biểu tượng nầy được dùng tới và xem như tiêu chuẩn trong việc hành đạo khắp thế giới.

Dưới ảnh hưởng nghệ thuật Mathura, nhiều hình tượng nữ giới (yakshi) được khắc chạm ở các cột trụ, hành lang, cỗng các điện PG và Kỳ Na Giáo (Janism), trông rất gợi cảm. Các nàng có mông to, eo nhỏ, nữ trang đầy người, gợi lên hình ảnh những vũ nữ xưa ở Thung Lũng Indus. Các hình khỏa thể hay bán khỏa thể nói lên sự dung hợp, và cũng làm cho PG không bị tách rời khỏi khung cảnh xã hội chung; cũng là một yếu tố phát triển cho tôn giáo mới nầy.


Yakshi
Yakshi
Bên cạnh nghệ thuật điêu khắc, văn hóa HL ảnh hưởng đến văn tự. Tiếng Pali và Phạn đã dùng rất nhiều chữ mới gốc HL. Vua chúa vẫn nói tiếng HL, một số ít còn dùng ngôn ngữ nơi sinh như Iran. Năm 180 Kanisha thay ngôn ngữ chính thức HL bằng tiếng Bactrian của quê tổ, và cho khắc chữ mới trên đồng xu. Tuy vậy tiếng HL vẫn còn dùng trên nhiều đồng tiền khác, trong thư mục, chạm trên bia đá cho đến khi Muslim chiếm Ấn vào thế kỷ thứ 7.

Khoa chiêm tinh và thiên văn HL được người địa phương đón nhận. Người Ấn từ văn minh xưa đã rất giỏi về toán học nhưng không tự mãn mà từ chối những kiến thức khoa học của kẻ chiến thắng.

Tác dụng của văn hóa HL rất phức tạp chưa có thể phân loại rõ ràng. Nét trội yếu nhất là sự phát triển của PG trong nghệ thuất hình tượng (như đã nói trên) và tư tưởng. Giới học thuật đồng ý rằng PG đại thừa là một phong trào rõ rệt xuất hiện ở tiểu lục địa Ấn vào lúc đế quốc Ấn Hy hưng thịnh. Đại Thừa rộng rãi hơn so với Theravada Tiểu Thừa trong thế giới PG ngày nay. Đại Thừa là con đường giúp chúng sinh giác ngộ hoàn toàn, và cũng được gọi là bồ tát đạo.

Theo sự nghiên cứu của Seishi Karashima, danh từ Mahayana (đại thừa) biến dạng từ chữ “mahajana” (đại trí) trong bản dịch Kinh Pháp Hoa đầu tiên bằng tiếng Prakrit (Kandhara) vào thế kỷ thứ nhất. Khi chuyển qua chữ Phạn, danh xưng mahayana, (tuy phát âm gần nhau) mang thêm ý nghĩa là bồ tát thừa.

PG Á Châu (chính yếu gồm đại thừa và Tịnh Độ) xuất phát từ PG cổ xưa của Ấn Hy, truyền bá theo Đường Tơ Lụa. Khi mới bắt đầu, đại thừa tiếp nhận ảnh hưởng từ sự thờ phụng sùng bái của dân chúng Ấn, và các thuyết thần học Ba Tư, La-Hy du nhập từ phía tây bắc.

Nhiều lý thuyết đại thừa sơ khởi như bản thể luận, duy thức luận, liên hệ với tư tưởng HL đang luân lưu trong khối người HL-PG. Tuy vậy, không thể tìm thấy trong học thuật HL những điều đã có từ thời A Hàm như vô ngã, tánh không.-


The Empire of Alexander the Great
Đế quốc Hy Lạp của Alexandre

**************

bản iếng Anh đầy đủ đây
*Đọc Questrions of Milinda đây
*Kinh Na Tiên Tỳ Kheo, Cao Hữu Đính dịch ở đây




Sunday, June 3, 2018

thơ Kim Tuấn 74 Saigon


beautiful_annamite_mountains
đường đi biên giới
Kim Tun

Mai ra biên gii rng xanh lá
đứng chm núi cao nhìn mây bay
xa nhà ng
t ngưởng dăm hơi thuc
chi
u xế hoàng hôn lnh ph đầy.

Đường đi ngun ngút sương mù khut
vút
đỉnh tri xa rng núi xa
gió hú
đồi cây chân đá dng
gh
nh nghiêng thác đổ ni thương nhà.

Th
ương nhà ta ung vơi bu rượu
nh
bn đành quên nga mt cười
đất đỏ bi hng thân gió cát
mai v
quê cũ biết còn ai?

Còn ai chinh chi
ến vui cùng la
súng ngó tr
i xanh mt ngó rng
đêm đốt đèn soi mình vi bóng
ph
ương tri em đó có rưng rung.



bức thư gởi không niêm
Kim Tun

Anh gi mùa hè ra ngoài y
Để em sưởi m nng Sài Gòn
Để tà áo la bay trên ph
L
ng l cười môi đỏ nét son.

Anh g
i mùa hè ra ngoài y
G
i tri cht nng ri cht mưa
Ch
t em bng nh người xa vng
Thu
đi v trên nhng li xưa.

Anh g
i mùa hè ra ngoài y
G
i em hoa phượng đỏ trên cành
G
i thêm tiếng hát con ve nh
R
t nng nàn như ca chính anh.


Con m
t mình ln li vi thơ
M
ười tám tui không v quê như ch
M
ướt mt khuyên "đừng tp làm thi sĩ
B
c muôn chng thân gái con ơi".

Tháng ba
đi, hoa go n hết ri
M
đếm tui em bng cánh hoa mùa cui.
Th
ư gi em chng là viết vi
M
gic v đi ly chng thôi.

Tháng ba bu
n di ý hn ngm ngùi
Nh
c em ngày sinh và h vôi đầy hoa go rt
Quê em
đó, cơn mưa dài không ngt
Khóc t
lúc sinh em cho đến tn bây gi

Đành rng tháng ba vn thp màu hoa cũ
Nh
ưng có nhng điu phi sng khác ngày xưa.

[Thơ Kim Tun, Gìn Vàng Gi Ngc xut bn, 1974, Saigon]