add this

Wednesday, January 8, 2020

con sông nào đã xa nguồn

                 
                         
                         tranh Lương Lệ Huyền Chyêu
Con Sông Nào Đã Xa Nguồn 
 Hunh Trnh Tuyết Hoa

 Lâu lm, ch chưa v quê ăn Tết,
 Không biết th trn mình thay đi ra sao,
 Gió xuân sang trong d c cn cào,
 Nghe thao thc điu chi không rõ được.

 Em gi ch, bo ch v chơi Tết,
 Xuân ca đt tri, đâu cũng là xuân.
 Nhưng ch ơi, ngày đoàn t gia đình,
 Ly rượu nht cũng mm môi nng m.

 Má đã chun b mt ni bánh tét,
 Chiu ba mươi đượm la khong vườn sau,
 Ai đi xa còn thương nh hương cau,
 Nóc tru xanh tay già run run hái lá,
 Lung rau non vn vương mùi rơm r,
 Tím hoa cà, vàng hoa ci bâng khuâng.

 Mâm cơm tt niên sao thy nng lòng.
 Nh qut quay nhng ngày còn thơ u,
 Nhà đông con lũ tr rn ràng qun áo mi.
 Ba má âu lo... con gái ln c ri.
 Ri tng đa chúng mình, ln lượt chia tay,
 Đi theo gã đàn ông người dưng nước lã,
 Có tên gi là chng.
 Ri t đó mùa xuân chia làm hai na,
 Phía bên nào cũng níu kéo nim vui,
 Tết bên chng còn nh ch nm nôi,
 Có cha m, anh em sum vy,
 Đêm giao tha, thơm trm hương nghi ngút.
 Ri ba má v nơi tch lng.
 Quá kh mt thi, ca gài yên ng
 Nếp nhà cũ trong chiu, loang bóng nng,
 Bông giy tím kh rơi, tràn sân vng,
 Đâu hết ri? anh ch em xưa
 Ch! Ch ơi! Mùa xuân li tr v
 Nh dùm em, mt n cười thơ u...
 Ch nơi xa, mt mình đau đớn.
 Nước mt nào hoen má gia ngàn Xuân.

                                                                     ****************
                  Symphonie Pastorale
         

      See the source image
                                            Chợ hoa Tết Saigon đường Nguyễn Huệ thời xưa kia


Thursday, January 2, 2020

twenty twenty, yes; fifty fifty, no



Lời chúc đầu năm 2020
Tôn Tht Tu

Cả tuần qua, tưởng là bể cái đầu, không phải là nhức đầu mà mấy mạch máu ngoài da đầu đau không chịu được nếu đọc viết chừng một giờ, lại phải đi ngủ thì nó bớt. Từ đầu gối xuống bàn chân “phồn vinh giả tạo” tức là thủng, như kiểu các bà bầu, thai nhi đè các động mạch hay tĩnh mạch.
Mấy ông bạn “quá đát” lo giúp cái đầu bể vì chứa quá nhiều thứ tào lao xị bộp, ấm ớ hội tề. Như hai ôn Hoàng Tá Thích và Võ Hương An. Võ Quân (không phải võ biền nhé) khuyên tôi không
 nên coi nhẹ phồn vinh giả tạo, phồn vinh nầy trong trại cải tạo vì thiếu ăn còn đây mình thì over eating mới khổ chơ; ông nhắc câu: Nam túc nữ mục; liền ông sợ có chi ở chân, liền bà lo con mắt. Một ông bạn “đệ thất 1952” chuyên môn hơn vì là thầy thuốc: thủng có thể vì uống thuốc cao máu, tim yếu, thận suy, tĩnh động mạch nghẻn.
BS Lê Kim Lộc con nhà doanh nhân, số 1, đường Huỳnh Thúc Kháng, Hàng Bè, Gia Hội, không nói đến sự tắt nghẻn, bế tắc tư tưởng, ông chỉ lo động tĩnh mạch bị đắp mô như VC đắp mô. Tuy vậy ông nói đau ngoài da đầu vì căng thẳng thần kinh.
Thiệt ra không thể nói là không có căng thẳng thần kinh, vì không theo “haute politique” Phật Giáo hóa cuộc đời một cách rất chính trị, dạy quên đi những khó khăn thời cuộc vì cái gọi là đổi đời. Tôi cũng không tự lý tưởng hóa như Đặng Dung nợ nước chưa xong, đành mài gươm dưới ánh trăng. Vì trăng mờ, “người hẹn cùng ta đến bên bụi chuối”, tuy không có tà ý như Vân Tiên chờ khi trăng lặn đớp hồn Nguyệt Nga.
Tôi đã áp dụng “vô ngại” khá nhiều trong cuộc sống. Lý vô ngại, sự vô ngại, lý sự vô ngại, sự sự vô ngại; khai thông những vụ đắp mô như mô đắp trên quốc lộ hay tỉnh lộ. Nhưng không thể thành công như một số người đã tự cho mình là thiện trí thức trong công thức cổ điển “an bần lạc đạo”.

A
n bần, không muốn an bần mà phải an bần, chúng tôi đâu có muốn ăn sắn (khoai mì) nhiều chất độc thay gạo. Đâu có muốn lượm tàn thuốc bỏ vô nõ thuốc lào bắn lên cung trăng. Chúng tôi thèm điếu Philip Morris trong túi bác Hồ.
Lạc đạo. Lạc đường, lạc lối, đạo lạt như nước bọt. Đạo ư? quên mất “thiên trời địa đất tử mất tồn còn tử con tôn cháu lục sáu tam ba” mà viết chữ đạo thành ăn trộm ăn cướp, hóa ra mà hay. Bạn mình thử nghĩ xem mình có còn bị ám ảnh chuyện gì không. Một người Arab đang tuổi về già buồn vì thế giới Arab quá nhiều bạo động – từ từ nhé bà con – mà chính ông ta lại không làm được những bạo động. Thế mới buồn chơ. Lớn lên trong không khí bạo động, được dạy bạo động, cho xem những vụ chặt đầu … treo cổ bằng xe cần cẩu (crane) mà vì quá nhiều lý do không làm bạo động được.

Tôi e rằng ai ai cũng bị ám ảnh không phải vì những thành công vinh hiển mà vì những gì mình tưởng có thể làm mà không thể làm. Cụ thể sự “đổi đời” làm chúng ta có thể tưởng tượng một lão ông buồn phiền không đến phiên mình làm chánh án nhân dân tuyên án tử hình, hành quyết ngay một tên địa chủ, khi thiên hạ trời đất đã quá ể vụ nầy.
Con cá sẩy bao giờ cũng lớn; cho nên nỗi buồn “vì không” lớn hơn. Những cái không nầy thành những “cái có” rất thật, nó không mất đi vì lý thuyết biện chứng hay ngũ uẩn giai không. Chỗ nầy gần giống với kế toán thương mãi; bilan commercial, feuille double… có ghi những thua lỗ không đạt được như mong muốn.
Đừng nghe mấy thầy thiền dạy bỏ tham ái, để không buồn nhớ ám ảnh về những cái buồn không nầy. Nghe mệt quá như ngồi ở Coins des blagueurs nghe phách tấu đùa vui. Tham ái chính là bản năng, đêm tối mắt sáng hơn khi có đèn. Đó là cảnh: đầu đội mũ bê rê khu chóp đỏ, vai mang bị đạn, bọp con cò. Rất người, rất tự nhiên không giả hiệu tâm bất động trong thiền ôm.

Làm “bilan” thì thấy quá nhiều điều không thực hiện được.
Huế, một buổi chiều không núm lại được “buổi chiều”, để “buổi chiều” trôi xuôi hay bước xuống đò qua sông. Đà Lạt, một buổi sáng không giữ được “buổi sáng”, để “buổi sáng” theo ánh mắt xuống khuất trong thung lũng sâu. Những nam mô, những amen chẳng làm đếch được gì người ơi.
Lại những đổi thay thời cuộc, làm mình cảm thấy không bằng con kiến con ong hút chút đường đem về tổ khi mọi người và chính mình sắp vào tử huyệt đói cơm.

Tôi viết những chữ vớ vấn nầy như những mảnh vỡ tâm hồn rơi rụng ngoài sân. Viết vào khoản thời gian kỷ niệm hằng năm Đức Cồ Đàm thành đạo.

Tôi đói cơm như Ngài đói cơm. Ngài nhờ chén sữa của bé chăng dê Chiên Đà mà sống lại để giác ngộ, còn không thì cũng teo bu ri như cả làng Ukraine vào nạn đói thời Staline 1932. Khi gần chết, Ngài cũng phải ăn chén cơm Thuần Đà dâng mà đủ sức làm lời chúc lũy cuối cùng.
Saluto Gautama.
Ngài có quyền “enjoy” hưởng thụ sự giác ngộ giải thoát một mình, nơi rừng sâu hoặc dấng thân vào bụi trần mà không dính trần ai. Ngài giữ riêng báu vật ấy. Nhưng ai xui Ngài đến dòng sông nhìn xuống nước quyết định chia xẻ với đời, chuyển pháp luân (Turning the Dharma Wheel).

Nhờ chiêm nghiệm từ chén sữa của bé Chiên Đà, Ngài đã không đi xa thực tế, biết sự hiện diện của thân để không bềnh bồng trong tâm; nói theo lối hiện nay không xóa bản năng một cách thô bạo theo lối của những kẻ muốn làm thiên thần (hélas, qui fait ange fait bête).
Hậu thế biếu Ngài danh hiệu “lưỡng túc tôn”. Không phải là kẻ có hai chân mà là kẻ có hai sự đầy đủ: vô biên phước, vô biên trí. Dĩ nhiên Ngài không làm ra cơm như một nông dân cày ruộng; nhưng cái không làm (vô vi) ấy chính là làm cho loài người biết rõ sự cần thiết của miếng ăn, tạo ra môi trường thuân lợi để có miếng ăn. Chúng tôi, những nhà hành pháp lập pháp, kế hoachh gia…tất cả dựa lên tinh thần nhân bản (thiên thượng thiên hạ, duy con người độc tôn).

Tôi tin Ngài. Ngài nói giảng xong Diệu Pháp Liên Hoa Kinh là Ngài có thể chết không ân hận gì. Kinh bắt đầu với Văn Thù Sư Lợi, tức là về đại trí, biết rõ đường tơ kẻ tóc, tứ phương thượng hạ, kim cổ vảng lai rồi chấm dứt với hạnh nguyện của Phổ Hiền giữ cho mọi người an lạc. Dĩ nhiên ở đây tôi hiểu theo ý tại ngôn ngoại một cuốn kinh dài lê thê.
Từ hai chỗ sung mãn phước và trí, tôi nhớ 2020 năm dương lịch mới bắt đầu. Twenty twenty. Tôi liền lập câu nguyện gởi đến thân hữu bà con nội ngoại bên vợ bên chồng:

Chúng ta mọi người, bất kể giàu sang, chính kiến, tôn giáo… đều có cuộc sống được phê điểm cao nhất, tối ưu 20/20. Twenty twenty vững chắc chứ không bấp bênh fifty fifty, năm ăn năm thua.

Cẩn bút trong rừng vắng xứ người

TB: Cảm ơn bạn Lê Kim Lộc, tôi đã ngưng uống Atorvastatin trị cholesterol nên hết đau da đầu; đã hẹn đi khám bệnh.

See the source image
 Đà Lạt một buổi sáng không giữ được “buổi sáng”, 
để “buổi sáng” theo ánh mắt xuống khuất trong thung lũng sâu

======================

Saturday, December 28, 2019

Kinh tế ngoài trường quy



Against economics
David Graeber *** ttt dịch

Giới trách nhiệm quản trị các nền kinh tế rộng lớn mang cảm nghĩ rằng khoa kinh tế không còn giữ đúng mục đích nguyên khởi; nói khác, khoa nầy đã được hình thành để giải quyết những vấn đề nay không còn nữa. Một ví dụ đáng chú ý là ám ảnh của sự lạm phát.

Khoa nầy dạy sinh viên rằng mục đích kinh tế tối yếu của chính phủ là bảo đảm sự ổn định giá cả, phải canh chừng nguy cơ của lạm phát. In tiền vô tội vạ tự nó mang tính chất của một tội trọng. Nếu lạm phát được cầm chân qua sự phối hợp hành động của chính phủ và ngân hàng trung ương, thì thị trường duy trì một mức khiếm dụng hữu lý và kinh tế phát triển vững chắc. Chính phủ phải tự giới hạn trong phạm vi quản lý nguồn tiền tệ.

Xuyên qua chủ trương tiền tệ làm gốc (monetarism) thập niên 1980 và 1990, những ý niệm trên đây là tri thức căn bản trong mọi cuộc thảo luận về nguy hại của sự tiêu dùng công quỹ. Giới học thuật vẫn nói năng như vậy, tuy sự thật bên ngoài không như vậy. Sau vụ ngưng trệ thụt lùi 2008 (Great Regression), các ngân hàng trung ương in tiền táo bạo để tạo ra lạm phát và ép người giàu dùng tiền của vào việc hữu ích. Nhưng kết quả không thành công cả trong hai điều mong muốn.

Nay chúng ta sống trong một thế giới kinh tế khác với thời trước cuộc khủng hoãng nầy. Thất nghiệp trầm trọng không làm gia tăng mức lương. In bạc không tạo ra lạm phát. Tuy nhiên ngôn ngữ trong các cuộc luận bàn công khai, “trí khôn trong sách vở” vẫn giữ nguyên không si sích.

Kinh tế không được dạy như một bản lược trình các lý luận, các lý thuyết trái ngược như ở mọi khoa học xã hội khác; trái lại ngày nay làm như một môn học giống như vật lý, tiến gần đến chân lý phổ quát của toán học. Dĩ nhiên vẫn có những lý thuyết kinh tế “ngoài trường quy” (như nữ quyền, Austrian …) nhưng đều không được đưa vô chương trình học. Kinh tế gia thuộc nhóm nầy được xem là lập dị, tuy họ đã nhiều lần đoán đúng những biến cố trong đời sống kinh tế thực sự.

Nước Anh là quốc gia chứng kiến nhiều nhất sự khác biệt giữa đàm luận công cộng và thực tế kinh tế; không nơi nào nặng nề bằng, có lẽ Anh là nước đầu tiên có rạn nức. Đảng Lao Động (trung tả, center left) cầm quyền trước khi có vụ sụp nát năm 2008 (Great Regression), phản ứng của cử tri với khẩu hiệu “đuổi bọn vô lại” đã đưa đến một loạt chính phủ Bảo Thủ. Từ đó, quốc gia nầy đã nhận ra rằng bài học khắc khổ được tiếp nhận êm xuôi bởi quần chúng Anh, qua sự đồng thuận về những quyết định nhằm xóa bỏ chính sách bảo trợ (welfare state) và tái phân lợi tức theo hướng đi lên, nghĩa là vô tay người giàu.
“Không có cây tiền bạc thần diệu”, câu nói của nữ thủ tướng Theresa May được nhắc nhở nhiều nhất, tuy nó được thốt ra trong một cuộc bầu cử buồn nãn nhất của lịch sử đảo quốc; khi có người hỏi tại sao Anh là nước Tây Âu duy nhất đòi đóng học phí đại học hay khi hỏi phải chăng quốc gia cần có rất nhiều người ngủ ngoài hè phố.

Giá trị đặc biệt của lời nói nầy là ở chỗ nó không đúng. Có vô số cây tiền bạc thần diệu ở nước Anh và các nước phát triển khác. Đó là những ngân hàng. Vì tiền trong thời hiện kim chỉ đơn giản là tín dụng, ngân hàng có thể tạo ra tiền theo nghĩa đen từ chỗ không có gì, bằng cách đơn giản là cho vay. Hầu hết tiền bạc luân lưu hiện nay ở Anh là do ngân hàng tạo ra theo cách nầy. Không những quần chúng không biết điều nầy, mà đa số dân biểu nghị sĩ cũng không biết tiền đâu ra, cứ tưởng là do Xưởng In Hoàng Gia ấn hành.
Vì nhiều lý do, các kinh tế gia không biết hết vai trò của ngân hàng. Nhưng họ đã dùng khá nhiều ngày tháng của thế kỷ 20 để thảo luận tìm tòi những điều gì thực sự đã xẩy ra khi có người nạp đơn vay tiền. Một trường phái nhấn mạnh rằng ngân hàng đã chuyển trữ ngân hiện có; trường phái khác cho rằng ngân hàng làm ra tiền mới; nhưng cả hai đều dựa vào căn bản “hiệu ứng bội nhân”.
Chỉ có một nhóm nhỏ kinh tế gia ngoài trường quy đưa ra “lý thuyết điều hoạt ngân hàng là sự tác tạo tín dụng” (credit creation theory of banking): ngân hàng chỉ vung chiếc đủa thần làm cho tiền xuất hiện, hoàn toàn tin chắc khi được cấp một tín khoản (dù cả triệu MK) thân chủ sẽ ký thác trở lại vào ngân hàng; như vậy xuyên qua toàn thể hệ thống, tín dụng và món nợ trung hòa nhau. Thay vì tiền vay dựa vào sự ký thác, ở đây ký thác là kết quả của vay mượn.

Năm 2014, kinh tế gia Đức, Richard Werner, phát hiện rằng nhân viên cho vay không cần biết trữ lượng là bao, tiền đọng là bao, không cần biết gì hết. Người ấy chỉ đơn giản tạo ra tiền từ thinh không, như trong cõi tiên.
Trước đây khá lâu, ngân hàng trung ương Bank of England đã phổ biến bản phúc trình tường tận Money Creation in the Modern Economy với ý chính như trên: sách vở hiện có - đặc biệt những tài liệu dựa theo quan điểm chính thống của chủ thuyết tiền tệ - đều sai lạc, khi cho rằng các ngân hàng trung ương mang sứ mệnh chính yếu là kiểm soát lượng cung ứng tiền bạc. Các ngân hàng nầy không kiểm soát nguồn tiền tệ mà chỉ ấn định lãi suất khi cho vay những món tiền đã tạo ra. Bank of England cũng vậy; khi chính phủ muốn vay thì không gom góp tiền từ khu vực tư mà tự tạo ra số tiền mới từ trước đến nay chưa có.

Phúc trình nầy không được các hệ thống thông tin nói tới. Các bài bình luận vẫn tiếp tục xuất hiện làm như thuyết tiền tệ vẫn có giá trị. Các chính trị gia quay quắt không hiểu tiền tài trợ các chương trình xã hội từ đâu mà ra. Hình như hai bên mặc thị thân ái hiểu nhau. Một bên là các nhà chuyên môn một bên là chính trị gia cùng ký giả sống trong hai thế giới tách lìa nhau.
Robert Skidelsky, 2013

Các học giả bắt đầu nhìn lại quá khứ với nhãn quan mới. Trong số đó có Robert Skidelsky với tác phẩm Money and Government: The Past and Future of Economics. Mặc dù bên ngoài có mục đích trả lời câu hỏi tại sao kinh tế học chánh hệ tỏ ra vô dụng trong thời gian trước và sau khủng hoãng 2008, cuốn sách kể lại lịch sử bộ môn nầy xuyên qua hai khía cạnh ít được bàn tới. Đó là chính phủ và tiền bạc.

Vấn nạn nằm ở bản chất của tiền bạc. Phải chẳng tiền bạc là một hiện vật cụ thể, một vật thể có giá trị làm cho việc giao hoán dễ dàng hay là một tín dụng, một phương thức kế toán, một sự tương thuận xã hội? Hai quan niệm nầy có khi dùng chung; có khi dùng một thời rồi bỏ mất rồi trở lại v.v… Thời Trung Cổ, giao thương hằng ngày trong vùng Á Tiểu Á (Eurasia) theo quan niệm tín dụng, tiền bạc là một sự trừu tượng hóa. Nhưng đến các thế kỷ 16 và 17, các đế quốc Âu Châu xuất hiện tạo nên một đợt sóng vàng bạc lấy từ Mỹ Châu, và quan niệm tiền bạc thay đổi.
Lịch sử cho thấy rằng quan niệm vàng khối là tiền bạc thực sự đã đánh dấu các giai đoạn có bạo động gia tăng toàn diện, nô lệ, có quân đội thường trực cướp bóc mà các đế quốc Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hòa Lan, Pháp và Anh đã biết rõ. Trong lãnh vực học thuật, lý thuyết về tiền bạc dựa trên vàng khối đã nầy sinh ra lý thuyết định lượng tiền bạc (quantity theory of money QTM).

QTM được đề xướng bởi Jean Bodin trong cuộc luận bàn về nguyên do tại sao lạm phát gây xáo trộn, đảo lộn giá cả ngay sau khi Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha chiếm Mỹ Châu. Theo luật sư người Pháp nầy, lạm phát chỉ là vấn đề cung cầu. Lưu lượng khổng lồ vàng và bạc từ các thuộc địa Tây Ban Nha đã làm hạ giá đồng bạc Âu Châu. Thương gia thời ấy cho rằng lẽ thường là như vậy. Tuy nhiên luận cứ nầy dựa trên những giả định sai lạc.
Một điều là phần lớn vàng và bạc khai thác ở Mexico và Peru không đem về Âu Châu, và do đó không được đúc thành đồng tiền. Hai quý kim nầy được trực tiếp chuyển qua Tàu và Ấn để mua gia vị, tơ lụa và các hàng xa xỉ Đông Phương. Nhưng lạm phát bắt nguồn từ việc đầu cơ các trái phiếu dưới nhiều dạng khác nhau. Do đó QTM không thể đem ra áp dụng giải thích.
Về trường hợp lạm phát thế kỷ 17 nầy, cần để ý đến các khía cạnh: tín dụng, tích rữ, đầu cơ, gia tăng nhịp độ sinh hoạt kinh tế, đầu tư vào kỹ thuật mới …nhưng không thể nói yếu tố nào quyết định, phải chăng nguồn tiếp liệu tiền bạc ảnh hưởng giá cả hay giá cả ảnh hưởng nguồn tiếp liệu tiền bạc. Về mặt chuyên môn, có thể chọn lý thuyết nội sinh hay ngoại sinh (endogenous, exogenous theory). Tăng gấp đôi số vàng trong một xứ không ảnh hưởng đến giá thịt cá rau quả nếu số quý kim mới nầy bán cho người giàu đem chôn hay thay gỗ làm ghe thuyền đi dạo. Chính sự tiêu dùng mới gây ảnh hưởng kinh tế.

Tuy nhiên từ thời Bodin đến nay, QTM vẫn thắng trong các cuộc tranh luận và ấn định chính sách tài chánh. Tại Anh năm 1696, ngay sau khi Bank of England được thành lập, xẩy ra vụ tranh luận, một bên gồm bộ trưởng ngân khố William Lowndes cùng giám đốc xưởng đúc tiền Isaac Newton và bên kia là triết gia John Locke. Newton đồng ý với Ngân Khố rằng đồng tiền bằng bạc (silver coin) phải được hạ giá để chận đứng suy sụp vì thiếu tiền luân lưu (deflation). Locke theo thuyết tiền tệ đến cùng tột, cho rằng chính phủ phải tự giới hạn trong nhiệm vụ bảo đảm giá trị của tài sản (gồm cả đồng bạc nầy); sụt giá làm cho giới đầu tư mất định hướng và thiệt hại kẻ cho vay. Locke đã thắng cuộc.

Image result for fiat moneyKết cuộc là sự thảm bại vì thiếu tiền luân lưu; tài chánh bị siết chặc đã làm nền kinh tế co rút; hàng trăm ngàn người thất nghiệp, thiếu hụt sản phẩm, biểu tình, và nạn đói. Chính phủ phải đưa ra các chính sách ôn hòa (trước tiên là cho phép ngân hàng giải quyết nợ chiến tranh của chính phủ bằng những giấy nợ và tiếp theo là bỏ hẳn ngân bản vị). Tuy vậy trong thời gian kế tiếp, các cuộc tranh luận vẫn dành phần thắng cho quan điểm của Locke chủ trương chính phủ giới hạn, ủng hộ người cho vay và đồng bạc “cứng”.


Tác giả Skidelsky cho biết khuôn mẫu nầy được lập lại nhiều lần, năm 1797, thập niên 1840, 1890 và thập niên 1970 với nữ thủ tướng Anh Thatcher và tổng thống Mỹ Reagan.
Những biến chuyển nầy cho thấy trình tự kinh tế như sau:
1.  Chính phủ theo chính sách tiền cứng.
2. Thảm nạn kinh tế xẩy ra.
3. Chính phủ âm thầm bỏ chính sách tiền cứng
4. Kinh tế phục hồi
5. Triết thuyết tiền cứng trở lại đàm trường đóng vai trò nhận thức bằng “lẽ thường”.

See the source image

Phần nào để giải thích lý do cả một chuổi thất bại liền nhau, tác giả nại ý kiến của David Hume. Triết gia Scottland nầy đưa ra quan niệm rằng các chấn động bất lợi ngắn hạn có thể đem đến những mối lợi dài hạn nếu chúng đủ sức khai mở sức mạnh tự điều chỉnh của thị trường. Từ đó, các kinh tế gia phân biệt các hiệu ứng ngắn hạn và dài hạn của các sự thay đổi kinh tế, gồm cả các thể lệ can thiệp của chính phủ.

Sự phân biệt nầy nhằm bảo vệ lý thuyết quân bình. Ngắn hạn ở đây tiêu biểu một giai đoạn trong đó thị trường (hay kinh tế thị trường) tạm thời tách khỏi vị trí quân bình dài hạn vì tác lực của những chấn động ví như quả lắc rời khỏi vị thế ngưng nghỉ. Do đó chính phủ hãy để thị trường tự tìm vị trí quân bình. Sự can thiệp của chính phủ để sửa các lệch lạc chỉ làm vấn để phức tạp hơn.
Lập luận nầy không tránh vài sơ sót có tính cách duy lý. Tiền đề rằng thị trường luôn luôn có lý, đúng, vào chung cuộc chỉ đứng vững khi có sự đồng thuận của mọi giới xác định lúc nào là chung cuộc.  Kinh tế gia cho rằng ấy là lúc quân bình nhưng vẫn rất mơ hồ.
Các chính sách siết chặc tiền tệ (có lợi cho chủ nợ và người giàu) được biện minh như thuốc đắng chận đứng vật giá leo thang, ngõ hầu thị trường có thể trở về trạng thái cân bẳng cũ trong dài hạn.

Cuộc canh tân trọng yếu là thuế lợi tức thâu đầu tiên năm 1814, và tái tục năm 1842 dưới trào thủ tướng Robert Peel. Cho đến 1914, thuế nầy là nguồn lợi tức chính yếu của công quyền. Chính quyền tân thời không chỉ có một phương cách nầy mà thôi, vì còn nhiều thứ thuế như địa ốc, thuế thương vụ, thuế tiêu thụ …Thuế lợi tức nhìn theo chủ thuyết tự do xâm nhập đời tư và gây khó chịu cho người dân.
v

Khoản giữa thế kỷ 20 gọi là thời đại Keynes, các nước dân chủ tư bản – vì lo sợ cách mạng Nga và viễn ảnh quần chúng thợ thuyền nổi loạn – đã thực hiện cuộc tái phân lợi tức chưa từng có trong lịch sử nhân loại, đưa đến sự sung mãn vật chất trong mọi lãnh vực của xã hội.

John Maynard Keynes chống CS nhưng ông lo ngại chủ thuyết tư bản sẽ thúc đẩy nhanh tiến bộ kỹ thuật làm mất nhu cầu nhân lực. Ông chủ trương toàn dụng để giữ giá trị và sự cần thiết của nhân công. Keynes nhìn sự việc trong thế động, của biến hóa không ngừng của xã hội loài người. Cùng cách thức ấy, Max Weber cho rằng các nhà khoa học xã hội không làm việc như các nhà vật lý nghiên cứu những sự kiện gần như thường tồn ví dụ trọng lực; trái lại, đối tượng nghiên cứu của khoa học xã hội tự thân không đứng yên một chỗ.

See the source image

Lý thuyết kinh tế hiện hữu ngày một tiến gần đến tình trạng như một kho chứa những dụng cụ gảy nát gỉ sét. Nó nhằm giải quyết vấn đề của mấy thế kỷ trước: phân phối một cách tối hảo việc làm và lợi tức để phát triển kinh tế ở mức tối đa. Vấn đề của chúng ta ngày nay không đơn thuần như vậy nữa. Phải nghĩ đến cách trị các biến chứng của sự sản xuất về kỹ thuật và bằng kỹ thuật; duy trì nhu cầu nhân lực thực sự; quản trị hữu hiệu, và nhất là tránh sự tàn phá quả đất, của môi sinh.
Kinh tế gia không thể chỉ sống với các con số thống kê, trong vùng nhỏ hẹp gọi là cơ sở vi tế, microfoundation.

Kinh tế học phải dùng những kiến thức ngày một tích lũy thêm trong các lãnh vực khác như phong trào nữ quyền, tâm lý học, nhân chủng học, (nghiên cứu) lề thói sinh hoạt kinh tế… Phức tạp đến như vậy vì khuôn dạng thế giới thay đổi, những sáng kiến mới đều có lợi và có hại. Kinh tế tất phải là môn học có mục đích tối thượng nhân bản, nếu con người còn được và cần được tôn trọng.
Thay đổi lề lối suy nghĩ không đơn giản. Tác phẩm của Skidelsky giới thiệu ở đây, nếu không được toàn bích vẫn có công đặt vấn đề, mà là một vấn đề vô cùng quan trọng, liên quan toàn diện cuộc sống nhiều người trên một quả đất thu hẹp, động dao động thớt trong bếp cả làng nghe. Against Economics


  

Friday, December 20, 2019

Xổ số kiến thiết quốc gia



Xổ số kiến thiết quốc gia 
Hoàng Hi Thy

Kiến thiết quốc gia
Giúp đồng bào ta
Xây đắp muôn người
Ðược nên cửa nhà
Tô điểm giang san
Qua bao lầm than
Ta thề kiến thiết
Trong giấc mộng vàng
Triệu phú đến nơi
Năm, muời đồng thôi
Mua lấy xe nhà
Giàu sang mấy hồi
Kiến thiết quốc gia
Giúp đồng bào ta
Ấy là thiên chức
của người Việt Nam
Mua số mau lên
Xổ số gần đến
Mua số mau lên
Xổ số gần đến.
Kiến thiết quốc gia.
Giúp đồng bào ta…

Tiếng ca quen thuộc tôi nghe mỗi tuần từ năm 1952 cho đến Tháng Tư năm 1975. Vang tiếng một thời. 60 mùa lá vàng bay qua đời tôi, tôi vẫn nhớ tiếng ca Xổ Số Kiến Thiết Quốc Gia của Trần Văn Trạch.

See the source image

Tôi không biết người Pháp đem trò chơi Xổ Số vào nước ta năm nào, chắc vào khoảng năm 1935, 1938. Những năm 1940 tôi mười tuổi, ở tỉnh lỵ Hà Ðông bên hông Hà Nội, tôi nghe người lớn nói đến chuyện xổ sổ.
Xổ số thời xưa ấy tên tiếng Pháp là Lotterie, bán trên toàn cõi Ðông Pháp, tức bán trên cả ba nước Việt, Miên, Lào, 1 đồng bạc Ðông Dương một vé số, mỗi năm – 12 tháng – xổ số một kỳ, vé số trúng độc đắc 10.000 đồng bạc Ðông Dương, tiếng Nam là Mười Ngàn đồng, tiếng Bắc là Một Vạn đồng.
Chiến tranh bùng nổ trên khắp nước năm 1946, Xổ Số bị dẹp. Năm 1952 tôi thấy xổ số sống lại ở Sài Gòn. Giá mỗi vé là 10 đồng. Số tiền khá lớn thời đó. Năm ấy Sài Gòn có hai sòng bạc mở cửa hành nghề suốt ngày đêm, quanh năm không đóng cửa nghỉ một ngày, là Kim Chung và Ðại Thế Giới.
Đó là hai sòng bạc có trò Sổ Ðề mỗi chiều. Dân nghèo chỉ có hai, ba đồng cũng đánh đề được, biết được mất, tức trúng đề – đề xổ đúng con số mình mua, hay không trúng – biết ngay trong ngày. Dân Sài Gòn mê chơi số đề phần đông là dân nghèo. Như đã nói chỉ hai, ba đồng cũng chơi số đề được. Lại có những người gọi là huyện đề nhận bán số đề ở ngay trong xóm, chi tiền đàng hoàng, việc mua số chỉ bằng miệng.
Vì vậy ít người mua sổ xố do chính quyền bán. Xổ số những năm đầu bị ế. Cảnh sát Sài Gòn phạt người đi xe vi phạm luật giao thông bằng cách bắt mua vé số Kiến Thiết. Tôi không nhớ trong những năm 1952, 1953, xổ số xổ mỗi tuần hay xổ mỗi tháng. Dường như thời xưa đó mỗi tháng Xổ Số một kỳ.
Tôi cũng không biết chắc những năm đó xổ số đã có tên là Xổ Số Kiến Thiết Quốc Gia hay chưa. Căn cứ trên bài ca Kiến Thiết Quốc Gia của Trần Văn Trạch làm năm 1952, tôi chắc tên Xổ Số Kiến Thiết Quốc Gia đã có từ năm 1952.
Năm 1955 hai sòng bạc Kim Chung, Ðại Thế Giới bị chính phủ – Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm – đóng cửa. Hết trò số đề. Xổ số bắt đầu được dân mua. Ðến năm 1960 tình trạng Xổ Số Kiến Thiết Quốc Gia, vì bán chạy, nên có trò tăng giá. Giá một vé xổ số chính thức là 10 đồng, người mua phải mua với giá 14, 15 đồng. Rồi có tin tổ chức Chợ Ðen Xổ Số KTQG bị bắt, người thầu vé số và bán vé số tăng giá là bà Ðức Lợi. Bà này bị bắt. Tên bà Ðức Lợi Chợ Ðen Vé Số Kiến Thiết được nhiều người Sài Gòn biết.

 ========================================
========================================================================================

 
 See the source image Image result for xổ số kiến thiết quốc gia