add this

Saturday, June 15, 2024

tiếng chuông, thơ Lê Văn Minh

 

còn nhớ camel của tác gia Lê Văn Minh

tiếng chuông

Lê Văn Minh 

 

Gia rng Vincennes *

Nghe mt tiếng chuông Chùa Tây Tng

Ngân dài trong mênh mông,

Trên cánh rng thinh lng...

 

Cht như đâu đây

Tiếng  kinh cu Tibet 

“Om mani padme hum” *

Thong trong gió lùa 

Ơ h 

Qua nhng thân cây.

 

Cht nghĩ đến cõi người mi mt

Cui mt ngày âu lo

Bên kia đi,

Xa tht xa nhng ưu phin thế tc

Có ông Lt Ma ngi tĩnh tọa

Trên Hy Mã Lp Sơn 

Gìn gi thanh bình

Cho x s huyn bí

Và đám dân lành 

Hin như đàn trâu Yak

Yên vui chung cùng phn bc

 

Cõi đa đàng hiếm hoi

Bây gi sóng dy

Chùa chin b san bng

Sư si ngm tăm, 

Đành ci b áo tu

Dưới áp lc ca lưỡi lê súng đn

Và tính ác ca con người.

 

Đn chùa bng mt ngày biến dng

Thành ca hàng mu dch quc doanh

Bày nham nh 

Đ loi hàng Tàu sc s

Đi sng ch, đin t ti tân

Sn xut t nước m Trung hoa

Thi Mao-Đng.

 

*

Cht tiếc nui mt ánh vàng

C mi mùa trăng

Mông lung di Thin hư o

Chn v

Nghiêng xung sân rêu

Mt ngôi tho am

Đã hết thi hưng thnh

Biến thành chn tnh tu

Cho mt ông sư già kh hnh

Lánh xa ô tr

Cõi trn gian.

 

Đã có mt ánh trăng vàng 

Thu trước

Trong trng tinh nguyên

C nhô mình vươn lên

Trên cao mt đnh đi êm

Gia Thiên nhiên tĩnh lng

Vùng núi đi hoang vng.

 

Bng cht nh đôi mt rt hin

(Và có phn kh hnh)

Ca người cha quá vãng

Ch ít lâu sau khi ta v

T ci to tít mù đt B

Xã hi ch nghĩa hoang vu.


Còn nghe như vng li tiếng kinh 

Trì tng hng đêm

Án Ma Ni Bát Mê Hng...

 

Ta c mơ thy hoài 

Ánh mt ca người cha

Trong gic ng vùi

Nhng đêm dài mi mt

Tia nhìn thân yêu 

Sao quá du dàng

Hin như mt ánh trăng

Quá kh

Nh như mt ánh thi

Soi ri tâm tư

Êm ái đưa ta vào gic ng

Yên lành, 

Nh hng chuyn sc không.

02/2024 - Viết lại giữa những cuộc tàn sát thảm khốc ở Ukraine và Gaza.

                                                                                                       

* Om mani padme hum = Hương của trí huệ chỉ tỏa ngát  khi cỏi lòng người rộng mở.

 * Rừng Vincennes nằm ở vùng nội biên đông Paris, có hồ thiên tạo, hoa

   viên, sở thú và lâu đài vua chúa thời trung cổ cho dân thủ đô và vùng phụ                                   

   đến nghỉ ngơi, thưởng ngoạn. Rừng cũng là lá phổi của kinh đô ánh sáng.

***************************************************************************

Lai rai ba sợi

Bất tri tam bách dư niên hậu / Thiên hạ hà nhân khấp lũ bạc loài?

Tác giả Lê Văn Minh không nhớ đốc sự khóa mấy trường QGHC, ở trong ký tức xá cùng chúng tôi, những năm 1963, 1964 ...Chúng tôi lặng lẽ rời trường và không còn một liên hệ nhỏ nào với trường. Có tin mơ hồ Minh giữ nhiệm sở trên cao nguyên và đã kết hôn trên đó, biết đâu "thỉnh" một em Pleiku môi đỏ má hồng.

Mới đây, tự nhiên tôi có tên trong một mailing list gồm 50 đồng môn, tên họ ngược xuôi không biết ai là ai, trừ chị Oanh Tạ. Nhân đó, chúng tôi đã mời đọc một số bài ngắn đã viết, cầu mong các đồng môn vị tình dòm xuống; chớ thời nay trả tiền chưa chắc người ta đã đọc bài mình. Văn chương hạ giới rẻ hơn bèo.

Nhưng may vài người đã hồi báo với rất nhiều cảm tình chân thành. Thì ra đời chưa trọc lóc như những ngọn núi ở VN sau 1975. Lê Văn Minh đã gởi những "compliment" dễ mến.

Thư nầy gởi chung cho anh Phạm Văn Tốt (thi sĩ Hàn Thiên Lương), cho nên chúng tôi mới biết Minh nhà mình chuyên trị Camel của Mỹ, được đảng ưu ái cho hưởng mùi vị sương lam chướng khí thượng du Bắc Việt. Anh đến 1987 mới gặp vợ con bên Pháp sau khi được thả 1982. Bên dưới chúng tôi in lại email bỏ phần cá nhân.

Lê Văn Minh gởi cho bài thơ Tiếng Chuông cùng bản tiếng Pháp nhân ngày Father Day, nhớ đến ánh mắt của người cha, chợp tắt không lâu khi anh trở về từ "địa ngục trần gian''. Nhưng thương cảm trong phạm vi gia đình đã được nới rộng đến Tây Tạng xứ Phật và rộng đến các đỉnh núi Hy Mã Lạp Sơn. Không gian nội tâm (inner scope) rộng lớn ấy như "scope" của Mozart, Beethoven đã chụp mất cái scope e ấp thân mật của Chopin. Nhưng như vừa nói, nó không thể che mất nét hiền hòa của người cha.

Khi phúc đáp thư của anh Minh, tôi có nhắc đến Trương Thoại Bửu "vân du" trong ý thơ, đã đọc cho tôi câu thơ của Luân Hoán tả bàn tay chị da mịn vì vo gạo nấu cơm mỗi ngày. Tôi đã hỏi vì sao văn chương chỉ nói về mẹ, bà ngoại, chị gái mà không nói tới cha.

Thì nay Lê Văn Minh nói đến cha. Cha như thế nào, "Home Depot" sẽ trả lời. Father Day, hệ thống thương mại vật liệu nhà cửa nầy chưng ra lối đi những thứ nên mua để tặng cha. Cuốc, xẻng, cưa, đục, búa, kềm ...Mother Day, Lowe và Home Depot nhường thị trường cho các cơ sở thương mãi khác để bán hoa, quần cáo, son phấn, nữ trang... Làm cha khổ lắm ai ơi!

Về Tây Tạng, Lê Quân viết: 
Đền chùa bỗng một ngày biến dạng
thành cửa hàng mậu dịch quốc doanh.

Đúng vậy nhưng vẫn còn là đại phước. Trắng đen đã rõ; bàn thờ Phật làm quầy bán thịt. Vô thường là chuyện rất thường. Cái chết ở chỗ nền PG đã trở thành bộ máy tuyên truyền phi nhân, tiếp tay sinizer (tàu hóa) văn minh bản xứ, chùa chiền thành những business, kể cả woman traffic. Cái chết là xác cậu cũ mang hồn cô mới. Không những ở Tây tạng mà ở VN có khác chi.

Kính hai huynh trưởng Phạm văn Tốt và Tôn thất Tuệ,
Được tin hai anh Minh tôi mừng lắm. Mong các anh luôn vui khoẻ cùng quí quyến.
Phần tôi ra trại Tân Lập Vĩnh Phú vào cuối năm 1982, mãi đến 1987 mới sum họp được với vợ con ở Pháp. Đời sống cũng nhàng nhàng, nghề nghiệp công chức bộ Giáo dục, chức tước thì cũng chỉ tương đương với thượng sĩ nhất của mình thôi! Về hưu tuổi đáo hạn năm 2008, nay chỉ còn hai vợ chồng già dìu dắt nhau đi cho hết đoạn đường dương gian; vì cũng như mọi người khác bên này, con cái ra riêng, hoặc lập nghiệp ở xa, hoặc tất bật với công việc chỉ thỉnh thoảng về thăm cha mẹ già. Đời sống bận rộn, ở đâu cũng thế !
Anh Tuệ ơi, tôi thật mừng thấy anh ở tuổi 85 vẫn còn minh mẫn và sung sức viết.
...........
Phần anh Tốt tôi vẫn còn nhớ anh rõ ràng lắm. Từ một mùa đông buốt giá ở đội tăm mành Lào Cai với những anh em Lâm Tấn Mẫn ĐS 6 mà chúng tôi hay ghẹo là “cô Nguyên Hương” bởi chức vụ chánh văn phòng Phủ của anh ấy, đến các anh Hồng Cẩm Phương kh.15 và Phạm văn Hy TS1. Anh còn nhớ chuyến chuyển trại tránh giặc Tàu năm 79? Trên con đường lầy lội, chiếc xe hàng trưng dụng chở mình đã lọt hố. Trong cảnh hai người chung một còng, ngồi chồm hổm trên hành lý cá nhân vì xe rất chật; lại thêm cái nóng hầm hập của cơn giông đã làm con người căng ra. Tôi còn nhớ hai bậc trưởng thượng chung còng (rất khả kính vì địa vị xã hội cũ) đã không kềm chế được những lời thô lỗ mắng vào mặt nhau, cho đến những cú đấm của hai cánh tay còn lại. Chính trong tình trạng tha hoá ấy, anh đã lên tiếng “dẫu cho hoàn cảnh súc vật, hãy cố giữ cho mình làm người! “ Hai bậc trưởng thượng dừng ngay lại và cúi đầu hổ thẹn! Thế cũng là tốt lắm. Tôi còn nhớ tên vệ binh võ trang ở phần đuôi xe im lặng từ đầu đến cuối, mặt vẫn lạnh băng. Sau khi đến Bến Ngọc thì tôi không còn nhớ anh đã được phân bổ đi phân trại nào của Tân Lập.
Vài kỷ niệm xưa của bạn bè cũ vẫn còn nhớ như in, kể cả quảng đời đẹp nhất thời sinh viên đến cảnh tù đày cùng cực. Nhắc lại một chút để biết rằng mình vẫn luôn có bạn bè. Thôi chúc hai anh vui nốt đoạn đường còn lại. Anh Hàn Thiên Lương, về sau này tôi ít đọc thấy thơ anh. Chúc an mạnh.
Thân mến,
Lê Văn Minh



Friday, June 14, 2024

Vài chữ về Fulro

Front Unifié de Lutte des Races Opprimées

Tôn Thất Tuệ * 2023

Giữa năm 2023 internet chạy một tin nhỏ Fulro đòi tự trị và quấy phá ở Cao Nguyên. Tuy không có gì ồn ào và thực hay hư đều không có giá trị về chính trị, tin nầy nhắc chúng tôi một bài báo cũ.
2014, tình cờ chúng tôi gặp vài số báo Việt ngữ của nhóm người Chàm lưu vong ở Pháp, trình bày sinh hoạt thiểu số và một số bài khảo cứu của tiến sĩ Po Darma (không dùng tên cũ lối VN). Có một bài rất dài về nguyên nhân suy tàn của đế quốc Chàm mà mọi thứ xoay quanh một lý do duy nhất là quê tổ của Po Darma nằm ngay bên cạnh VN, một nước hiếu chiến và khao khát đất đai (cũng giống như Miền Nam nằm bên cạnh Bắc Việt hiếu chiến, HCM hứa cho mỗi cán bộ một ngôi nhà miền nam).
Nói đến Chàm thì ai cũng nghĩ đến Phan Rang Ninh Thuận và Tháp Chàm Nha Trang. Nhưng Po Drama nói rằng toàn thể Cao Nguyên là đất của người Chàm cũng như Chế Linh tự cho mình là lãnh tụ mọi người thiểu số sống trên cao nguyên. Po Darma kể lại những lần lãnh thổ Chàm bị co rút đều xẩy ra ở vùng thấp (bình nguyên). Giai đoạn cuối, lãnh thổ Chàm làm chiến trường cho hai phe Tây Sơn và Chúa Nguyễn, được mất thua thắng trồi trụt, kéo theo người Chàm giết nhau, cộng với sự điêu tàn tự nhiên của chiến tranh. Hai phe người Việt không đánh nhau ở Cao Nguyên.
Po Darma, qua tạp chí Harak Champa ngày 06.06.2006, ta thán văn hóa Chàm bị hủy diệt sau 1975. Một vũ điệu thần thánh đã thành một vũ điệu khiêu dâm về y phục và động tác. Po Darma chỉ trích Chế Linh đã từ chỗ quyết tử (sic) chống khai thác bauxite cao nguyên đến chỗ ủng hộ những sai lầm nguy hại đến văn hóa, biến ngôn ngữ Chàm thành một quái thai, nhiều cuốn sử được cho tiền xuất bản mang đầy sai lạc cố ý xuyên tạc, cụ thể là một cuốn sách của Hồ Chung Tú.
Po Darma nêu rõ thâm ý của Chế Linh là để được chính quyền VC cho về hát. Điều mới của Po Darma là tiết lộ rằng Chế Linh không biết một chữ Chàm, không nói tiếng Chàm, tự xưng là lãnh tụ Chàm mà không một giờ tranh đấu cho lý tưởng Chàm, nay phách tấu nói ai muốn khai thác bauxite phải qua xác của ông.
Tiến sĩ Chàm nầy đã hạ đo ván Chế Linh để so sánh với chính mình đã hoạt động tích cực, vào sinh ra tử, bên cạnh những đơn vị quân sự của Fulro như một chính ủy (chữ của chúng tôi). Ông đã mô tả các chiến công và dùng những danh tự đê tiện để chỉ quân VNCH tái lập trật tự ở Cao Nguyên.
Ông nói rõ mục đích của Fulro là thành lập một quốc gia độc lập riêng rẻ. Nhưng Fulro tuyên bố ngưng hoạt động ngay từ ngày 30.4.1975.
Hơn hai tháng trước khi miền Nam hoàn toàn thất thủ, cao nguyên đã bỏ trống, một cơ hội rất tốt nhưng quân của Po Darma đã không làm gì mà ngồi chờ ngày hạ súng. Hoặc chẳng có gì cả. Po Darma nói từ nay chỉ tranh đấu cho một “nước Chăm văn hóa”.
Diễn dịch lối Po Darma, nhiệm vụ phù trợ Bắc Việt đã hoàn tất. Thiết nghĩ, Po Darma đã thỏa hiệp rằng sau chiến tranh, BV sẽ cho thiểu số Chàm nhiều đặc ân như quy chế tự trị mà Minh Mạng đã xóa. Dính máu ăn phần.
Tuy vậy, Po Darma đã không hết lời chỉ trích VC vi phạm tính cách thần thánh của dân Chàm bằng cách di dời mồ mã tổ tiên Chàm, lấy đất xây nhà máy điện nguyên tử. Đã cho một bọn không biết tiếng Chàm làm tự điển. Vậy thì dính máu mà chả ăn phần chứ gì?!

Để khỏi gây lạc hướng, xin nói mục đích của những dòng nầy là đừng quên rằng Fulro ngay từ đầu là một công cụ của CS; khai sinh bởi Sihanouk, đứa con có hai dòng máu tinh thần là Tàu và Pháp.
Quan thầy của Sihanouk đã học thuộc bài rằng cao nguyên là nóc nhà, là mái nhà của Đông Dương. Bình dân lẫn trí thức có liên hệ với Đông Nam Á đều thuộc lòng “thánh thi”: Ai chiếm Boloven sẽ chiếm Đông Dương. Qui tient Boloven tiendra l’Indochine.
Để bớt nét trân tráo chính địa, Sihanouk đã đem vô mặt trận nầy nhóm Krom, người Miên Phật Giáo ở đồng bằng Cửu Long.
Chúng tôi rất hoài nghi vai trò chính ủy của Po Darma vì người Chàm ăn mặc không như người Thượng và có nếp sống định cư như người kinh. Yếu tố Chàm cũng do Sihanouk tạo nên bằng cách cử một sĩ quan cấp tá gốc Chàm trong quân đội hoàng gia Miên làm đại biểu phái đoàn Chàm trong hội nghị thành lập Fulro. Chúng tôi không thông suốt ngọn ngành của Fulro nhưng thiết nghĩ lực lượng dân quân của Fulro là nhóm CIDG do Biệt Kích Green Beret Mỹ tuyển dụng và huấn luyện. [CIDG = Civilian irregular defense group]. CIDG đã có lần quấy phá tỉnh Ban Mê Thuột bị chính quyền VNCH đẩy lui nhưng được sĩ quan Mỹ ra bao che đem về trại.
Sept 1964, CIDG trong năm trại đồng thời nổi loạn giết 80 quân nhân VN, bắt làm con tin 20 lính Mỹ. Nhưng may, Green Beret còn ảnh hưởng và thương lượng để quân phiến loạn hạ vũ khí. Chính phủ VNCH tương nhượng chấp nhận vài đề nghị của người Thượng nhưng không chấp nhận quyền tự trị. Chính phủ VNCH phản đối HK vũ trang người Thượng không được chấp thuận trước của Saigon. HK đã chính thức công nhận ủng hộ tiền thân của Fulro.
05.1958, một nhóm trí thức Thượng thành lập Bajaraka (Banar, Jarai, Radé, Koko) đòi tự trị các dân tộc thiểu số Cao Nguyên qua một bức thư gởi hai tòa đại sứ Pháp Mỹ. 1964, với sự hậu thuẩn của HK, tổ chức nầy ghép thêm nhiều sắc dân thiểu số khác và trở thành FLHP (Front de Libération des Hauts Plateaux, Mặt trận giải phóng Cao Nguyên).
[Tình cờ??? Trong thời gian biến động nầy, Nghiêm Thẩm, tự nhận là nhà xã hội học, xuất bản luận văn chứng minh khu vực cao nguyên có đủ những yếu tố cần thiết như lịch sử, văn hóa…. để thành lập một quốc gia.]
Sách báo ủng hộ Fulro đều nói Fulro chống VNCH và VC lại bằng quân sự và chính trị. Những tài liệu nầy nại sự việc một số Fulro trốn trong tòa đại sứ Mỹ ở Pnom Penh lúc Khmer Rouge chiếm Cambodia 1975, được / bị giao cho Khmer Rouge giết sạch. Thực tế Fulro luôn là con cờ của khối CS tuy thay hình đổi dạng liền liền. Fulro đã hạ súng giao cho Liên Hiệp Quốc rồi nhận vũ khí của Tàu.

Nay có tin Fulro gây rối ở Cao Nguyên làm khó chính quyền CSVN đòi tự trị. Người không thích CS lấy làm thú vị: kẻ thù của kẻ thù là bạn của ta. Tâm lý ấy quá tầm thường và nguy hại.
Cao nguyên hiện nay là vùng khai thác Bauxite. Vụ Bauxite được dựng lên, la lên cho qua lườn. Trung Cộng đã thành lập những khu tự trị và có bản hiệu hoàn toàn chữ Tàu, không như thời ông Diệm phải song ngữ Hoa Việt. Trong cuộc bàn tán xôn xao ấy, Võ Nguyên Giáp ăn có một cách chuyên nghiệp nhà binh, ông nói không thể để cho Tàu chiếm vùng Boloven, là cao địa là đòn dông nóc nhà của Đông Dương. Như chúng tôi đã thưa phía trên: ai chiếm cao nguyên sẽ chiếm Đông Dương. Bắc Kinh sẽ không nhã miếng mồi ngôn nầy cho Y Bun, Y Thiện, Y Kha, Y Thih ….
Trung Cộng vũ trang người Thượng để làm gì nếu không để làm lính cho các khu kinh tế nầy. Còn nhớ Nga thuê đảo Crimea của Ukraine rồi tổ chức trưng cầu dân ý đồng lòng gia nhập Nga. Trung Cộng sẽ làm vậy sau khi thuê những Y nầy để cùng những chú xìn thím xẩm mới đưa qua sẽ bỏ phiếu thuận làm con cháu của bác Mao, biến Cao Nguyên thành lãnh thổ hải ngoại như France d’Outre Mer.
Đưa tin, viết tin là nghề của ký giả. Đọc tin và thẩm lượng tin tùy từng độc giả. Nói thì nghe to tác vô lý, nhưng chuyện Fulro phải được đặt trong bối cảnh toàn diện về lịch sử và địa dư Đông Nam Á. Bajarara ra đời cùng thời với Trận Bà Bèo, Định Tường mở đầu chiến tranh du kích. Có vậy mới thấy Fulro là đứa con chung của đám bạch tuộc quốc tế; trong hậu trường, chúng “đồng nhi bất hòa”. Fulro đã phục vụ Lon Nol trong đợt cáp duồng người Việt thập niên 1960, dù Lon Nol có đứng về phía Tự Do. Người đọc vẫn còn thì giờ tìm hiểu câu nói của Georges Kalin: Lực Lượng Đặc Biệt Mỹ và Sihanouk ủng hộ chiến binh miền núi đánh lại Miền Nam.
(The US Special Forces and Sihanouk backed the Fulro Montagnard fighters who were fighting against the South of VN (South East Asia, a Testament).

 Xin tham khảo thêm Đồ Bàn và Saigon

từ Huế vào Saigon


Wednesday, June 5, 2024






Sông Biển

Tôn Thất Tuệ

Dòng sông y t quê em buông xung
xung đng bng sông Cu chn nhà anh.
Chiu Vàm Cng qua đò v Rch Giá
gp cánh bèo trôi dt t tri cao
anh cúi xung hi có gp em đâu tá
 mt phương nào nơđi núi Séno.
Bèo nói có, em đang ch đò Kháo Lúy.
Ôi dòng nước giúp ta dòng thông tho
hn cùng em  mt chn rt xa.

Bin rng ln vi lũ người đc ác
sóng hn man và gió tát nát thuyn anh
nhưng sông nh đâu đã gi yên lành
không cá su mà mt người như su
c bt em dưới hng súng bo tàn.
V Tây phương x người hay x Pht
có tinh yêu ma qu đón đường.

Cơn em, ma qu không nm được đu em
nên em thoát biên cương Lào Thái
chiếc xà rông cô gái Mường Khai
tâm hn Vit, em cười rt Qung Tr.
Cơn sông chiu kia không thác lũ
cho em ri nhng ngày xưa Vn Tượng
nhng mái chùa nơi ng tr tình thương.
Cơn nước đưa thuyn anh rách nát
đến b kia nhìn li đau thương.
Cơn em nm cơm nếp t
em nu khê nên anh thèm trách cá khét.
Gi cho em mây rng bát ngát
gió trên sông và bin lng tình em.----

ghi chú: một số lớn người Việt bên Lào lâu năm vượt sông Mekong vào các trại tỵ nạn như Nông Khai và được Thái Lan cho nhiều ưu đãi như đi lại dễ dàng ngoài trại, có thể đi làm công kiếm tiền. Thái xem Lào như anh em vì hai ngôn ngữ có thể hiểu nhau dễ dàng, thực phẩm, phong tục cũng gần giống nhau. Thái Lan đối xử tệ người Khmer và VN.
Nói về 1982, Thái biết sự trà trộn nầy nên tách số người Lào Việt đưa qua trại Sikiw. Còn nhớ cô Nga, gốc thị trấn Séno làm cho nhiều chàng trai ngớ ngẩn, xinh tươi trong chiếc xà rông dệt nhiều màu, rất sính tiếng Pháp, không nhai trầu như bố mẹ. Nhóm nầy đã đi định cư sớm ở Pháp, theo qui chế tỵ nạn trong lúc Thái gọi thuyền nhân VN là nhập cư bất hợp pháp và cầm tù. Bộ tam sên Ánh Vinh Huân là những người ngưỡng mộ chính. Huân và Vinh ở Úc, Ánh ở Mỹ.-

Bưu điện Nha Trang 1967







Tuesday, June 4, 2024

Cọp trắng rồng xanh

Tôn Thất Tuệ

Chúng tôi từ nhỏ đã mê say các hòn non bộ và có cơ may biết những hòn non bộ thiết lập từ xưa trong các chùa và nhà cổ; làm có sách vở. Điều chính yếu là hòn non bộ xây dựng trên quan niệm đối xứng nhưng bất đồng. Đó là tả long hữu hỗ và long ẩn hổ hiện. Hòn non bộ thì dễ vì sơn bên hữu cho nó cao, và bên trái cho một đường nước thấp thế là xong. Hòn non bộ như là một dương cơ thu nhỏ, một kinh thành, một đại địa, phản ảnh quan niệm trấn giữ cố điển của các kinh thành.

Long hổ tượng trưng cho sức bảo vệ thần linh, cũng tượng trưng sức mạnh âm dương. Theo quan niệm trên, thành Huế có cống Thanh Long, ở chỗ thấp thuộc về thủy. Trong lúc ấy Bạch Hổ rất cao dễ thấy, có thể vị tri nầy được đắp cao thêm. Đó là cây cầu vượt trên hói nhỏ mở từ sông Hương vào, đưa chúng ta qua làng Kim Long để đến Linh Mụ.

Hầu như tệ lắm là 50% người sinh ở Huế lầm cầu nầy với cầu Dã Viên qua sông Hương, nguyên gốc là con đường xe lửa Nam Bắc. Về cái tên thì chính thức được vua Minh Mạng đổi là Lợi Tế. Vô tình vị vua thứ hai nhà Nguyễn đã hủy bỏ sự bảo vệ kinh thành theo tin tưởng xưa. Phải chăng chẳng bao lâu về sau kinh đô thất thủ?

Mấy bữa nay trang nhà nói lui nói tới nhiều lần về cầu Bạch Hổ và cho rằng cái tên Kim Long là không đúng.

Chúng tôi đã bực mình hằn học trên một comment dưới hình cầu sắt qua sông đến Cồn Dã Viên mang phụ chú: Bạch Hổ do thi sĩ Hải Văn minh họa chính bài thơ của mình. Nhưng sau ít phút chúng tôi đã xóa vì biết rằng chính quyền địa phương đã đặt tên Bạch Hổ cho cây cầu lớn từ tả ngạn qua cồn Dã Viên và cây ngắn từ cồn đến Cầu Lòn là cầu Dã Viên.

Được biết thêm cầu Bạch Hổ xưa là cầu Kim Long. Về chính xác mới nhất và thực dụng, không nên dùng lý luận riêng, cảm tình riêng mà gọi khác với tên chính thức; nhất là hai cầu nầy sít vào nhau như hai cạnh của một góc vuông, bộ hành và khách du lịch cần được hướng dẫn chính xác. Vì lý do lịch sử hay gì đó, người Thái Lan không thích tên Bangkok bằng Kongthiep; họ vẫn có tên như Nhà Thương Kongthiep; ngân hàng Kongthiep nhưng thư tín quốc tế phải ghi Bangkok. Cũng như trên thư tín bạn không thể dùng Saigon làm địa chỉ ngoài bì thư.

Chúng tôi suy đoán rằng tên Bạch Hổ chuyển qua cầu sắt dựa vào lý thuyết mới giải thích Bạch Hổ là gì. Một số học giả tân thời, dùng thành ngữ "tả long hữu hổ" mà nói rằng cồn hến là tả long và cồn Dã Viên là hữu hổ. Cho nên cầu sắt là Bạch Hỗ. Theo hướng đi nầy, cây cầu từ Vy Dạ qua Cồn Hến tiếp nối đường Ưng Bình, hay cây cầu tương lai từ đường Nguyễn Bỉnh Khiêm Gia Hội băng qua sông sẽ gọi là cầu Thanh Long.

Vài nhà bình luận cho rằng Bach Hổ xưa đối xứng và tương ứng với cầu Gia Hội; thiết nghĩ chư vị chỉ nhìn theo bản đồ mà không nhớ quan niệm bảo vệ kinh thành. Không biết cầu Gia Hội làm từ lúc nào nhưng thế nào cũng làm sau Bạch Hổ; Bạch Hổ được thiết kế cùng thời với Thanh Long.

Chúng tôi không đồng quan điểm giải thích hai cồn là Thanh Long và Bạch Hổ. Hai cồn này chỉ đúng một vế tả hữu mà không đúng với ẩn hiện; cả hai thuộc về thủy, thấp như cống Thanh Long gần 'a ba toa' (lò sát sinh).Long hổ là hai kiến trúc nhân tạo trong lúc hai cồn nầy cấu thành tự nhiên.

Hai giang đảo nầy là hai của quý, hai tiền án cho kinh thành. Theo phong thủy, chúng đã giúp sông Hương trong thể tỏa và tụ sinh khí. Tỏa là chia ra, tụ là nhóm lai. Mọi mạch khí dù là sông hay núi, ứng với biến dịch mà có sinh khí thì phải chia ra rồi kết tụ vào nhau. Nếu hướng vào nhà là đường sinh khí thì đến bình phong chia đôi và tụ tại nhà.

Sông Hương đến trước Chùa Thiên Mụ thì chia hai bởi Dã Viên rồi tụ trước cột cờ, rồi tỏa ở cồn Hến rồi tụ trở lại để chảy ra biển.

Chúng tôi không làm công việc giải thích dịch lý, phong thùy v.v... mà định vị trí, ý nghĩa nguyên thủy của hai chữ Bạch Hổ. Ngày nay có lẽ kinh thành xưa Bắc Kinh của Tàu không còn tha thiết gì cái bạch hổ cái thanh long. Họ bảo vệ bằng drone, bằng vũ khi nguyên tử. Do đó mình sá chi phải quanh co Bạch Hổ Kim Long. Như Thuyền Tôn thì nói cho biết chuyện xưa, nay thì thành Thiền Tôn mà viết chữ Hán cũng khác.

Không ai tắm hai lần cùng dòng nước.Hãy yêu thương những gì không thể thấy lần thứ hai.

Sunday, June 2, 2024

Bắc râu ôn nớ đặt cằm mệ ni
Tôn Thất Tuệ
Chúng tôi không ngại trí đoản, can đảm viết mấy dòng vì bài là của cô Đinh Thị Quý Hương, chỗ quen biết sơ giao đã hơn 60 năm qua. Có nghĩa là viết sai thì cô nói giúp, không hạch xách chửi bới như các facebookers. 
Cô nói Boudha thực hành hạnh đầu đà mà giác ngộ. Tức là hạnh đầu đà đã có trước khi Phật Thích Ca ra đời, không phải là sáng kiến riêng của PG mà của chung nền văn hóa Ấn Hà. Nhưng PTC không giác ngộ bằng con đường đầu đà ấy. 
Sau khi bỏ ngai vàng, Ngài theo con đường khổ hạnh. Nhưng cách khổ hạnh của thái tử Tất Đạt Đa còn khổ hạnh hơn cả 13 pháp nói trong bài. Ngài khổ hạnh, thân thể gầy đét không mát da mát thịt như Thích Minh Tuệ. Ngồi ở gốc bồ đề, Ngài gần chết và sống lại nhờ bát sữa của cô bé chăn dê Chan Đa. Chính nhờ cơ duyên nầy Ngài thấy thân và tâm bất nhị và thấy trung đạo là tri kiến của chư Phật. Nói theo kiểu bây giờ, không hoàn toàn vật chất hay hoàn toàn tinh thần. Ngài giác ngộ rằng Phật tính là thường tồn và bẩm sinh, luật nhân quả, lý duyên khởi, quảng diễn thành tứ diệu đế, bát chánh đạo, thập nhị nhân duyên v.v… Khi Ngài không còn theo khổ hạnh tối đa nữa, những người cùng tu học đều bỏ Ngài; nhưng khi thành đạo Ngài đi tìm những bạn cũ chia sẻ kinh nghiệm tâm linh. 
Nhiều học giả đã dùng sự hiểu biết về đầu đà mà đồng hóa Thích Minh Tuệ với Thích Ca là điều sai lầm. Phật theo trung đạo cho nên Ngài vẫn còn giữ một vài điều trong 13 hạnh đầu đà: mặc áo bá vá, khất thực và ngọ thực. Vì theo trung đạo, kinh Niết Bàn đã dành hai chương rất dài nói về cái không thành quả bằng những phương cách lập dị như đi một chân, treo một cánh tay lên mái nhà hay cành cây. 
Chúng tôi xin kể những điều Phật không làm trong 13 hạnh nầy. 
1. Nghĩa địa tọa và độc cư. Phật sống trong những tu viện gọi là Tăng Già, ở những nơi rộng rãi xây cất làm chỗ dạy, ví dụ Cấp Cô Độc Viên. 
2. Ngồi mà không nằm. Tượng Phật nằm có khắp nơi. Thế nằm của Đức Phật rất đặc biệt, ngày nay y khoa khuyến khích làm theo vì chận a xít trong bụng đưa lên cổ. Kinh Niết Bàn tả những năm cuối của Phật; Ngài thường nằm nghỉ và nằm khá lâu trước khi chết giữa hai cây Sa La. Nếu Phật không nằm giường thì ít ra Ngài cũng nằm trên chiếc chiếu cói hay bằng tre như vạc giưởng. Kinh Kim Cương nói sau khi dùng cơm, Ngài tự đi rửa bình bát, tự trải chiếu ngồi thuyết pháp. Trước khi có tượng Phật do ảnh hưởng của Hy Lạp, người dân thờ Phật bằng một trong hai hình ảnh: dấu chân Phật và chiếc chiếu cuốn tròn, viên tịch. 
3. Không giao tiếp. Phật giao tiếp với mọi hạng người như Ngài khổ công đến tận nhà các nhất xiển đề thuyết giảng để gieo căn lành; đã giải hòa các quốc vương. Ngài nói các vị Phật mười phương, hiện tướng lưỡi dài nói đến tam thiên đại thiên thế giới lời thành thật của Phật. Phật thuyết giảng từ những chuyện nhỏ như sống với cha mẹ cho đến hoa tạng, cảnh giới phi phi tưởng. Nếu Shakespeare đã tạo ra vô số chữ mới thì Ngài có lẽ tạo ra một rừng thuật ngữ PG mà văn minh Hy Lạp chưa biết tới. 
4. (không ghi trong bài) Một trong những hạnh đầu đà là không ở một nơi nào quá hai đêm, đến ngày thứ ba là phải đi. Mục đích tránh ở lâu gây cảm tình đối với người khác và làm cho người khác có cảm tình với mình. Trong lúc ấy Phật trong mùa mưa là mùa hè không cho phép ai ra khỏi tăng già, ở luôn ba tháng để tu học. Đó là tập tục kiết hạ. Việc vô hạ rất quan trọng. Khi nói đến một vị sư thì kèm theo 15 hạ, 30 hạ v.v... như 15 tuổi đảng. Vô hạ ở VN xưa từ 15 tháng tư đến 15 tháng bảy.

Nhiều người nói rằng Thích Minh Tuệ tu theo chánh pháp, là không đúng về nghĩa và sự. Chánh pháp không phải là pháp môn, thứ đến cách tu của thích MT không giống Phật Thích Ca. Nhiều lần Phật nói với An Nan giới luật sẽ thay đổi tùy hoàn cảnh. Hạnh ngọ thực được đề cập trong kinh Thiện Thệ, bên cạnh những giới luật khác như rượu. Phật nói Ngài không yêu cầu mọi người chỉ ăn một bữa, nhất là kẻ làm việc nặng. Ăn một bữa không phải là cứu cánh, tuy vậy người trong tăng già phải theo. Thứ nhất, chúng tăng không làm gì, ăn do kẻ khác nấu. Các thầy trước khi xuất gia đều đã học ở các trường phái khác cách thức nhịn đói dài ngày, nay ăn một bữa có chết ai đâu.
(đoạn dưới viết tiếp comment FB)
Một ông người Nam đệ tử của Đức Huỳnh Giáo Chủ nói rằng Thích Minh Tuệ không tắm như ngày xưa Phật Thích Ca không tắm. TMT là Phật chứ gì. Không tài liệu kinh điển nói Phật Thích Ca có tắm hay không. Nhiều xứ theo PG quanh Ấn Độ có tập tục tắm Phật. Vậy xưa Phật còn sống có tắm chăng. Nếu không tắm là Phật thì Mao Trạch Đông là ông Phật duy nhất trong hai thế kỷ nầy. Mao không bao giờ tắm. Mao bị lậu gian mai không uống thuốc, bác sĩ riêng phải nói dối là thuốc đau đầu như Aspirine Tylenol, tuy là trụ sinh. Nhiều video ghi lại lời TMT rằng ông dùng vải cũ làm y và xuống sông tắm và bài tiết ở các cây xăng.
Ở nơi nước mặn đồng chua, có câu 'tắm lửa ngủ nước'. Chỉ có cái mùng trùm đầu, còn toàn thân phải nằm dưới nước trong ghe để khỏi bị muỗi chích. Tắm lửa là không có nước; bèn đốt rơm nhảy qua nhảy về cho mồ hôi ướt người và lấy khăn lau.
Ông cư sĩ nói trên và một ông sư khác khen TMT có thể đi bộ trong nắng mà đi chân không, chỉ có Phật mới làm được.
Phật giáo cổ truyền chính thống thứ thiệt ở Tây Tạng cấm các thầy làm các phép lạ. Phép lạ thường hiểu là sức mạnh trên mức bình  thường supranatural power mà con người có thể luyện, như hơi gió chưởng lực có thể làm vỡ gạch, bể chai; các thầy có thể luyện nội lực ngồi trong tuyết vài giờ. Nhưng biểu diễn là sai với giới luật nhà Phật vì nó có thể gây mê hoặc cho kẻ khác và biến đổi nội tâm của người làm phép lạ.
Đó là sai lầm của Spalding đã ngụy tạo cuốn sách Hành Trình Về Phương Đông mà một học giả VN đã khai thác và được khen là Phật sống. Fakir có thể làm nhiều điều kinh khủng hơn việc TMT đi dưới nắng. Fakir biểu diễn kiếm tiền, như nằm trên bàn chông ...
Việc vượt qua vài khó khăn của TMT có thể giải thích bằng ý lực khi Phật thuyết về tâm lực. Trong sương mờ, một người thợ săn giương cung bắn con cọp để thoát chết nhưng thực ra là một tản đá. Có điều lạ là mũi tên bằng tre cắm vào đá một độ sâu như bình thường tên tre sâu vào thịt cọp. Ý lực mọi người đều có, chỉ hiển thị trong tình trạng khẩn cấp. 
Sự huyền thoại hóa rất nhịp nhàng từ những nhà học giả cho đến bình dân cùng báo chỉ của nhà nước, làm cho những người biết phân tích tình báo phải chờ xem. Giống như chuyện Phật Ngọc, phối hợp đủ mọi ngành, cái viện Phật học to nhất thế giới ở Úc do tiền Phật ngọc làm ra cũng chưa có trên họa đồ. Một vị tiến sĩ VN đã quả quyết Phật Ngọc là hình thể đức Phật làm xúc địa ấn. Ông nầy coi thường mọi người. Hai tay làm ấn thì làm sao ôm bình bát. Con nít cũng thấy. Xúc địa ấn (ấn tiếp xúc với đất) gồm bàn tay trái ngửa lên trời đặt trên vế trái. Tay phải, ngón cái chụm vòng với ngón nhẫn, thỏng xuống đất từ cườm tay trên vế phải. Ông tiến sĩ nói vậy vì muốn nói Phật ngọc là Phật thiệt, không bị chê là không có tượng ngồi ôm bình bát, chỉ có đứng.

Bài trên FB của Đinh Thị Quý Hương (May 29

CÓ THỂ NHIỀU NGƯỜI CHƯA BIẾT.
________________________________
"13 pháp tu khổ hạnh đầu đà" là những pháp tu khắc khổ mà ngài Buhhda đã thực hành đến độ giác ngộ:
1. Mặc y phấn tảo (Pamsukulikanga): Chỉ mặc y phục làm từ vải vụn nhặt được, không nhận y phục mới.
2. Chỉ ba y (Tecivarikanga): Chỉ sử dụng ba bộ y phục, không dùng thêm bất kỳ bộ y nào khác.
3. Khất thực (Pindapatikanga): Chỉ ăn những gì nhận được qua việc khất thực, không tự nấu ăn.
4. Nhất tọa thực (Sappadanikanga): Chỉ ăn một lần trong ngày, không ăn thêm vào các bữa khác.
5. Ngọa cụ (Aranyakanga): Chỉ ngủ trong rừng, không ngủ trong nhà hay nơi có mái che.
6. Thường tọa (Rukkhamulikanga): Chỉ ngủ dưới gốc cây, không ngủ trên giường hay nơi nào khác.
7. Nghĩa địa tọa (Abbhokasikanga): Chỉ ngủ ở nghĩa địa hoặc những nơi không người ở, không ngủ nơi đông người.
8. Chúng tụng tọa (Ajasarikanga): Chỉ ngủ ở nơi chúng tăng tụng kinh, không ngủ riêng lẻ.
9. Thường ngồi (Nesajjikanga): Chỉ ngồi, không nằm để ngủ hay nghỉ ngơi.
10. Nhàn cư (Yathasanthatikanga): Chỉ ở nơi yên tĩnh, xa lánh đám đông và ồn ào.
11. Độc cư (Pavivekkanga): Sống một mình, không giao tiếp với nhiều người, tập trung vào tu hành.
12. Không giao tiếp (Uttarakangal): Hạn chế nói chuyện, chỉ giao tiếp khi cần thiết, tránh nói chuyện không có ích.
13. Ngồi im lặng (Sussusikkanga): Ngồi yên lặng, không cử động nhiều, tập trung vào thiền định và suy ngẫm.
Những pháp này giúp người tu tập rèn luyện tinh thần kiên định, từ bỏ cám dỗ, các tiện nghi vật chất, đạt đến sự thanh tịnh tâm hồn và tinh khiết.
Nhìn vào 13 pháp tu này thì thấy đám đông đang quanh quẩn bên thầy Thích Minh Tuệ là đang làm phiền Thầy một cách quá đáng; Thầy đã đi cả 6 năm nay rồi chứ có phải mới đi đâu! Thật buồn!
Theo Đinh Thị Quý Hương