add this

Thursday, May 30, 2019

Nga Nga, Tàu Tàu...


ethiopia lenin statue
 tượng Lenine ở Bucarest bị hạ 1990
nga nga, tàu tàu...
The Anatomy of Collapse
Roderick MacFarguhar, ttt dịch

Giống như Bắc Kinh 1989, tại Moscou 1991 tám kẻ chủ trương cứng rắn lập chiến hào cuối cùng để bảo vệ chủ nghĩa CS, chẳng dùng lý thuyết mà dùng bạo lực. Điều khác biệt là bên Tàu, thủ lãnh cải cách Đặng Tiểu Bình về phe với các bàn tay sắt; ông có đủ quyền lực chận sự chia rẻ trong quân đội và đạo diễn vụ đàn áp đẫm máu Thiên An Môn. Cùng theo kinh nghiệm ấy, có thể nghĩ rằng 1991 nếu Gorbachev đứng chung với nhóm đảo chánh thì hệ thống CS vẫn còn ở Liên Xô.

Sự sụp đổ đường lối CS ở “quê hương vô sản” là một chưởng chính trị và tâm lý đau đớn cho lãnh tụ đại lão già nua trong đảng CS Tàu (CST). Tuy vậy, trong lúc đảng CS Nga (CSN) nằm ngay bờ tiêu diệt thì CST đã vượt qua sự thách thức sống còn và quy tập lực lượng về một mối. Sử sách, tài liệu, hồi ký, phim ảnh … tràn ngập các phương tiện truyền thông để kỷ niệm sinh nhật 70 của đảng; trong lúc ấy báo chí chỉ sơ sài nhắc qua vụ Thiên An Môn hai năm trước để cho thấy tương phản giữa lớp trẻ hoang tưởng và các đại lão vinh quang rực rỡ như bao giờ.

Các quan sát viên đến tận nơi nhận thấy xứ Tàu không bị lay động bởi các hổn loạn kiểu Nga. Đám biểu tình 1989 đi tù hay trốn ra nước khác. Giới trí thức có tinh thần cải cách đành im lặng hậm hực trong lúc chính quyền quyết tìm cho ra cảm tình viên cuối cùng của phong trào sinh viên nổi dậy. Hoàn toàn trái ngược với Moscou trước và sau chính biến làm cho CSN thổ huyết gần đến chết, Bắc Kinh thông báo số đảng viên gia tăng, đạt con số quá 50 triệu. CST muốn nói sẽ trường tồn, không bị giới hạn trong 70 năm nói trong Thánh Kinh.

Điều gì làm cho CST sống dai trong khi các các chế độ CS Đông Âu băng vữa và CSN đã đi đến giai đoạn cuối hoàn tất việc chuyển quyền cho người không CS?
Khác biệt giữa Tàu và Đông Âu là ở chỗ chính thể CS Tàu xuất phát tại chỗ, là sản phẩm của một chiến thắng quân sự do người địa phương lãnh đạo, chứ không phải bị áp đặt bởi bàn tay Xô Viết. Đa số dân chúng căm ghét chính phủ; bên cạnh mong ước mạnh mẽ một nền dân chủ của giới trí thức, ai cũng thấy rõ mức độ cao rộng của sự bất mãn của dân chúng đô thị vào thời 1989 đối với tham nhũng và lạm phát. Nhưng độc lập thoát ách nô lệ không thành vấn đề quan yếu như ở Ba Lan, Đông Đức, Hung Gia Lợi và Tiệp Khắc cùng thời điểm ấy.

Lãnh đạo già nua của Tàu được sinh viên “cống hiến” một cuộc cách mạng ôn hòa êm dịu trong hòa bình khi biểu tình năm 1989. Nhưng họ lo ngại sẽ nẩy sinh một phong trào công nhân độc lập như kiểu Solidarity ở Ba Lan. Tuy vài niên trưởng đề nghị hòa hoãn kéo dài và không dùng quân đội để dẹp loạn như kiểu Đông Đức, CST dùng giải pháp Lỗ Mã Ni, tức là quyết liệt bạo hành.

Vì sao không làm theo Gorbachev là dùng nền dân chủ chính trị theo mục đích riêng để vẫn tồn tại? Sự khác biệt về thế hệ có thể giải thích giúp. Gorbachev là lãnh đạo thuộc thế hệ thứ tư hay thứ năm, ra đời sau cách mạng 1907. Ông bước vào ghế lãnh đạo để thấy rằng Liên Xô đã thua Tây phương trong cuộc cạnh tranh dài 60 năm, bắt đầu với kế hoạch năm năm của Staline và chính sách New Deal của Roosevelt. Không có cải cách kinh tế triệt để thì chế độ ông thừa hưởng sẽ tuột dốc; không có cải cách chính trị thì không cách nào phá vỡ sự ù lì nha lại, và giải trừ sự thờ ơ của dân chúng, kết quả của 70 năm CS cai trị. Cho dù tình hình gay cấn nguy kịch, quay đầu lui còn nguy hiểm hơn, tệ lậu hơn.

Trái lại, ở Tàu, Đặng Tiểu Bình có thể đem lại một sức lực mới cho nền kinh tế trong thập niên 1980 bằng cách cắt bỏ xiềng xích của nông dân trong gông cùm tập thể hóa theo kiểu Xô viết. Năm 1989, mặc dầu cải cách kỹ nghệ gặp nhiều trở ngại, ông vẫn có lý tin rằng một nước Tàu do CS lãnh đạo sẽ trở thành một quốc gia tân tiến và hùng mạnh, không cần phải nhượng bộ đủ thứ cho các nhà cải cách chính trị. Vậy thì không có lý gì một kẻ thuộc thế hệ cách mạng thứ nhất, đã từng là chính trị viên trong quân đội thắng trận nội chiến, chai lỳ vì đấu tranh trong cuộc cách mạng văn hóa của Mao, không lý gì kẻ ấy lại trao kết quả của một đời người cho đám người trẻ thiếu trang bị biểu tình hòa bình ngoài đường phố.

Vẫn còn câu hỏi tại sao có sự nức rạn trong các đảng CS từ Bá Linh đến Bắc Kinh, những đảng cứng hơn đá, thường được cho là có kỷ luật sắt, tổ chức khít khao.

Nhà nước tổ chức theo mô hình của Staline được mô tả như một tam giác độc tài toàn diện mà bên trong có thêm một tam giác thứ hai. Nằm trên đĩnh tam giác ngoài là lãnh tụ “kính yêu”, nguồn cảm hứng chính thức, là đấng phải tuân theo phải nghe lời. Một cạnh nâng đợ đĩnh là hệ thống thư lại đảng và nhà nước có nhiệm vụ thi hành lệnh của lãnh tụ; cạnh kia là chủ thuyết Mac Lê (thêm tư tưởng Mao ở Tàu) bảo đảm tính cách chính thống, chính truyền của lãnh tụ và là nơi ghi giữ ý nghĩ của lãnh tụ. Cạnh đáy là quân đội giữ vững bảo vệ toàn thể cơ cấu. Tam giác nhỏ thứ hai nằm trong tam giác ngoài gồm đủ loại hệ thống:  an ninh, cảnh sát, mật vụ, đoàn thể .... giúp cho tam giác ngoài giữ vững xã hội trong lồng, trong chuồng.

Đông Âu, cơ cấu chính trị nội bộ có những yếu tố ngoại xứ. Đĩnh đích thực của tam giác không phải là các phó vương địa phương như Honecker Đông Đức, hay Jaruzelski Ba Lan, mà là Khrushchev ...; chính ông nầy mới giải thích chủ thuyết Mac Lê; kẻ bảo vệ tối thượng của chế độ không phải là quân đội mà là hồng quân Nga chiếm đóng; bằng chứng rõ rệt là vụ Nga đàn áp Hung Gia Lợi khi thủ tướng Imre Nagy cầm đầu cuộc cách mạng 1956 hầu đưa xứ sở khỏi khối CS theo tinh thần chủ nghĩa quốc gia. Người cai trị các xứ chư hầu không được tự do hành động trong xã hội mà phải hành động đúng theo đường hướng của Moscou. Trong thập niên 1970, theo chính sách hòa hoãn, Brezhnev khuyến khích các nhóm xã hội Đông Âu đưa ra các sáng kiến theo tinh thần hiệp định Helsinki. Nhờ đó Ba Lan mới dám nhận tín dụng của Tây phương để đổi với việc dân chủ hóa. Khi Gorbachev quyết định bỏ đế quốc Xô viết và đặc biệt khi Hồng Quân không bảo vệ các phó vương (khác với những năm 1953, 1956, 1968, 1979) thì tam giác bên trong không còn đủ sức kềm chế công dân bất mãn.


Liên Xô, glasnost (tự do ngôn luận) đã gây khốn khổ cho cạnh ý thức hệ của tam giác ngoài trong lúc perestroika (chỉnh đốn cơ cấu) đã đâm toạt cạnh nha lại (nhà nước và đảng). Trí thức, công nhân, các nhóm thiểu số có thêm nhiều tự do nhờ khối đá đã rạn nức. Dân chúng nhận định rằng cái gì cũng đẹp hơn cuộc sống trong cái tam giác ấy. Dân chúng đã biểu lộ điều nầy khi xuống đường chống đảo chánh.

Nga lẫn Đông Âu, thành phần quốc gia và trí thức đã nắm mọi cơ hội hiếm có hay không có nếu không có Gorbachev. Ông đã quyết định những việc tày trời như sau: cho phép cật vấn, chỉ trích chủ thuyết Mac Lê; cho phép tấn công nha lại, và không dùng bạo lực. Hãy xét trường hợp Ba Lan. Không ai phủ nhận lòng can đảm của công nhân đứng dậy những năm 1970, 1976 và 1980, nhưng khối đá tam giác tại đấy không vỡ tung vì các áp lực từ bên trong mà vì cái vung tay của “đĩnh”, tức là sự mở cửa của Gorbachev.

Nay nhảy qua Tàu. Theo lời cáo buộc của các cụ CS bát tuần, “ô nhiễm” tinh thần từ Âu Châu là yếu tố gây ra biểu tình Thiên An Môn. Nhưng tư tưởng Tây phương chỉ có thể thẩm nhập Tàu vì Mao và Đặng đã làm suy yếu cơ cấu độc tài từ thượng tầng. Năm 1966, Mao xua Hồng Vệ Binh (học sinh) tấn công thành phần nha lại của nhà nước-đảng; sáu bảy năm tiếp theo CS Tàu không có hệ thống hành chánh nào, các viên chức cao cấp mỗi người có nhóm quần thần riêng lo liệu mọi thứ.

Thật vậy, từ đĩnh của tam giác, Mao đã dùng hai cạnh (ý thức hệ và quân đội bảo vệ) chống lại cạnh thứ ba của tam giác, có ý dùng thành phần ưu tú của Hồng Vệ Binh thay cho lớp nha lại cạo giấy già nua. Nhưng khi học sinh chém giết nhau, Mao buộc lòng giải tán Hồng Vệ Binh và để cho quân đội (People’s Liberation Army) đảm nhiệm công việc của đảng. Về sau Mao và Đặng phải tranh đấu khó khăn yêu cầu quân đội trả lại quyền năng chính trị, cho phép một đảng hồi sinh nắm giữ chức vụ bình thường.

Mặc dù được hồi phục chính thức, CST không bao giờ lấy lại được uy tín và uy quyền trước Cách Mạng Văn Hóa của Mao. Để trả lời vì sao, xin đọc đoạn văn sau đây Mao viết năm 1927 vào những ngày cách mạng nông thôn:
“Đội vương miện” cho địa chủ và tuần diễu khắp làng … Một cái mũ bằng giấy rất cao chụp lên đầu một ác bá địa phương, mang những chữ như: cường hào địa phương v.v…, hắn bị kéo đi bằng một sợi dây, có những đám đông đi trước và sau hắn. Thỉnh thoảng có đánh phèn la, phất cờ gây chú ý. Lối trừng phạt nầy, hơn bất cứ cách nào khác, làm cho địa chủ cường hào run sợ. Kẻ nào được đăng quan bằng cái mũ giấy nầy sẽ mất mặt và không bao giờ dám ngẩng đầu lên.

Không những chỉ những cấp lãnh đạo thất sủng trong cuộc cách mạng văn hóa như Đặng Tiểu Bình bị mất mặt vì được “đăng quan” như trên, mà chính cả đảng CS Tàu mất mặt. Có thể Mao chỉ đơn giản tin tưởng đang thanh lọc thành phần phản động khỏi đảng, nhưng quảng đại quần chúng không phân biệt cá nhân lãnh đạo và cơ quan. Ví dụ đa số dân biểu thượng hạ viện Mỹ phải vô tù vì tham nhũng thì chắc chắn quốc hội không thể còn nguyên uy tín như xưa.

Mặc dù hầu hết nạn nhân đã được phục hồi danh dự, CST không thể tái lập vị thế xưa. Đặng Tiểu Bình cũng đóng góp vào việc hủy bỏ tính cách chính thống của đảng, tuy theo phương cách khác. Cuối cùng khi thoát thai thành người kế vị Mao năm 1978, Đặng Tiểu Bình nói với các đồng nghiệp như sau:
Phẩm chất lãnh đạo do đảng chỉ định ở một đơn vị kinh tế sẽ được xác định bởi phương pháp quản trị tân tiến, sự canh tân kỹ thuật, gia tăng hiệu năng của nhân lực, lợi nhuận, lợi tức cá nhân của từng người thợ. Phẩm chất lãnh đạo do đảng chỉ định trong mọi lãnh vực cũng đều sẽ được suy xét cùng các tiêu chuẩn như thế.

Nói khác, tiêu chuẩn để định giá trị của cấp lãnh đạo và đảng viên là sự hữu hiệu kinh tế. Tuy gợi lên mười năm lãng phí của cách mạng văn hóa, ý niệm nầy khác xa với quan niệm của Staline, đảng là tổ chức duy nhất có khả năng qui tụ các cấp lãnh đạo đấu tranh vô sản; cũng như Lưu Thiếu Kỳ xác định rằng tính chất vô sản của CST được ấn định bởi sự đấu tranh chính trị và đời sống chính trị, giáo dục ý thức hệ và lãnh đạo ý thức hệ và chính trị.

Khi nhấn mạnh kỹ năng quản trị và sự lãnh đạo kinh tế, thẩm quyền chuyên môn là căn bản ủy nhiệm, Đặng Tiểu Bình đã gạt bỏ quyền của CST cai trị với tư cách tiên phong của vô sản. Ông còn tạo thêm khó khăn cho đảng khi soát xét tra hỏi lý thuyết Mac Lê cùng tư tưởng của Mao phải chăng đủ sức ấn định tính chất chính thống của Đảng. 
Đặng Tiểu Bình
Image result for political cartoons deng xiaoping
Đặng Tiểu Bình cũng từ bỏ vị trí đĩnh cao bằng cách từ chối những chức vụ mà Mao đảm trách, ngoại trừ chủ tịch ủy ban quân vụ. Ông đã đi đến sự thuận hợp từ nay không ai có thể thống trị đồng nghiệp như Mao nữa. Như vậy, tuy được xem là trọng tài tối hậu, ông đã làm cho hình tam giác mờ đi ở đĩnh, hai cạnh sườn bị nứt, chỉ còn cạnh đáy quân đội còn giữ nguyên. Ông cũng làm yếu tam giác nhỏ thứ hai bên trong bằng cách không coi trọng đấu tranh giai cấp và tuyên bố mọi người bình đẳng trước pháp luật.

Đồng thởi, họ Đặng đã giúp sức cho ba nguồn sinh lực đang bị gông cùm: nông dân, bằng cách hủy bỏ sự kiểm soát của đảng qua hệ thống tập thể và cho họ tự canh tác theo từng gia đình riêng rẻ; dân chúng thành thị bằng cách khuyến khích mở các xưởng tư, và cung cấp dịch vụ; và thứ ba, trí thức và sinh viên bằng “giải cảng”, mở cửa trông ra xứ người, cho phép du lịch và phổ biến các tư tưởng, một cách tương đối tự do. Ba lớp người trên đều ý thức rằng Tàu đã đi thụt lùi quá xa dưới sự lãnh đạo của CST, cay đắng nhìn những quốc gia từng bị chiến tranh tàn phá, Nhật, Nam Hàn và Đài Loan dạy cho bài học rằng Tàu cẩn bỏ nhu cầu ở lỳ trong tình trạng chậm tiến.

Goddess of Democracy in Tiananmen Square.jpg
chữ Tàu: dân chủ nữ thần

Cái chết của Hồ Diệu Bang có thể là ngòi lửa châm cháy cánh đồng cỏ xã hội đã khô. Không thể nói sinh viên đã hiểu đầy đủ ý nghĩa hai chữ dân chủ; nhưng họ và đồng hương ở Bắc Kinh và các thị trấn khác biết rằng họ muốn thoát ách đàn áp. Thư lại, nhà tuyên truyền và ngay cả lãnh đạo đảng đã ủng hộ. Bước cùng của ý thức hệ đảng đã hiện rõ nơi bức tượng “nữ thần dân chủ” đối diện với tượng của Mao. Thiếu sự hổ trợ từ bên ngoài, tam giác nhỏ bên trong đã bị vô hiệu hóa, họ Đặng phải nhờ Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân cùng lúc đóng vai trò của cả hai tam giác ngoài và trong.

Yếu tố chung các cuộc đảo lộn khắp khối CS chính là sự tấn công từ thượng tầng chứ không phải từ áp lực bên trong. Các hệ thống độc tài tuyệt đối đủ sức cầm cự điều ngự các áp lực từ các khối dân trong xã hội nhưng tan rả khi lãnh đạo, vì muốn thay đổi triệt để, đã khơi mào những thách thức bên ngoài và có những hành động bất lợi cho hệ thống.

Chủ trương “tập trung dân chủ” là một sự bao che cho hệ thống đẳng cấp dựa trên sự tuân thủ nghe lời không thắc mắc. Vì không có hậu thuẩn của dân chúng tại địa phương, các đảng bộ không có khả năng độc lập để sống còn, trái lại tồn tại nhờ sức mạnh bên trên bang cho, chứ không phải nhờ sức mạnh từ bên dưới. Khi lãnh đạo tối cao dùng vị thế cá nhân để tiêu diệt thuộc cấp, phản ứng chung sẽ là sự chấp nhận thụ động cứng như đá, câm như trìa. Đó là trường hợp Nga thập niên 1930, Tàu 1960 và Đông Âu vào những năm 1980.

Sự khác biệt giữa một bên là Staline và bên kia gồm Mao, Đặng và Gorbachev như thế nầy. Staline xua tổ chức xã hội chống giới thư lại, dùng phần nầy diệt phần kia trong guồng máy nhà nước. Một thời gian dài, mật vụ đã đảm nhiệm mọi công việc chính của đảng, song song với nhiệm vụ bình thường là kiểm soát toàn xã hội. Thế nhưng người dân thường ngoài phố không bao giờ được phép nghĩ rằng đảng sẽ bị hủy diệt để cho mình một cơ hội hành động theo ý muốn.

Ngay trước cuộc chính biến tháng tám, các lãnh tụ trội yếu của Nga như Yelsin đã bỏ đảng, cho thấy họ có ý định thành lập một tổ chức chính trị mới. Chủ thuyết Mac Lê và di sản của cách mạng bôn sê vít và chính cả Lenine được đem ra hạch hỏi. Giá như đảo chánh thành công, phe chủ trương không thể phục hồi những yếu tố chuyên biệt của hệ thống CS; họ sẽ thiết lập nền độc tài quân phiệt khiếp đãm theo kiểu Napoléon Bonaparte. Đảo chánh thất bại cho thấy cạnh đáy của tam giác quyền lực là Hồng Quân đã bị lủng đoạn bởi các sự chia rẽ đến từ glasnost và perestroika. Số phận nầy cũng đã đến với cột trụ của tam giác nhỏ là KGB; bằng chứng là sự kéo sập tượng Dzerzhinski (1877-1926; cha đẻ của mật vụ Cheka).

Thiếu sự nương tựa truyền thống của đảng, của chủ thuyết và của quân đội, vị trí lãnh đạo của Gorbachev rất tế nhị. Mặc dù không đúng, nhưng hiểu được, khi tái thừa nhận tầm quan trọng của CSN, Gorbachev trong sáu năm qua đặt ra một nền móng mới: chỉ có sự ủy nhiệm của dân chúng mới là nguồn gốc của sự chính thống của mọi cơ cấu chính trị cai trị USSR ngày nay.

Nhưng Yelsin nắm điều nầy và chuyển đổi quy chế chính trị cá nhân và được bầu làm tổng thống cộng hoà Nga. Với vị trí mới nầy, Yelsin đang tìm câu giải đáp là chức vụ tổng thống toàn Xô Viết có chăng đủ sức liên kết các cộng hòa trong liên bang vào thời đại mới.
Sau chính biến bất thành, Yelsin công bố ý muốn thành lập một quân đội riêng cho cộng hòa Nga và ông đã cấm hay giới hạn hoạt động của đảng CS tại Moscou và nhiều nơi khác trong cộng hòa nầy. Sự thể nầy cho thấy (1991) việc giải tán hoàn toàn tam giác độc tài Xô viết chỉ là vấn đề thời gian.

Bên Tàu cũng vậy, sự băng hoại đã đi quá xa. Nền độc tài tuyệt đối đang run rẩy nhưng vẫn được duy trì bởi ý chí chung và đoàn kết của lớp già bao quanh Đặng Tiểu Bình. Vai trò lịch sử của họ trong tư cách anh hùng cách mạng – chứ không phải đảng CS, tư tưởng Mao hay quân đội – đã cho chế độ một điều giống giống của sự liên tục, của sự bất khả thẩm nhập, cũng như một bóng mờ tả tơi của điều gọi là tính chất chính thống của quyền lực. Họ không còn sống bao lâu để tiếp tục như vậy.

Thật vậy, khá kỳ dị, tình hình chính trị Tàu thập niên cuối giống như thập niên đầu của thế kỷ 20. Lúc ấy, ý thức hệ cổ truyền giao chính mệnh cho giới cai trị nay bị hủy bỏ khi các định chế quốc gia được canh tân hóa. Hệ thống nha lại dựa trên ý thức hệ nầy nay không còn quyền lực; công chức có kỹ năng mới được trọng dụng. Cũng vậy, tuy dân chúng ly loạn, một chế độ sạt nghiệp vẫn được duy trì từ hậu trường với một ông vua bao dàn làm màu mè bên ngoài. Nhưng khi Từ Hy thái hậu chết năm 1908, tam giác quyền thế cổ truyền đã mất yếu tố quan trọng nhất và bốn năm sau hệ thống hoàng triều mất dạng.

Trong chỗ trống do cái chết của Từ Hy, chỉ có nhà binh mới có thể sử dụng quyền uy. Một vị tướng danh tiếng lúc ấy là Viên Thế Khải đã dàn xếp cho hoàng đế cuối cùng thoái vị, lập nên nền cộng hòa kế tiếp rồi tái lập hệ thống quyền hành xưa và lên làm vua trong 83 ngày, rồi  kéo theo nạn sứ quân. 80 năm sau, nhiều điều trong tấn tuồng nầy được diễn lại. Sau vụ Thiên An Môn, quân đội tự nắm trọng trách sắp xếp quyền hành khi Đặng Tiểu Bình rời khỏi sân khấu. Thượng tướng Dương Bạch Băng xuất hiện đảm trách chính sự, tuy kinh nghiệm ở Nga cho thấy giới quân sự không thể điều khiển một quân lực chia rẻ một khi tam giác quyền uy sụp đổ.

Hệ thống CS Tàu không thể sống sót; những cột trụ chống đở đã mục; đảng CS Tàu không có mục đích nào khác. Khi ra đời 70 năm trước, nó có mục đích tái thống nhất quốc gia, trả thù những nhục nhã ngoại quốc đặt lên đầu, phát triển kinh tế và chuyển hóa xã hội. Cách mạng 1949 thực sự đã tái thống nhất mọi lãnh thổ của vương triều xưa, và bắt đầu đứng dậy như một cường quốc chưa từng có một trăm năm nay.

Nhưng 42 năm nối đuôi nhau chứng kiến những cuộc thí nghiệm kinh tế và xã hội vô cùng nguy hại. Những chương trình cải cách do Đặng Tiểu Bình đệ trình là lời xác nhận rằng kinh tế CS không làm được tích sự gì, rằng sự chuyển cải xã hội theo lối CS là một tai ách. Ở tuổi 70, đảng CS Tàu cũng như CS Nga tranh sống chỉ để giữ quyền hành đã nắm được từ thời cách mạng xa xưa. Khi lớp trẻ lên thế các “cha già cách mạng”, thì họ thấy vô số vấn đề khác rất quan trọng cho quyền lợi quốc gia, như trường hợp Gorbachev.

Về tuổi thọ bình thường, Thánh Thi trong Thánh Kinh (Psalms) viết: số năm đời người gồm ba bó cộng mười (three-score years and ten; 20 x 3 + 10 =70). Nhưng nếu vì sức lực riêng mà sống đến bốn bó (90) thì cũng chỉ có nhọc nhằn và sầu khổ.

Già hơn 70 rồi, đảng CS Tàu còn kéo lê ngày dài nhọc nhằn và sầu thảm. Thiên An Môn cho thấy xã hội có thể thách thức chính quyền độc tài. Thiên An Môn là một chiến thắng kiểu Pyrrhic, thắng trong trường hạn nhưng bây giờ đành thua. Tuy có hai bối cảnh khá khác biệt, và mục tiêu gần như đối nghịch, Thiên An Môn và đảo chánh bất thành ở Nga cho thấy đã đến lúc các nhà nước độc tài phải cáo chung. (Aug 29, 1991)

===================================================================================================================




No comments:

Post a Comment