add this

Saturday, January 27, 2018

hỏa ngục mậu thân 68 huế


Image result for hue during the tet offensive
hỏa ngục mậu thân
Uwe Siemon-Netto
Lý Văn Quý & Nguyễn Hiền dịch


Đà Nẵng là một thành phố khốn cùng vào đầu tháng 2 năm 1968. Lạnh lẽo và mưa phùn chẳng khác nào như tôi vừa bay đến một vùng Bắc Âu. Các đường phố vắng tanh, ngoại trừ xe quân đội. Tôi đã ôm ấp hy vọng được qua đêm trên chiếc Helgoland tại Đà Nẵng để biết tình trạng chiếc tầu này ra sao trong vụ Mậu Thân và được ăn thức ăn Đức bổ dưỡng mà tôi đang thèm. Từ lúc rời khỏi Viên Chăn tôi chưa hề có được một bữa ăn ra hồn nào. Tuy nhiên, viên thuyền trưởng đã khôn ngoan mang chiếc tầu ra vùng an toàn của hải phận quốc tế rồi.

Vì vậy tôi đến trại báo chí MACV, tuy thiếu hấp dẫn nhưng có một nhà ăn tạm được và một quầy rượu rất đầy đủ. Tôi gọi một ly Dry Martini, ăn một miếng steak kèm một chai rượu vang, đi tắm nước nóng và cảm thấy sẵn sàng cho một cuộc phiêu lưu mà sau này hóa ra không thể có những thứ xa xỉ này trong một thời gian nữa. Trời vẫn còn tối khi tôi gia nhập một đoàn xe TQLC Hoa Kỳ sáng sớm hôm sau. Tôi bận hai bộ đồ trận chồng lên nhau, chẳng bao lâu sau còn tròng thêm một cái thứ ba nữa và tôi hài lòng là chiếc áo giáp còn giúp tôi ấm thêm chút ít.

Một số nhà báo từ trại báo chí đã can đảm dùng đường bộ đầy nguy hiểm đến vùng phụ cận của cố đô Huế vẫn còn nằm trong tay của Cộng quân.  Vì đây là cơ hội tốt nhất để chúng tôi có thể sớm đến nơi đó. Màn mây rất thấp và tình hình an ninh chung quanh phi trường Phú Bài bất ổn đến nỗi chúng tôi có thể sẽ phải chờ đợi nhiều ngày để có được một cái vé đi máy bay quân sự.

Trước khi được phép leo lên xe vận tải, mỗi người trong chúng tôi được phát một khẩu M.16. "Chúng tôi biết là điều này trái với thông lệ," viên thượng sĩ giải thích, ý nói là hiệp định Geneva quy định là phóng viên chiến trường không được mang súng. "Nhưng, ông ta nói thêm, chúng ta sẽ phải đi qua những vùng hết sức nguy hiểm và có thể bị phục kích. Trong trường hợp đó quý vị phải tự bảo vệ lấy. Vậy quý vị có hai sự lựa chọn: mang theo súng hay ở lại phía sau."
     
Chúng tôi đến Phú Bài phía Nam Huế không hề hấn gì, ngoại trừ một cảnh tượng đã làm nổi dậy tính hài hước của tôi. Ngồi cạnh tôi đàng sau chiếc xe vận tải có một cặp phóng viên tạp chí Stern gồm một nhiếp ảnh gia và một ký giả. Người chụp hình là Hilmar Pabel, một trong những người nổi tiếng nhất trong nghề chụp ảnh của giới báo chí Đức, và là một cựu chiến binh lão luyện phi thường. Bức hình chụp tôi trên bìa của cuốn sách này chính là tác phẩm của anh. Hilmar đã chụp nó trong một lúc tạm lắng giao tranh trong khu phố ở Huế.

Tay đồng nghiệp của anh là một chuyện khác. Hắn là một ký giả trẻ tuổi người Áo đặc trưng cho cái khuôn mẫu tả khuynh thổ tả đã từng nhiễm độc đời sống trí thức Tây Âu vào thời gian đó để đạt đến cực độ với cuộc nổi dậy của giới sinh viên trong đại nạn tháng 5 năm 1968 tại Paris, và nó đã lần lượt nhiễm độc toàn bộ lục địa và một phần lớn những gì còn lại của thế giới Tây phương.
Tên hắn là Peter Neuhauser. Bỏ qua cái ý thức hệ Mác-xít thì hắn lại là một gã vạm vỡ dễ mến không khác gì những người lính TQLC mà chúng tôi đang đi chung. Vì vậy họ rất thích hắn mà không hề biết gì về quan niệm thân cộng của hắn cả. "Anh trông giống như bọn tôi lắm, đám lính nói. Chỉ cần cắt cái mái tóc thôi," họ tiếp. Do đó khi chúng tôi đến tiền trạm của Sư đoàn 5 TQLC Hoa Kỳ đàng sau phi trường Phú Bài, họ lôi Peter vào một cái lều, cạo cái đầu hắn, dí một cây M.16 vào tay hắn và reo lên khoái trí: "Chào mừng Trung sĩ mới của chúng ta!" Từ đó thì họ gọi hắn là "Gunny," và Peter dưới mắt bao nhiêu người, gã Peter thân cộng này lại có vẻ thích thú với "cấp bậc" mới của mình vô cùng, mà ta có thể thấy rõ qua các bức hình Hilmar Pabel đã chụp cho hắn. Điều này đã chẳng giúp được gì cho sự nghiệp của hắn. Những tấm hình chụp Neuhauser trong tư thế tác chiến cùng với những tấm khác cụ thể hơn trong bộ sưu tập phim của Pabel rốt cuộc đã đến văn phòng chính của tạp chí Stern tại Hamburg vài ngày sau đó và đã gây phẫn nộ trong các đồng nghiệp của hắn. Không một ai thấy có gì buồn cười cả. Hắn không bao giờ được phái đi công tác ở ngoại quốc nữa.
     
Sáng hôm sau, khi Peter và tôi tháp tùng một tiểu đoàn TQLC vật vã tác chiến từng tấc đất vào Huế, hắn có vẻ được giác ngộ, dù chỉ là trong khoảng khắc. Trên con lộ dẫn vào cố đô của Việt Nam chúng tôi thấy cơ man các xác chết của dân thường, riêng rẽ hay từng nhóm, toàn là phụ nữ, cụ già và trẻ em. Họ đều ăn mặc tươm tất nhân dịp đầu năm mới. Qua vị thế của các tử thi chúng tôi thấy có nhiều phụ nữ đã cố gắng dùng thân mình để che chở cho con, chống lại bọn sát nhân.
"Bọn Cộng sản bạn mày đã làm điều này, Peter!" Tôi mắng Peter một cách tàn nhẫn.
Mặt hắn biến sắc trắng bệch. "Chắc chắn không phải đâu," Nó trả lời, "Những người này bị máy bay Mỹ giết."
"Không đâu, Peter, thương vong vì không tập chẳng như thế này," tôi vặn lại, "Trông những vết thương trên đầu và trên mình mẩy họ kìa.  Nhìn cách một số người phụ nữ đang giơ tay che mặt đi. Họ bị bắn ở tầm rất gần. Tin tôi đi, tôi đã thấy chuyện này rồi: Đây là thành tích của những toán chuyên giết người. Những gì chúng ta đang thấy đây là bằng chứng tội ác chiến tranh. Những người này đã bị thanh toán vì bất cứ lý do điên rồ nào đó mà bọn Cộng sản phải thủ tiêu cả đàn bà, trẻ em và người già.

Image result for hue during the tet offensive

Peter Neuhauser giữ im lặng, nhưng tôi biết đã không thuyết phục được hắn. Chính hắn đã xác nhận với tôi khi chúng tôi gặp lại nhau vài tháng sau tại Hamburg. Neuhauser qua đời vài năm sau đó vì nguyên nhân tự nhiên, nhưng vẫn trong tâm trạng tả khuynh không sao cứu vãn được. Suốt vài chục năm sau, thỉnh thoảng tôi cảm thấy một nỗi buồn đau đớn là mặc dù đã chứng kiến hàng loạt người vô tội bị thảm sát trên con lộ đến Huế, vậy mà điều này vẫn không lay chuyển nổi tâm trí của một gã mà đáng lẽ ra là một con người dễ mến này. Những ngày bên cạnh hắn đã dạy tôi một trong những bài học đáng sợ trong sự kiện Tết Mậu Thân là: chẳng có gì, ngay cả những bằng chứng không thể chối cãi nhất, có thể mong làm thay đổi tốt được những ý tưởng cố chấp về ý thức hệ.

Phú Bài và Huế chỉ cách nhau khoảng 10 dặm nhưng chúng tôi mất gần một ngày trời để vào đến khu trại MAVC gần bờ Đông Nam của dòng sông Hương có lẽ đã được đặt tên sai. Các cuộc đụng độ lẻ tẻ thiếu không trợ vì thời tiết bay xấu và nhu cầu phải dọn dẹp các xác chết trên đường đã khiến chúng tôi bị chậm trễ. Doanh trại nằm trong khu vực mới của thành phố, xây dựng theo lối Âu Châu với những đại lộ rộng rãi và những căn biệt thự kiểu Pháp đầy tiện nghi, một Cercle Sportif, tức Câu lạc bộ Thể thao xinh xắn và một cư xá đại học với những tòa nhà chung cư theo phong cách thập niên 1950 cho nhân viên giảng huấn được xây dựng theo kiểu mẫu xấu xí đặc thù trong thời kỳ đó của các dự  án gia cư rẻ tiền đầy rẫy ở vùng ngoại ô phía bắc Paris.

Vào thời điểm chúng tôi đến, quân đội Hoa Kỳ và VNCH đã tạm ổn định phần nào khu vực này của thành phố, ít nhất là vào ban ngày. Trong khi đó thì Cổ thành với vòng thành nội vi hoàng gia, còn gọi là "Purple City" bắt chước theo kiểu mẫu Tử Cấm Thành Bắc Kinh vẫn còn nằm chặt chẽ trong tay Cộng quân.
Doanh trại MAVC gồm một khách sạn khi xưa với khu vực ăn uống ở tầng trệt, phòng ngủ của sĩ quan ở hai tầng trên và một ngôi nhà phụ với 20 căn phòng. Bên cạnh tòa nhà phụ là những cái gọi là "hootches" tức những lều tạm bợ, khu vực mở rộng cho lính tráng. Khu vực này chật cứng với tạp nham đủ loại người khác nhau: quân nhân, ký giả, tình báo viên, nhân viên cứu trợ, nhân viên Việt Nam làm việc cho Mỹ và các viên chức chính quyền cùng gia đình tìm nơi trú ẩn tránh vùng giao tranh và tránh những toán ám sát của Cộng sản vẫn còn đang lùng sục để giết tại chỗ những người mà họ quy là phản động trong thành phố.
"Xin lỗi quý vị, chúng tôi hết giường tạm rồi, không còn chăn nệm nữa. Quý vị phải tự tìm lấy chỗ nằm thoải mái trên nền xi-măng này vậy," viên trung sĩ quân nhu đón tiếp chúng tôi tại khu vực trước kia là nhà ăn nói. "Có khẩu phần C ở góc đàng kia và rất nhiều túi giấy đựng xác để quý vị giữ ấm. Lấy bao nhiêu cũng được. Tối nay sẽ lạnh lắm đấy."
Khu trại đóng cửa ban đêm. Nội bất xuất ngoại bất nhập. Chúng tôi nghe tiếng giao tranh mãnh liệt phía Bắc dòng sông nhưng thỉnh thoảng cũng có tiếng súng đụng độ ngay bên ngoài chu vi doanh trại. Tôi thu người vào khoảng trống chật hẹp giữa mấy gia đình người Việt, trải ba cái túi đựng xác xuống đất dùng thay nệm, phủ lên mình ba cái túi đựng xác khác đúng ra dùng để chuyển những binh sĩ tử trận, có những lỗ đánh dấu phía nào là đầu phía nào là chân. Tôi gối đầu lên cái ba lô. Những người bên cạnh tôi nói được tiếng Pháp. Họ thì thầm với tôi là trong cái ngày trước Tết các toán sát thủ Cộng sản đã đến từng căn nhà với danh sách những người sẽ bị xét xử trước cái gọi là tòa án nhân dân và sau đó thì hạ sát họ tại chỗ, không cần xét xử.
"Anh có nghĩ là những ông giáo sư người Đức có tên trong các danh sách đó không?" Tôi hỏi người đàn ông bên phải tôi.
"Chắc chắn là có, giống như các linh mục người Pháp và những người ngoại quốc khác. Họ đều bị dẫn đi," anh trả lời tôiGiữa đêm, hàng loạt tiếng súng liên thanh ngay trong khu vực gần nhất chúng tôi nổi lên tạch tạch tạch, tạch tạch tạch, tạch tạch tạch, tạch tạch tạch, tạch tạch tạch (5 lần)...
"Xử tử," người đàn ông Việt Nam bên tay phải tôi nói. "Súng AK-47 Kalashnikov."
"Sao anh biết?" Tôi hỏi.
"Bây giờ nghe tiếng súng này quen quá rồi. Vừa rồi không phải là đánh nhau. Đó là năm loạt súng từ một khẩu liên thanh - có chủ đích rõ ràng."
"Có gần đây không?" Tôi hỏi tiếp.
"Không xa hơn trăm thước đâu."

Image result for hue during the tet offensive

40 năm sau, tôi kết bạn với anh Tôn Thất Di tại miền Nam California, anh có họ hàng xa với hoàng tộc. Chúng tôi thảo luận về biến cố Tết Mậu Thân 1968 tại Huế và khám phá ra là cha anh, hai người chú và hai người anh em họ khác có thể là nạn nhân của vụ thảm sát đêm hôm đó. Cha của anh Di tên là Tôn Thất Nguyên đã từng là thị trưởng thành phố Đà Lạt và sau đó làm công chức bộ Xã Hội tại Sài Gòn mà trụ sở tôi rất quen thuộc vì nằm sát cạnh tiệm cà phê La Pagode trên đường Tự Do.
Tháng Giêng 1968, Tôn Thất Nguyên bay đến Huế để ăn Tết với các anh em và các cháu tại biệt thự của họ. Di và tôi đã nghiên cứu tấm bản đồ Huế. "Đây là vị trí căn nhà họ," anh nói, chỉ vào một điểm không xa hơn 100 thước cách khu nhà ăn của trại MACV. "Chúng tôi chỉ tìm thấy lại xác của một ông chú. Do đó chúng tôi không thể làm đám tang cho ông cụ được."

Tôi không bao giờ biết được rằng tôi thực sự là nhân chứng nói của cái chết của họ hay đó là một vụ thảm sát khác, tuy nhiên khoảnh khắc đó nằm mãi trong trí nhớ của tôi, chính yếu bởi vì nó được tiếp nối bằng một một kinh nghiệm siêu thực khác đã từng xảy ra quá nhiều với tôi tại Việt Nam: một con gì đó thật to, nóng ấm, kêu quàng quạc chui vào dưới ba chiếc túi đựng xác của tôi. Hóa ra đó là một con ngỗng trắng với cái mỏ màu vàng và lông xám hai bên cánh. Tôi lúc nào cũng thích ngỗng, nhất là khi chúng được quay và dọn với bắp cải đỏ vào dịp Giáng Sinh. Nhưng tôi chưa hề có được một con ngỗng nào chui rúc vào mình như vậy cả, mà con này có vẻ hoảng hốt cùng cực. Cùng với hàng đoàn ngưòi tỵ nạn Việt Nam con chim khiếp sợ này đã trốn vào khu trại Mỹ từ lúc đầu trận Tết và chạy lạch bạch chung quanh khu đất từ đó, thỉnh thoảng  xem xét các chỗ ngủ. Lính Mỹ đặt tên nó là Garfield. Như một con ngỗng canh gác, Garfield hằng đêm ra một điểm quan sát luôn luôn tại một chỗ cố định để dòm chừng ra ngoài đường. Nhưng khi nó nghe thấy tiếng súng nổ ngay ngoài cổng, nó đã hoảng hốt tìm chỗ núp ngay bên cạnh tôi. Tôi đuổi nó ra khỏi khu vực ngủ, cho nó về chỗ canh gác lại.
Lúc bình minh, nhóm phóng viên chúng tôi được phép rời khỏi doanh trại với điều kiện phải mang theo súng M.16 để tự vệ. Peter Neuhauser, Hilmar Pable và tôi nhận mỗi người một khẩu, nhưng theo đề nghị của tôi, chúng tôi đã cãi lệnh và giao lại súng cho lính canh ngoài cổng. Trên đường đến khu chung cư của các giáo sư người Đức đã bị bắt cóc, tôi lý luận: "Thử hỏi nếu chúng ta chạm trán với một toán tuần tiễu Việt Cộng thì sao? Chúng ta sẽ bị chết ngay. Nếu không mang súng, ít nhất chúng ta còn vin cớ không phải là chiến binh, mặc dù chẳng biết có nghĩa lý gì với họ hay không."
Vừa run rẩy trong cơn mưa phùn lạnh lẽo, chúng tôi vừa đi bộ về hướng Tây đường Lê Lợi. Cái đại lộ từng là một con đường lịch sự giờ đây vắng ngắt và trông hết sức tiều tụy. Những căn biệt thự lỗ chỗ vết đạn, cây cối đổ nát hay bị gãy cành hết sống nổi. Khi chúng tôi đến gần Câu Lạc Bộ Thể Thao, nơi mà thỉnh thoảng tôi vẫn ăn tối với các giáo sư Đức và cũng là nơi mà bà Elisabeth Krainick thường đến bơi, tôi mơ màng hy vọng là một người hầu bàn trung thành sẽ có mặt để pha cà phê cho chúng tôi nhưng đó chỉ là một ý tưởng điên rồ. Không còn một ai nữa, không có ai ngoại trừ lính TQLC Hoa Kỳ vượt qua mặt chúng tôi trên xe jeep và thiết vận xa. Trong một lúc bầu trời mây che phủ sáng ra và chúng tôi nhìn qua phía bên kia sông Hương. Chúng tôi thấy lá cờ VC màu đỏ xanh với một ngôi sao vàng ở giữa đang bay trên pháo đài và nghe cả tiếng giao tranh ác liệt nữa.
Khu chung cư gia đình Krainick đang ở nhìn qua kinh Phú Cam. Một chiếc xe tăng Mỹ cũng đậu ở mạn Bắc của khu vực này. Đùng! chiếc xe tăng nã một phát đạn đại bác qua bên kia con kinh. Đùng đoàng! Cả căn chung cư rung chuyển khi chúng tôi đang leo lên chỗ ở của gia đình Krainick trên lầu bốn. Có cả một trung đội TQLC đang đóng tại chỗ đó và căn phòng trông hoang tàn khủng khiếp. Quần áo, sách vở, tài liệu khoa học và giấy tờ riêng tư bị ném bừa bãi khắp nơi. Tôi hết sức bực mình thấy Peter Neuhauser lục lọi đống giấy tờ và lén bỏ vào túi một số hình ảnh của gia đình Krainick
"Mày không mắc cở hả?" Tôi hỏi anh ta.
 "Phải làm vậy thôi nếu anh làm việc cho một tạp chí hình ảnh," hắn lạnh lùng trả lời tôi và bỏ đi.
Tay Trung đội trưởng là một Thiếu úy 23 tuổi dáng dấp chắc nịch quê tại New Mexico. Nhìn thoáng qua, tôi biết ngay hắn là một gã ngốc và cách ăn nói cũng đúng như vậy. Anh ta dưong oai diệu võ trong một chiếc áo thun trắng, chẳng chịu mặc áo giáp hay đội nón sắt gì cả. Đùng! Chiếc xe tăng bắn thêm một quả nữa.
"Xe tăng bắn vào cái gì vậy?" Tôi hỏi anh ta.
Viên Thiếu úy dắt tôi đến một cánh cửa kính mở trông ra ban công và chỉ vào một căn biệt thự xây theo lối Tây bên kia con kinh:
"Bọn Việt Cộng bắn tỉa," anh ta nói. "Tụi nó đang bắn về phía chúng ta."
"Tại sao anh lại đứng đây với cái áo thun trắng, để làm mục tiêu tuyệt vời cho tụi nó sao?"
"Thưa ông, tôi là TQLC, được huấn luyện để chiến đấu và để chết."
"Có phải là dân đóng thuế bên Mỹ tốn cả nửa triệu bạc để đào tạo một sĩ quan chuyên nghiệp không?" Tôi thách thức anh ta. "Mặc dù anh không thiết mạng sống anh, bộ anh thật sự nghĩ là anh có quyền đặt cái vốn đầu tư đó một cách cẩu thả như vậy hay sao? Và tạo cơ hội để lính tráng mất người chỉ huy?" Anh ta nhìn tôi chẳng hiểu gì cả.
Khi tôi bước ra khỏi cửa chính đi xuống cầu thang thì tôi nghe thấy một tiếng thét hãi hùng như chưa từng nghe thấy bao giờ. Tiếng hét không mang giọng người. Tôi quay lại. Viên Thiếu úy loạng choạng tiến về phía tôi tay ôm ngực bên trái máu phun ra có vòi. Anh lảo đảo ngã xuống, lăn nhào xuống cầu thang và chết tức tưởi. Bọn bắn tỉa đã lấy mạng sống của anh.
Tôi đi ngang qua bệnh viện trường Đại học mà giáo sư Horst-Günter Krainick, bác sĩ Raimund Discher và bác sĩ Alois Alteköster từng làm việc. 75 phần trăm cơ sở đã bị phá hủy trong cuộc xung đột. Nhìn thấy quân phục tôi, hầu hết những thường dân Việt Nam tránh ánh mắt tôi. Họ quá sợ bị trông thấy đang kết thân với một "người Mỹ," mặc dù bảng tên trên nón sắt của tôi xác định tôi là một phóng viên người Đức, Tây Đức giống như các bác sĩ đã thành lập nên cái trường Đại học Y khoa. Rõ ràng là họ ngại rằng bọn CS có thể trở lại và trả thù những người mà họ thấy đã hợp tác với kẻ thù – những người như tôi.
Một người đàn ông lớn tuổi lặng lẽ kéo tôi sang một bên để kể lại những câu chuyện kinh hoàng của những phiên tòa khôi hài được gọi là tòa án nhân dân. Nó được bọn Bắc Việt dựng lên để xét xử các cư dân thuộc tầng lớp quý tộc cũ, thành phần tư sản, các công chức VNCH, những người ngoại quốc, người công giáo tòa thánh La Mã, các linh mục, nói chung tất cả những ai bị nghi ngờ không đồng lòng với "Cách mạng."
"Họ không bị bắt một cách tình cờ đâu, thưa ông," ông ta nhấn mạnh, "Tên tuổi của những người đó nằm trên danh sách mà bọn cán bộ Cộng sản mang theo. Tại những phiên tòa như vậy, họ không có cơ hội để tự bào chữa. Họ bị tuyên án, mang đi và bị bắn bỏ."
"Có bao nhiêu người?"
"Làm sao biết được? Hàng trăm, hàng ngàn?"
Cho đến ngày hôm nay vẫn không có con số chính xác bao nhiêu nạn nhân. Những con số ước đoán vào khoảng từ 2.500 đến 6.000 người.
"Phần tệ hại nhất của cuộc tấn công này là khi giao tranh lan đến khu điều trị bệnh tâm thần," ông già tiếp tục câu chuyện. Ông không cho tôi biết tên tuổi hay chức nghiệp nhưng trông ông có vẻ là một người có học qua trường Tây. "Các bệnh nhân trở nên điền cuồng, họ chạy khắp nơi, đánh lẫn nhau trong cơn hoảng loạn. Ông không thể nào tưởng tượng được nó như thế nào. Nhiều người bị mất mạng vì họ không thể chạy khỏi lằn đạn hai bên bắn nhau. Thật giống như một cảnh tượng trong vở kịch Hỏa ngục của Dante."
"Lúc đó thì ông đang ở đâu?
 "Tôi trốn trong đám bệnh nhân, thưa ông, và làm bộ cũng là bệnh nhân vậy tuy thật sự không phải, và điều này đã cứu sống tôi."
Ông khuyên tôi nên đi qua thính đường chính của trường Đại học lúc đó đang chật cứng hàng trăm người vô gia cư, tất cả vẫn ăn mặc chỉnh tề, còn đang ở các trạng thái bàng hoàng với những nét mặt không còn cảm xúc gì nữa. Nhiều người bị thương và có rất ít, nếu có, y tá và bác sĩ để chăm sóc họ. Không có nước máy, không có điện và không có cả phương tiện vệ sinh.
"Hãy qua bên trường Quốc học nữa," ông già nói với tôi và đây là một lời khuyên đúng. Khi tôi đến khuôn viên trường, nó lại giống như một khu trại tỵ nạn nữa. Có ai nói với tôi là có khoảng 8.000 người tạm trú trong cái cơ sở đẹp đẽ đó, nhiều người run rẩy trong cơn giá lạnh chờ được phát thức ăn và nước. Mặc dù tôi không thể kiểm tra được con số đó nhưng thực tế là rất nhiều.
Trên đường quay về khu trại MACV tôi phát hiện ra hàng chữ vẽ nguệch ngạc trên tường của một căn biệt thự lớn. Hàng chữ viết "Cắt đầu Mỹ." Khi tôi nhìn kỹ hơn thì thấy chữ "Mỹ" chỉ mới thay chữ "Pháp" không lâu. Có lẽ tôi hơi nóng vội tiết lộ trước chương sau nhưng cái thông tin này phù hợp với chuyện vài tuần lễ sau, khi tôi đi thăm trở lại Huế thì cái khẩu hiệu này được đổi thành "Cắt đầu Cộng sản!" Điều này cho tôi biết là sự ghê tởm đối với hành vi của Việt Cộng đã làm thay đổi niềm ghét bỏ người ngoại quốc của dân Huế nếu có, cũng như đã thay đổi tư tưởng bài ngoại khá mạnh mẽ tại đây. Tư tưởng bài ngoại khiến người Mỹ cho tới Tết 1968 đã phải giữ một thái độ thật âm thầm trong cái thành phố này. 25 ngày đêm chiến sự tại Huế, sự bắn giết, đập đầu đến chết và chôn sống hàng ngàn cư dân, đưa đến 116.000 người mất nhà cửa trong một dân số vỏn vẹn 140.000 đã mang lại cái kết quả thất bại nặng nề nhất đối với Cộng sản: nếu có lúc nào Cộng sản được lòng dân chúng Huế thì nay chúng đã mất hết rồi.
Tôi đi nhanh về trại MACV để điện thoại tường thuật câu chuyện cho bạn đồng sự với tôi là Friedhelm Kemna ở Sài Gòn, cũng như để báo tin cho Nam tước von Collenberg tại tòa Đại sứ tin tức cập nhật về các vị bác sĩ Đức. Chỉ có một đường giây điện thoại ra ngoài mà có cả một hàng dài người đang chờ đợi để gọi đi. Hai tiếng đồng hồ sau mới tới phiên tôi.

Tôi lớn tiếng thét lên trong điện thoại dã chiến: "Huế đây, làm ơn cho tôi Phú Bài! - Phú Bài, cho tôi Đà Nẵng! - Đà Nẵng, cho tôi Nha Trang! - Nha Trang, cho tôi Qui Nhơn! Qui Nhơn, cho tôi Tân Sơn Nhất! - Tân Sơn Nhất, cho tôi Mãnh Hổ (trung tâm điện thoại quân sự Sài Gòn)! - Mãnh Hổ, cho tôi PTT - PTT, làm ơn cho tôi khách sạn Continental."
Sau hai lần thất bại, sau cùng tôi gọi được khách sạn, trong lòng cầu nguyện là "kẻ thù" của tôi, cái gã Ấn Độ từ Madras lúc nào cũng say mùi thuốc phiện không trực điện thoại chiều hôm đó. Nhưng hắn đã có mặt!
"Siemon-Netto đây, làm ơn cho tôi nói chuyện với Kemna đi," tôi nói bằng tiếng Pháp.
"Ông Siemon-Netto không có ở đây," gã nghiện thuốc phiện nói và cúp điện thoại cái rụp!
Cảm ơn Chúa, người đồng nghiệp Mỹ đằng sau đuôi tôi cũng ở khách sạn Continental và có một người nhận tin đang chờ sẵn tại đó. Anh ta đọc xong bản báo cáo và nói phía bên kia giữ đường đây để chạy qua gọi Freddy cũng ở cùng tầng lầu với nhau. Do đó, sau cùng tôi cũng xoay sở gởi bài tường thuật cho Freddy xong và yêu cầu anh chuyển lời nhắn qua cho Nam tước Collenberg.
Sau đó thì tôi cảm thấy thèm rượu. Cảm ơn Chúa, tôi có mang theo một bình huýt ky mỏng trong ba lô. Sau những kinh nghiệm rùng rợn của ngày hôm đó, một vài ngụm từ cái bình đó cộng thêm vài lát bánh mì pumpernickel thật là một niềm hạnh phúc hoàn hảo. Bây giờ tôi phải chờ quân đội Mỹ di hành.
Cố đô và cổ thành vẫn còn nằm trong tay của khoảng 10.000 quân Bắc Việt. Chúng tôi được nghe là Sư đoàn 1 bộ binh VNCH mặc dù chiến đấu dũng mãnh vẫn chưa vào được mạn Tây Bắc sau khi cố gắng tái chiếm pháo đài và đang chờ các đơn vị của Sư đoàn 1 TQLC Hoa Kỳ tấn công từ mạn Đông Nam. Nếu chuyện này xảy ra, tôi dự định sẽ bám theo một trong những trung đội đó.

Những gì xảy ra tiếp theo đó quá kinh hoàng khiến tôi chỉ còn nhớ lại trong đầu những mảng rời rạc của cái ngày tôi tháp tùng một Trung đội TQLC vượt qua con sông Hương vào lúc ba giờ sáng. Tôi còn nhớ là Trung đội đó đông hơn bình thường, quân số khoảng 53 người. Tôi cũng nhớ là các cấp chỉ huy có bản lĩnh hơn nhiều đám chỉ huy Trung đội tôi đã gặp trong căn chung cư của Krainick. Đau buồn thay là tôi chứng kiến hầu hết trong số họ bị thương hay thiệt mạng trước khi ngày hôm đó chấm dứt.

Mãi đến ba giờ chiều tôi mới có dịp coi giờ trên cái đồng hồ của tôi trong một lúc tạm lắng giao tranh. Tôi nhìn chung quanh. Những người lính cùng chung lưng với tôi 12 tiếng đồng hồ trước đây đâu cả rồi? Tôi đếm được 10, có thể là 15. Những người khác hoặc đã bị thiệt mạng hoặc bị thương. Một trung đội khác đến thay chúng tôi. Đã đến lúc tôi phải ra khỏi nơi này thôi. Tôi xoay xở về lại được sông Hương. Kỳ lạ thay là cộng quân đã để lại cây cầu chính còn nguyên. Tôi đi bộ qua đó và đến một khu vực bãi đáp trực thăng đầy những người bị thương nặng, có đến hàng trăm người, nhiều người đang rên rỉ vì đau đớn.
   
 "Thưa Thiếu tá," tôi hỏi viên sĩ quan phụ trách bãi đáp, "chuyện gì xảy ra ở đây vậy? Tại sao những người bị thương vong này chưa được tản thương đi?"
Hắn chỉ tay lên trời: "Điều kiện bay xấu!"
 "Nhưng thưa Thiếu tá, tôi đã từng thấy thời tiết tồi tệ hơn nhiều. Trần mây còn đủ cao mà," tôi phản đối.
 "Đúng vậy nhưng anh thấy đó, TQLC chúng tôi không có đủ trực thăng."
"Lục Quân thì sao? Tôi biết là cách đây 10 dặm ở Phú Bài có hai phi đoàn trực thăng của Lục Quân đang sẵn sàng tác chiến."
"Thưa ông, TQLC chúng tôi không gọi nhờ Lục Quân bao giờ."

Tôi nhớ đã tự nhủ trong lòng: một cái lá phong trên bộ quân phục rõ ràng không phải là giấy chứng nhận cho một chỉ số thông minh cao. Ðã đến lúc phải rời nơi đây thôi. Hí trường của sự phi lý đang biểu hiện dấu hiệu của sự điên rồ đây. Tôi đã thấy những mặt đẹp đẽ nhất cũng như những điều xấu xa nhất của nhân loại trong vài ngày vừa qua: sự hy sinh đầy thương tâm và lòng dũng cảm tương phản với sự ác độc không thể tưởng tượng nổi của Cộng sản và sự xuẩn ngốc của một thiểu số khờ khạo chứng nhận được mặc quân phục.

 Tôi nhớ là nước mắt tôi đã ràn rụa khi nghĩ đến những người tôi thấy đã ngã xuống tại Huế, hầu hết là phụ nữ và trẻ em, và những thương binh trẻ Mỹ nằm trên cáng rên rỉ trong đau đớn cùng cực mà không có ai để báo cho họ biết nguồn tin an ủi là họ đã đánh bại quân thù. Hơn một nửa trong số 80.000 Cộng quân tham gia Tết Mậu Thân đã bị thiệt mạng, hạ tầng cơ sở Việt Cộng hoàn toàn bị phá vỡ. Đây là một chiến thắng quân sự lớn.  Một chiến thắng cam go cho phe Đồng minh, nhưng là chiến thắng hiển nhiên.

“Ich habe genug vom Tod,” tờ báo Chủ nhật toàn nước Đức Bild am Sonntag đã lên tựa cho bài tường thuật của tôi từ Huế như vậy, có nghĩa là "Tôi đã chán cảnh chết chóc đó lắm rồi." Tôi rất nôn nóng thoát ra khỏi Huế. Nhìn thoáng qua bãi đáp trực thăng tôi đoán là tôi không có hy vọng gì mau mắn đáp được một chuyến trực thăng. Tuy nhiên tôi trông thấy một chiếc tầu đổ bộ LCU của Hải Quân Việt Nam gần đó. Tôi chạy đến chiếc tầu và gặp người chỉ huy là một trung úy với làn da sậm dầy như một thủ lĩnh da đỏ Comanche.
"Chúng tôi sắp ra khơi đây," anh ta nói, "Mình nên chào mừng cho sự tiến bộ: đây là lần đầu tiên kể từ khi bắt đầu Tổng công kích Tết có một chiếc LCU vận hành đến khúc sông này. Sẽ có rắc rối đấy!" Chúng tôi hướng về phía Đông và lập tức bị hỏa lực súng nhỏ bắn tới từ hướng Bắc với loạt đạn đụng vỏ tầu dội ngược ra. Nhưng chiếc tầu vẫn tiếp tục đi về phía đầm phá Tam Giang, mặc dù tôi không ở trên tầu lâu lắm. Tiếng súng lắng dần khi chiếc tầu tăng khoảng cách với Huế. Tôi ngủ thiếp đi. Khoảng giữa đêm, viên trung úy lay tôi dậy nói, "Anh nên xuống chỗ này đây." Anh đã đậu tầu lại tại bãi cảng của một căn cứ MACV nhỏ ở mạn Nam dòng sông.

 Tôi không còn nhớ bằng cách nào từ đó tôi về lại Đà Nẵng, có lẽ bằng trực thăng. Tôi chỉ biết là tôi đến doanh trại báo chí hoàn toàn như một cái giẻ rách. Tôi chưa cạo râu trong tám ngày trời. Hai bàn tay bẩn thỉu, những ngón tay vàng khè vì khói thuốc và mình mẩy hôi rình. Tôi không còn nhớ tôi có đói hay không nữa, bộ phận tiêu hóa của tôi đã hoàn toàn khép lại từ khi tôi rời khỏi trung tâm báo chí này hơn một tuần lễ trước đó.

Tôi mượn đồ lót và một bộ quần áo trận mới từ một sĩ quan Mỹ và xin một người phụ nữ làm việc quét dọn trong khu trại giặt quần áo cho tôi càng nhanh cành tốt. Lúc đi tắm, một làn nước màu đen xám chảy từ mái tóc và thân thể tôi xuống. Cạo sạch bộ râu lởm chởm là việc làm chính trong ngày. Sau đó tôi xuống hội quán uống hai ly Dry Martini nhưng không thể ăn được bất kỳ thứ gì. Do đó tôi nằm thẳng cẳng trên giường và ngủ một mạch bốn tiếng đồng hồ rồi dậy viết bài tường thuật và gọi điện thoại báo cáo cho Freddy ở Sài Gòn.

Cuối ngày hôm đó tôi ghé thăm chiếc Helgoland, cảm ơn thay, nó đã quay về bến. Tuy nhiên trên boong lại thông báo là chiếc tầu sắp rời cầu tàu và yêu cầu tất cả khách đến thăm hãy trở về. "Ở lại với chúng tôi đi," các y tá và bác sĩ khẩn khoản, "Trông anh tiều tụy quá. Hãy ăn một bữa cho ngon, uống một vài ly rượu, quên chiến trận trong một đêm và nghỉ ngơi đi." Còi tầu hụ lên. Tôi không thể nào nhấc mình nổi cho dù tôi có muốn đi chăng nữa. Những người bạn Đức đã cho tôi một khoảng thời gian rất yên trên hải phận quốc tế.

Những giây phút hạnh phúc đó không kéo dài lâu. Buổi sáng hôm sau tôi quay về trung tâm báo chí. Quần áo tôi đã có lại và tôi may mắn đón được một chiếc trực thăng bay trở lại Huế. Trong doanh trại MACV tôi chạm trán với Peter Braestrup, trưởng phòng Washington Post tại Sài Gòn.

"Họ đã tìm thấy một mồ chôn tập thể," anh nói, "chúng tôi đang định đi tới đó, vậy sao anh lại không muốn đi theo hả?" Một chiếc xe vận tải quân sự chở chúng tôi và các phóng viên khác đến một chỗ thuộc ngoại vi phía Tây Bắc của Huế mới giành khỏi sự kiểm soát của Cộng sản không bao lâu. Có hàng trăm phụ nữ, đàn ông và trẻ em trong nấm mồ đó, nhiều người rõ ràng bị chết cháy, nhiều người bị nện cho tới chết và nhiều người khác bị chôn sống, theo lời của một sĩ quan VNCH.
"Làm sao biết là họ bị chôn sống?" Tôi hỏi anh ta.
"Chúng tôi tìm thấy địa điểm này khi phát giác có những bàn tay mới làm móng chĩa ra khỏi mặt đất," anh trả lời, "Những phụ nữ này đã cố bò ra khỏi mồ chôn họ."
Peter Braestrup thúc cùi chỏ trái vào tôi và chỉ tay vào một toán truyền hình Mỹ gồm một phóng viên, một tay quay phim và một nhân viên âm thanh đang đứng trước khu mồ chôn một cách ung dung không có hành động gì cả.
"Tại sao các anh không quay cảnh này?" Peter hỏi họ.
"Chúng tôi đến đây không phải để quay phim tuyên truyền chống cộng," gã quay phim đáp.

"Thật là điên khùng, Peter, tôi nói, tôi đã chán ngấy cái thứ này lâu rồi. Tôi không trách bạn đâu. Chúng ta đang thua trận chiến này sau khi đã thắng về mặt quân sự. "

************************

Ghi chú: Trên đây là phần chính của chương 15 trong cuốn Tình Yêu Của Một Phóng Viên Cho Một Dân Tộc Nhiều Đau Thương. Diễn Đàn Cựu Sinh Viên Quân Y đã giới thiệu hai bản Anh và Việt tại Orange County California ngày 4 thg 5, 2013. Giá US$22 mỗi cuốn; sách bán nhiều nơi “on line” hoặc http://www.siemon-netto.org/ 


từ trái, Uwe Siemon-Netto, Lý Văn Quý, Nguyễn Hiền

Uwe Siemon-Netto trong một lúc dừng quân trận Tết Mậu Thân 1968 tại HuếUwe Siemon-Netto during a lull in the Tet Offensive 1968 at Hue




No comments:

Post a Comment