add this

Friday, September 12, 2025

Cuối đời Nguyễn Hữu Đang

 Nguyễn Hữu Đang


NGỌN TRE VẬT VÃ CUỐI TRỜI ĐÔNG
Phùng Quán • 1992

Anh Nguyễn Hữu Đang thì tôi được biết mặt từ mấy chục năm trước, nhưng rất ít khi được truyện trò với anh. Mỗi lần tôi được anh hỏi chuyện, tôi bối rối, sướng mê người, đầu không khiến mà chân cứ rút về thành tư thế đứng nghiêm, như ngày còn làm lính trinh sát mỗi khi được chính uỷ sư đoàn hỏi chuyện.
Cách đây khoảng 15 năm, anh từ cao nguyên Hà Giang trở về, tá túc tại quê nhà. Hàng năm vào dịp giáp tết lại thấy anh đảo lên Hà nội trên chiếc xe đạp thiếu nhi Liên xô. Anh mang đến cho mấy bạn cũ mỗi người một cân gạo nếp. Một lần tôi cũng được anh cho một cân. Tôi cảm động ngạc nhiên hỏi anh:
- Anh kiếm đâu ra gạo nếp cho chúng em thế?
Anh cười:
- Anh sống ở nông thôn cũng phong lưu ra phết. Không những có gạo nếp biếu bạn lại có cả thóc và rơm cho nông dân vay.
- Hiện nay anh đang làm gì ở đó?
- Anh nghiên cứu Lão Trang và dịch lại cuốn lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô qua bản tiếng Pháp. Đối chiếu, thấy bản dịch in sai nhiều quá.
Hai năm trở lại đây không thấy anh lên Hà nội nữa. Mấy anh em quen cũ chúng tôi hỏi nhau: “Không biết anh Đang có gặp chuyện gì trắc trở dưới đó?”. Nỗi lo lắng này thường xuyên ám ảnh tôi. Năm đó tôi nhất quyết phải về quê thăm anh, mặc dầu đã gần giáp Tết.
Tôi nói khó với vợ: 
- Em bớt cho anh một phần lương hưu tháng này; lấy tiền tàu xe, ăn đường, về Thái Bình tìm thăm anh Đang. 
- Nhưng tết nhất đến nơi rồi, chờ ra giêng anh đi có được không?
- Anh bỗng nhiên thấy nóng ruột quá; đợi đến ra giêng e chậm mất. Anh Đang đã gần cái tuổi tám mươi, mà lại một thân một mình.
- Anh có biết địa chỉ của anh Đang không? 
- Anh chỉ biết anh ấy ở Thái Bình, địa chỉ cụ thể thì không biết.
- Cả cái tỉnh Thái Bình rộng mênh mông với hơn hai triệu dân, không có địa chỉ cụ thể làm sao anh tìm được?
- Trời đất! Một người như anh Nguyễn Hữu Đang thì anh tin rằng về dưới đó hỏi đứa con nít nó cũng biết. 
Vợ tôi đành trao cho tôi nửa số tiền lương hưu tháng cuối năm vừa lĩnh, với vẻ mặt nhẫn nhịn của người vợ phải trao cả một nửa sản nghiệp cho chồng tiêu hoang vào một việc không đâu! Tôi vội nhét mấy tờ giấy bạc vào túi, nhảy lên xe đạp, cắm đầu đạp thẳng ra ga vì sợ vợ thay đổi ý kiến.

Vừa đi tàu, vừa ô-tô, xe đạp, sáng 26 tết tôi có mặt ở thị xã Thái Bình. Để đỡ bớt thì giờ tìm kiếm, tôi hỏi đường đến Sở Văn Hoá và Hội Văn Nghệ Tỉnh, hỏi địa chỉ của anh.
Tôi thực sự ngạc nhiên thấy nhiều cán bộ ở hai cơ quan này không biết Nguyễn Hữu Đang là ai. Có vài người biết nhưng lại rất lơ mơ. “Hình như ông ta ở Quỳnh Phụ, Kiến Xương hay Tiền Hải gì đó.”
May tôi gặp được một nhà thơ trẻ. Khi biết rõ ý định của tôi, anh hăng hái nói: “Cháu sẽ đưa chú ra cái quán thịt chó nổi tiếng, ở đó thường có mấy anh cán bộ về hưu trạc tuổi chú lui tới hỏi thế nào cũng có người biết.” Tôi theo anh bạn thơ trẻ ra quán thịt chó, và phải cắn răng lại vì số tiền còm cõi trong túi, gọi một đĩa thịt luộc và hai chén rượu cho phải phép. Đợi chừng nửa tiếng, có một người đã đứng tuổi để chiếc xe “cúp” trước cửa, đi vào quán. Nhà thơ trẻ đứng bật dậy, nói với tôi:
- Ông này ở cơ quan an ninh tỉnh, hỏi chắc ông biết.
Tôi vội níu tay anh lại, dặn nhỏ:
- Cậu nhớ đừng giới thiệu mình là ai, sẽ rách việc!
- Biết rồi, biết rồi, chú không phải dặn.
Anh bạn trẻ đi đến gặp ông ta, nói cái gì đó và chỉ tay về phía tôi. Anh cán bộ an ninh tươi cười bắt tay tôi, ngồi đối diện và tươi cười hỏi:
- Xin lỗi cụ, năm nay cụ hưởng thọ được bao nhiêu tuổi ạ?
Tôi đoán chắc anh ta thấy tôi ăn bận nhếch nhác: quần áo bà ba nâu, chân dép lốp, râu tóc bạc trắng, nên hỏi vậy. Tôi liền nói phứa lên:
- Cám ơn đồng chí - tôi cười - Cũng thất thập cổ lai hy rồi đồng chí ạ!
- Trước cụ có làm công tác ở đâu không ạ?
- Tôi làm thường trực cho một cơ quan thương nghiệp trên Hà nội, về hưu đã gần được chục năm rồi.
- Cụ là thế nào với ông Nguyễn Hữu Đang ạ?
- Tôi có quen biết gì với ông ta đâu. Thậm chí cũng chưa biết mặt. Chẳng là ở tổ hưu của tôi có một cụ nghe đâu hồi bí mật cùng hoạt động với ông ta. Biết tin tôi về thăm đứa cháu họ, công tác giáo viên ở Quỳnh Côi, ông cụ gần tôi đưa tôi mười ngàn bạc gửi biếu ông ấy mà giao hẹn phải đưa tận tay, tôi tưởng ông ấy ở thị xã, hỏi loanh quanh mãi không ai biết.
Anh cán bộ cười:
- Ông ấy đâu có ở thị xã. Hiện ông ấy đang ở thôn Trà Vy, xã Vũ Công, huyện Kiến Xương, cách đây gần hai chục cây số. Ngược gió này mà cụ đạp xe về tới đó cũng vất vả đấy.
Thấy tôi chăm chú lắng nghe, anh cán bộ trở nên cởi mở:
- Nói để cụ biết, trước kia cái ông Đang ấy cũng là người hoạt động cách mạng có tên tuổi. Nhưng rồi ông ta giở chứng, làm báo làm văn chống đối Đảng và Nhà nước, bị xử phạt mười lăm năm tù ngồi, đưa lên giam trên trại tù ở Hà Giang. Mãn hạn tù, ông ta xin về cư trú tại quê quán. Tuy vậy ông ta vẫn thuộc diện đối tượng. Cách đây mấy năm, ông ta lén sang Nam Định không có giấy đi đường đến nhà một đối tượng mà công an đang theo dõi. Công an hai tỉnh liền phối hợp, hỏi giấy đi đường rồi bắt giam bốn tháng ở nhà lao hai tỉnh để cảnh cáo, và tổ chức khám nhà. Sau đó thả cho về.
Tôi tỏ ý sợ hãi, gãi đầu gãi tai:
- Chà... Biết rắc rối thế này thì tôi chẳng gặp ông ấy nữa. Đem tiền về trả lại thôi.
Anh cán bộ xuề xoà:
- Không sao đâu, cụ ạ, chính sách của ta bây giờ là đổi mới tư duy. Nghe đâu bây giờ ở trên cũng đang sửa soạn cho ông ấy được hưởng lương hưu. Nếu cụ muốn về thăm ông ấy, cứ việc về. Tôi chỉ đường cho cụ.
Anh cán bộ chấm ngón tay vào ly rượu, vẽ lên mặt bàn, chỉ vẽ cho tôi rất cặn kẽ con đường từ thị xã về chỗ anh Đang tá túc. Tôi đứng lên rối rít cảm ơn anh.

Con đường đá mười mấy cây số chi chít ổ gà. Gió cuối đông buốt như kim châm táp thẳng vào mặt. Nhưng vừa đạp xe tôi vừa nghĩ ngợi miên man về sự thăng trầm của những kiếp người tình nguyện dấn thân vì nghĩa lớn, nên con đường như cũng bớt xa. Đến ngã ba rẽ vào trường phổ thông cấp 1, 2 xã Vũ Công - nơi anh Đang tá túc - tôi vào cái quán bên đường, uống ly rượu cho ấm bụng. Ông cụ chủ quán khi biết tôi từ Hà nội về tìm thăm anh Đang, rót rượu mời tôi và nói:
- Ông ấy thỉnh thoảng vẫn ngang qua đây, tôi đều mời vào uống nước. Ông ấy tần tiện khét tiếng cái xã Vũ công này. Mới cách đây mấy hôm, ông ấy đèo sau xe cái giỏ tre ràng buộc rất kỹ. Ông ấy kể với tôi, tối qua bắt được con rắn gì dữ lắm, phun phì phì, bò vào nhà. Định làm thịt ăn nhưng tiếc, chở lên huyện bán cho một tay buôn rắn độc, kiếm lấy mấy nghìn mua mấy lạng mỡ lá.
Tôi phì cười:
- Ông ấy bây giờ lại thêm cái tài bắt rắn độc, mà mất công đạp xe mi-ni những mười mấy cây số để đổi lấy mấy lạng mỡ lá. Vui thật!
Tôi có người bạn làm thơ tên là Tuân Nguyễn, chết lâu rồi, làm câu thơ mới nghe thật vô nghĩa, nhưng cứ bất chợt lại hiện ra trong trí nhớ tôi: “Cuộc đời vui quá không... buồn được!”. Ông chủ quán rót thêm ly rượu nữa, giọng hào hiệp:
- Ly này tôi đãi cụ! Mà khổ, ông ấy có bán được đâu. Chiều tối ông ấy đạp xe về, phàn nàn: nó không chịu mua, nó bảo loại rắn này không nằm trong bộ tam xà!
Tôi cười ngất.

Anh Đang ở gian đầu hồi nhà bếp của khu tập thể giáo viên, trước mặt là ao cá Bác Hồ của xã. Đứng bên kia bờ ao, một cô giáo chỉ cho tôi:
- Bác ấy đang ngồi ở bậc cầu ao kia kìa! Đang cọ rửa cái gì mà chăm chú thế không biết.
Tôi dắt xe đạp qua sân trường, vòng ra gần sát sau lưng anh. Anh đang dùng nắm rơm cọ rửa những viên gạch vỡ đôi, xếp thành chồng cao cạnh chỗ ngồi. Tôi đứng lặng nhìn anh. Đầu anh đội cái mũ cối méo mó, khoác cái ruột áo bông thủng be bét, quần áo lao động mầu cháo lòng, hai ống chân ôm vòng hai dây cao su đen nom như hai vòng cùm sắt, chắc chắn để nhét hai ống quần vào đó chống rét, lưng anh khòng xuống hình chữ C viết nghiêng. Tôi chợt nhớ cách đây không lâu, tôi được nghe những người cùng thời với anh kể: Hồi mặt trận Bình dân, Nguyễn Hữu Đang là cán bộ được Đảng cử ra hoạt động công khai, ăn vận sang trọng như một công tử loại một của Hà Thành, thắt cà-vạt đỏ chói, đi khắp Trung Nam Bắc diễn thuyết, oai phong, hùng biện, tuyên truyền cách mạng. Mỗi lần cách mạng cần tiền để hoạt động, Nguyễn Hữu Đang có thể đến bất cứ một nhà tư sản Hà nội nào giàu có vay vàng, tiền. Mà những người này trao vàng, tiền cho anh đều không đòi hỏi một thứ giấy tờ gì, vì họ tin sâu sắc rằng trao vàng, tiền cho anh, là trao tận tay cho Cách mạng. Và bây giờ, anh ngồi đó, gần tám chục tuổi, không vợ không con, không còn không nhà, lưng khòng chữ C viết nghiêng, tỉ mỉ cọ rửa những viên gạch vỡ - chẳng hiểu để làm gì - như người bõ già trong chuyện Hương Cuội của Nguyễn Tuân cọ rửa những viên cuội trắng để tẩm kẹo mạch nha vào dịp tất niên. Miên man nghĩ vậy và tôi bật phì cười.
- Anh Đang!
Tôi nghẹn ngào gọi. Anh quay lại, chớp chớp mắt nhìn tôi rất lâu. Gương mặt già nua với mái tóc bạc húi cao, cằm mép lốm đốm những chân râu hạt vừng, vụt rạng rỡ hẳn lên. Anh cười để lộ hai hàm răng vàng xỉn, cùn mòn gần nửa vì năm tháng.
- Phùng Quán? Chú về đây từ lúc nào thế!
Hai anh em chúng tôi ôm chặt nhau giữa bậc cầu ao. Cả hai gương mặt già nua phút chốc đẫm lệ. 

Cái chái bếp căn hộ độc thân của anh rộng khoảng năm mét vuông, chất kín những tư trang, đồ đạc. Mấy cây sào ngọn tre gác dọc ngang sát mái, trên vắt cả chục cái khăn mặt rách xơ như giẻ lau bát, áo may ô thủng nát, quần lao động vá víu, cạp quần đeo lủng lẳng một chùm lục lạc vỏ hộp dầu cao Sao vàng xuyên thủng, buộc dây thép, bên trong có hòn sỏi nhỏ. Đụng vào, chùm lục lạc kêu lên reng reng nghe rất vui tai.
Sau đó, tôi được anh giải thích tác dụng của chùm lục lạc. Đi lại trong đường làng những đêm tối trời, anh thường bị cánh thanh niên đi xe đạp, xe máy phóng ẩu đâm xầm vào, làm anh ngã trẹo tay, sầy gối. Học tập sáng kiến của đồng bào các dân tộc Việt Bắc, treo mõ vào cổ trâu - “Trâu gõ mõ, chó leo thang” - anh Đang chế chùm lục lạc đeo vào cạp quần, báo hiệu có người để họ tránh xa. Tác dụng thứ hai quan trọng không kém. Mỗi lần đạp xe trên đường vắng, nghe tiếng lục lạc loong cong ngang thắt lưng, tự nhiên cảm thấy đỡ đơn độc. Chính giữa gian trái kê chiếc tủ gỗ tạp nhỏ, hai cánh mọt ruỗng không khép kín được, khoá một chiếc khoá lớn như chiếc khoá của nhà kho. Trên nóc tủ xếp một chồng mũ cối, mũ vải, mũ lá mà ở Hà nội người ta thường quẳng vào đống rác. Cạnh tủ là một cái giường cá nhân, bốn chân giường được củng cố thêm bốn chồng gạch. Trên giường một đống chăn bông trần rách thủng. Và một xấp quần áo cũ làm gối. Sát chân giường kê chiếc bàn xiêu vẹo chỉ có hai chân, hai chân kia được thay bằng hai sợi dây thép buộc treo vào tường. Mặt bàn lát bằng nan tre. Anh nói giọng Lão Trang:
- Một cái bàn bốn chân là một con vật. Khi nó chỉ còn lại hai chân nó là một con người.
Trên mặt bàn xếp kín những chai lọ, vỏ đồ hộp, hai cái đèn dầu làm bằng lọ mực Cửu Long, vài con dao làm bằng mẩu lưỡi liềm gẫy, và ba bốn cái bát hương, nắp đậy là những viên gạch vỡ. Anh chỉ nắp đậy, giới thiệu với giọng trang trọng của thuyết trình viên giới thiệu hiện vật trong các bảo tàng nghệ thuật:
- Nó là loại gạch nung rất già, gần đạt tới tiêu chuẩn của các sành sứ cổ. Sức nặng và độ bền của nó làm cho tất cả các loại chuột, mối, gián phải kính nể.
Bây giờ thì tôi đã hiểu anh cọ rửa những viên gạch vỡ để làm gì.
Dưới bàn là mấy chục đôi dép cao su hư nát, đứt quai, được bó thành từng bó, hai cái vại muối dưa rạn nút, sứt miệng, một đống bản lề cửa, sắt vụn, đinh cong queo, mẩu giây thép han rỉ. Tất cả những đồ lề đó, phủ lên một lượt bụi tro.
Lúc tôi bước vào, gian buồng mờ mịt khói. Anh giải thích:
- Giờ này các cô giáo nấu ăn. Bếp tập thể ở sát bên kia tường. Tôi đã trộn rơm với bùn trát những khe hở sát mái, nhưng khói vẫn cứ lọt sang - Anh cười - Chịu khó một chút nhưng cũng có cái lợi. Thỉnh thoảng lại được ngửi mùi xào nấu lẫn với khói, cái mũi được bồi dưỡng... Trong việc dở nào cũng có việc hay và ngược lại.
- Để em đạp xe ra chợ mua cái gì về ăn.
- Thôi khỏi cần, chú về chơi hôm nay là rất gặp may. Sáng nay tôi vừa chế biến được một mẻ thức ăn, ngon vô địch. Chú nếm rồi sẽ biết. Cơm cũng có sẵn rồi. Tôi nấu lúc sáng, ủ vào lồng ủ rơm, còn nóng nguyên. À, tôi lại có cả rượu cho chú, rượu cam xuất khấu hẳn hoi, quà của Hội nhà văn gửi biếu vào dịp tết năm ngoái... Tôi chỉ mới mời mấy thầy giáo mấy chén, còn đủ cho chú say sưa suốt mấy ngày ở chơi.
Anh xăng xái lấy chùm chìa khoá buộc chung với chùm lục lạc, mở khoá tủ tìm chai rượu. Tôi liếc mắt nhìn vào mấy ngăn tủ. Những xấp quần áo cũ nát để lẫn với những chồng báo, giấy má, sách vở ố vàng. Ngăn dưới cùng để rất nhiều chai lọ, vỏ đồ hộp, vỏ bia lon, và nhiều chồng các loại vỏ bao thuốc lá.
Anh lúi húi lục tìm một lúc khá lâu mới lôi được chai rượu cam còn già nửa.
- Đây rồi! Bây giờ già hoá lẩm cẩm. Để chỗ này lại tìm sang chỗ kia.
Tôi cười, nói:
- Nhìn anh, em cứ tưởng là một nhà quý tộc Nga thời Sa Hoàng, tự tay tìm chọn loại rượu quý cất giữ một trăm năm trong hầm rượu, để đãi khách quý.
Tôi chỉ những chồng vỏ bao thuốc lá, hỏi:
- Anh chơi sưu tập vỏ bao thuốc lá à? Thế mà em không biết. Trên nhà em, các bạn đến chơi, hút các loại thuốc lá ngoại hảo hạng, vỏ bao vất lung tung, vợ em ngày nào cũng phàn nàn vì phải dọn nhặt đem đốt.
Anh kêu lên:
- Thế có tiếc không. Lần này chú về trên đó nhớ dặn cô ấy, có vỏ bao thuốc lá ngoại cứ cất giữ cho anh Đang, càng nhiều càng tốt. Nó là hàng đối lưu của tôi đấy.
- Hàng đối lưu? Tôi ngạc nhiên hỏi.
- Để tôi dọn cơm ăn rồi tôi giảng cho chú nghe thế nào là hàng đối lưu. Tôi xem ra chú mù tịt về môn kinh tế chính trị học.
Tôi ngắm nhìn bao quát căn nhà độc thân của anh, hỏi:
- Hơn mười lăm năm qua anh đã sống ở gian buồng này à?
- Ngày tôi mới về xã, tôi sống ở trại lợn của Hợp tác xã. Chẳng là cán bộ xã cũng thông cảm hoàn cảnh khó khăn của tôi, nên đề nghị ra đó trông coi giúp như nhân viên của trại. Ở đó có một gian nhà kho cũng thoáng mát, tôi có thể ăn ở, đọc sách, viết lách kết hợp với việc trông coi trại. Mỗi mùa hợp tác xã trả công điểm mấy chục cân thóc, mấy chục cân rơm làm chất đốt. Số thóc, rơm này tôi không phải dùng đến, trong mấy năm tiết kiệm được hai tạ ba thóc, hai trăm sáu chục cân rơm cho bà con vay. Ngoài ra, vào dịp tết Hợp tác xã bồi dưỡng thêm ít thóc nếp, đem lên Hà nội biếu các chú. Khi tôi bắt tay vào dịch cuốn lịch sử Đảng cộng sản Liên Xô, tiếng lợn kêu ầm ĩ quá làm tôi mất tập trung tư tưởng, nên phải xin thôi công việc trông coi trại, chuyển về đây để được yên tĩnh hơn.
Anh lôi dưới gầm giường ra một cái xô tôn thủng đáy đặt lên miệng xô miếng gỗ dán:
- Đây là bàn ăn - Anh giới thiệu, và vần tiếp ra hai cái vại muối dưa sứt miệng - còn đây là ghế ngồi. Bà con nông dân nghèo mà phí phạm thế đấy. Hai cái vại còn tốt thế này mà đem quẳng bụi tre. tôi nhặt về cọ rửa sạch sẽ lật đít lên, làm thành cái ghế ngồi vừa vững chãi lại vừa mát. Chú ngồi thử mà xem, có khác gì ngồi trên đôn sứ đời nhà Minh.
Anh dọn ra hai cái đĩa, rồi chọn trong hai cái bát hương đậy viên gạch vỡ gắp ra năm, sáu viên gì đó tròn tròn, đen xỉn, nom rất khả nghi. Anh chỉ vào mỗi đĩa, giới thiệu thực đơn đãi khách:
- Đây là chả thịt cóc băm viên. Đây là chả thịt nhái. Có cả mì chính, hạt tiêu nhá! Mười mấy năm nay nhờ bồi dưỡng thường xuyên hai thứ đặc sản này mà tôi rất khỏe, còn khỏe hơn cả chú.
Anh nhắc trong cái rổ phủ đầy rơm để ở góc nhà, xoong cơm đã ăn một góc mà anh giới thiệu vẫn nóng nguyên. Nói đúng hơn là một thứ cháo rất đặc, có thể xắn thành từng miếng như bánh đúc.
- Ba năm trở lại đây tôi phải ăn cơm nhão, nếu ăn cơm khô thì bị nghẹn. Tôi nấu cơm với nước vo gạo nên rất bổ. Chẳng là các cô giáo thường đổ phí nước vo gạo. Tôi đưa cho các cô cái chậu, dặn đổ nước vo gạo vào đấy cho tôi, để tôi chắt ra nấu lẫn với cơm. Tinh tuý của gạo nằm trong nước vo, bỏ đi thật phí phạm.
- Nhưng cóc nhái đâu ra mà anh bồi dưỡng được thường xuyên thế?- Tôi hỏi.
- Ấy, chỗ này mới là bí quyết. Phải huy động lực lượng quần chúng, tức là các cháu thiếu nhi. Biết các cháu ở đây thích chơi vỏ bao thuốc lá, nhất là các loại vỏ bao đẹp, mỗi lần lên thị xã hoặc sang Nam Định chơi, tôi nhặt nhạnh về, đổi cho các cháu lấy cóc nhái. 
Cũng đề ra tiêu chuẩn hẳn hoi. Một vỏ bao ba số đổi 3 con cóc hoặc 5 con nhái. Các loại khác 2 cóc, 3 nhái. Bởi vậy tôi mới nói là hàng đối lưu, chú hiểu chưa. Mỗi tháng tôi chỉ cần ba bốn chục cái vỏ bao là thừa chất đạm, mà là loại đạm cao cấp. Hôm nào chú về tôi gửi biếu cô, chú Cung, mỗi nhà mấy viên nếm thử. Cô chú ăn thịt cóc của tôi rồi sẽ thấy các thứ thịt khác đều nhạt hoét!
Anh rót rượu, chọn gắp viên chả cóc, nhái bỏ vào bát cho tôi, ân cần, âu yếm, trang trọng, làm tôi ứa nước mắt, anh hỏi:
- Chú đi đâu mà lại lặn lội về tận đây vào lúc tết nhất sắp đến nơi?
- Em về đây chỉ một mục đích là thăm anh. Hơn hai năm nay không thấy anh lên Hà nội, chúng em rất lo, không biết anh đau ốm gì, liệu anh có còn sống không? Về đây thấy anh vẫn khoẻ mạnh, em rất mừng. Anh là nhân chứng của một quá khứ hào hùng của đất nước. Nếu anh chết đi, tàn lụi như cỏ cây, không nhắn gửi lại gì cho thế hệ sinh sau, theo em là một tổn thất không gì bù đắp được.
Tôi lấy anh xem một số tư liệu liên quan đến ngày 2-9-1945, vừa sao chụp được:
- Từ lâu, em vẫn mơ ước viết một cái gì đó, một thiên trường ca chẳng hạn, thật hào hùng... Anh là trưởng ban tổ chức Ngày Độc Lập như trong tư liệu hiện còn lưu giữ được. Em muốn được tận tai nghe anh kể lại những kỷ niệm, những hồi ức mà anh cho là sâu sắc nhất. Mà nếu anh không dùng đến thì cho em xin.
Anh im lặng rất lâu, dùng đũa tém lại những mảnh vụn thịt cóc, nhái trong đĩa, gắp bỏ vào bát mình những mảnh khác rớt xuống mâm ván. Anh chăm chú nhìn vào cái đĩa đã tóm gọn, như đang gắng đọc những hồi ức in lại trong lớp men sành. Anh chợt nói, mắt vẫn không rời cái đĩa:
- Thấm thoắt thế mà đã bốn mươi bảy năm trôi qua. Tôi còn nhớ như in ngày hôm đó là ngày 28 tháng 8. Tại sao tôi nhớ, vì đó là thời khắc lịch sử phải được tính từng phút một. Năm đó tôi bước vào tuổi băm ba. Chính phủ cách mạng lâm thời họp tại Bắc Bộ phủ, để quyết định ngày lễ ra mắt quốc dân đồng bào. Hôm đó, tôi có việc cần phải giải quyết gấp, nên đến nơi thì phiên họp vừa giải tán. Vừa bước lên mấy bậc thềm thì thấy cụ Nguyễn Văn Tố từ trong phòng họp đi ra. Cụ mừng rỡ chụp lấy tay tôi, nói: “Anh vào ngay đi, cụ Hồ đang đợi anh trong đó”. Tôi theo cụ Tố vào phòng họp. Đó là lần đầu tiên tôi được gặp mặt ông Cụ. Ông Cụ ngồi ở ghế tựa, mặc bộ quần áo chàm, tay chống lên ba toong. Cụ Tố kéo tôi lại trước mặt Cụ, giới thiệu: “Thưa Cụ, đây là ông Nguyễn Hữu Đang, người mà phiên họp quyết định cử làm Trưởng ban Tổ chức ngày lễ”. Cụ Hồ nhìn tôi một lúc với cặp mắt rất sáng, cặp mắt mà về sau này nhân dân cả nước đồn rằng có bốn con ngươi – như muốn cân nhắc, đánh giá người mà Cụ quyết định giao trọng trách. Cụ hỏi tôi với giọng Nghệ pha, rất giống giọng cụ Phan Bội Châu mà có lần tôi đã được nghe: “Chính phủ lâm thời quyết định làm lễ ra mắt quốc dân đồng bào vào ngày mồng hai tháng chín. Chú có đảm đương được việc tổ chức buổi lễ không?” Tôi tính rất nhanh trong đầu: tháng 8 có 31 ngày, như vậy là chỉ còn 4 ngày nữa thôi. Tôi suy nghĩ cân nhắc trong từng phút. Hình dung ra tất cả những khó khăn như núi mà tôi phải vượt qua để tổ chức được một ngày đại lễ như vậy, trong khi mình chỉ có hai bàn tay trắng. Tôi nói với Cụ Hồ: “Thưa Cụ, việc cụ giao là quá khó vì gấp quá rồi”. Cụ Hồ nói ngay: “Có khó thì mới giao cho chú chứ!”. 
Anh Đang ngẩng phắt lên nhìn tôi. Vẻ già nua cùng quẫn trên con người anh như được trút bỏ hết. Dáng dấp oai phong, khí phách của người chiến sĩ cách mạng luôn luôn đứng ở hàng xung kích lại hiện nguyên hình.
“Như chú biết đấy - giọng anh vụt trở nên sang sảng – tôi là một nhà tuyên truyền, động viên thiên hạ, chuyên nghiệp. Thế mà lần này tôi lại bị ông cụ động viên một cách tài tình, bằng một lời thật ngắn gọn, giản dị! Nghe ông Cụ nói vậy lúc đó tôi thấy trong con người mình bừng bừng khí thế, muốn lập nên được những kỳ tích, những chiến công thật vang dội. Tôi nói với ông Cụ: “Thưa Cụ, Cụ đã nói như vậy con xin nhận nhiệm vụ. Con xin hứa sẽ cố gắng hết sức để hoàn thành trọng trách”. Cụ Hồ đứng lên, bắt tay tôi, dáng bộ, gương mặt nom rất vui vẻ, bằng lòng: “Thế thì chú trở về bắt tay ngay vào việc đi. Đến sáng ngày kia, chú đến đây báo cáo với tôi công việc được tiến hành như thế nào”. Tôi chào Cụ, ra về, lòng rạo rực lâng lâng. Nhưng khi vừa bước xuống hết những bậc thềm rộng thênh thang của Bắc Bộ phủ, tôi chợt nghĩ ra một điều. Tôi liền quay trở lại phòng họp. Cụ Hồ vẫn còn đứng đó. Cụ hỏi ngay: “Chú còn cần gì nữa?”. “Thưa Cụ, để hoàn thành trọng trách, xin Cụ trao cho con một quyền”. “Quyền gì, chú cứ nói đi!”. “Thưa Cụ, quyền được huy động tất cả những gì cần thiết cho buổi lễ, về người cũng như về của.”. “Được, tôi trao cho chú cái quyền đó. Nếu ai hỏi huy động theo lệnh của ai, cho phép chú được trả lời: Theo lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh!”.
"Công việc đầu tiên là tôi thảo một thông cáo ngắn gọn – anh gắp thêm mấy viên chả cóc trong bát hương, bỏ ra đĩa rồi kể tiếp - Nội dung như sau: ngày 2 tháng 9 năm 1945. Chính phủ cách mạng lâm thời sẽ làm lễ ra mắt quốc dân đồng bào, tuyên ngôn Độc lập tại vườn hoa Ba Đình. Đồng bào nào có nhiệt tâm, muốn đóng góp sức, góp của vào việc tổ chức ngày lễ lịch sử trọng đại này, xin mời đến Hội quán Trí Tri phố Hàng Quạt gặp Ban tổ chức. Thông cáo được gửi ngay đến tất cả các báo hàng ngày, yêu cầu đăng lên trang nhất, với hàng tít thật lớn chạy hết trang báo. Người ghi tên vào các công tác, người góp tiền, góp vàng, góp vải vóc, gỗ ván. Nhiều người từ chối không lấy giấy biên nhận: “Biết bao anh hùng, liệt nữ đóng góp cho nền độc lập của dân tộc, đâu có lấy giấy biên nhận“, họ nói vậy. Tôi mời mọi người dự cuộc họp chớp nhoáng, và đưa ra ý kiến: Việc cần thiết trước tiên là phải dựng một lễ đài thật đẹp, thật lớn, thật uy nghi, xứng đáng với ngày lịch sử trọng đại này, tại trung tâm vườn hoa Ba Đình để Chính phủ cách mạng lâm thời đứng lên ra mắt. Vậy đồng bào nào hiện có mặt tại đây có thể đảm nhiệm trọng trách đó? Một người trạc ngoài ba mươi, ăn mặc lối nghệ sĩ, đeo kính trắng, bước ra nói: “Tôi là hoạ sĩ Lê Văn Đệ. Tôi xin tình nguyện nhận việc dựng lễ đài. Trưa nay tôi sẽ mang bản phác thảo lễ đài đến ban tổ chức xem xét”. Tôi bắt tay hoạ sĩ, nói: “Tôi được biết tên tuổi anh từ lâu và cũng nhiều lần được xem tranh của anh. Tôi xin thay mặt Ban tổ chức hoan nghênh nhiệt tâm đóng góp của anh. Nhưng lễ đài là một công trình kiến trúc, tuy dựng gấp rút, tạm thời, nhưng phải đạt những tiêu chuẩn không thể thiếu của nó như sự vững chắc, sự hài hòa công trình với tổng thể. Nói ví dụ nếu như không vững chắc, mấy chục con người đứng lên, nó đổ sụp xuống thì ngày lễ coi như thất bại. Bởi vậy cần một kiến trúc sư phối hợp với anh”. Một người trẻ tuổi ăn vận chỉnh tề, từ trong đám đông bước ra, tự giới thiệu: “Tôi là kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh, cùng hoạt động trong Hội Văn hoá Cứu quốc với anh Phạm Văn Khoa. Hôm qua tôi được anh Khoa cho biết ý đồ của Ban tổ chức, tôi đã vẽ xong bản đề án thiết kế lễ đài”. Anh Quỳnh trải cuộn giấy can cầm sẵn trên tay lên mặt bàn. Đó chính là toàn cảnh lễ đài Độc Lập mà sau này chú được nhìn thấy in hình trên báo chí. Bản vẽ thật đẹp, thật chi tiết, tỉ mỉ. Lễ đài với tổng thể vườn hoa Ba Đình, vị trí dựng lễ đài, chiều cao, chiều rộng, mặt bằng, mặt cắt ngang, cắt dọc lễ đài, độ lớn các xà gỗ, tổng diện tích mặt ván ốp lát v.v... Sau khi nghe anh Quỳnh thuyết trình, tôi xem xét, cân nhắc rồi đặt bút kí duyệt bản thiết kế, đóng dấu Ban tổ chức. Tôi nói với anh Lê Văn Đệ và anh Ngô Huy Quỳnh: “Ban tổ chức quyết định giao việc này cho hai anh. Các anh cần gì, chúng tôi sẽ lo chạy đầy đủ. Hiện nay chúng tôi có một kho ba ngàn thước len đỏ, cần dùng bao nhiêu các anh cứ lấy dùng. Lễ đài phải được dựng xong trong vòng 48 giờ đồng hồ. Đúng 5 giờ sáng ngày mồng 2 tháng 9, tôi sẽ đến nghiệm thu. Chúc các anh hoàn thành nhiệm vụ”.

- Ông Đang ơi! Ông Đang! Tiếng con nít gọi nheo nhéo ngoài cửa, ngắt ngang câu chuyện của anh.
Tôi nhìn ra thấy hai chú bé trạc 9, 10 tuổi, mỗi chú cầm một cành tre, đầu cành tre thõng thượt một con rắn nước, mình nhỏ bằng chuôi dao, đầu bị đập dập còn nhỏ máu tươi.
- Ông có đổi rắn nước không ạ?
Anh Đang bỏ bát đũa ra cửa, xem xét cẩn thận hai con rắn nước. Rồi hỏi:
- Các cháu định đổi như thế nào?
- Ông cho cháu mỗi con hai cái vỏ bao ba số.
- Các chú đừng có giở thói bắt chẹt! - Giọng nói và thái độ của anh đã chuyển hẳn sang giọng của dịch vụ đổi chác - Mỗi con rắn này chỉ trị giá bằng hai con cóc. Nhưng thôi thì ông đành chịu thiệt vậy, mỗi con bằng một vỏ bao ba số, các chú có chịu đổi thì đổi, không đổi thì thôi!
Hai chú bé ngần ngừ một lúc, rồi nói:
- Chúng cháu đổi ạ!
Anh quay vào mở khoá tủ, chọn lấy ra hai cái vỏ bao ba số, đưa cho mỗi chú một chiếc, và cầm lấy hai con rắn. Hai chú bé cũng xem xét hai cái vỏ bao cẩn thận không kém ông Đang xem xét hai con rắn. Một chú nói:
- Ông đổi cho cháu cái vỏ bao khác, cái này bên trong không có tờ giấy vàng.
Anh cầm cái vỏ bao xem lại, cười:
- Được, ông sẽ đổi cho cái vỏ bao khác. Sau này chú mà làm cán bộ thu mua thì nhà nước không phải chịu thua thiệt.
Anh cầm hai con rắn bỏ vào cái rổ con ở góc nhà. Mặt tươi hẳn lên, như người buôn bán vừa vớ được món hời:
- Thịt rắn còn bổ hơn thịt cóc. Tối nay tôi sẽ đãi chú món rắn om riềng mẻ, ăn vào chú sẽ thấy tăng lực gấp đôi, có thể đạp xe một mạch lên đến bến phà Tân Đệ.

Tôi ở lại chơi với anh Đang ba ngày, thuê một anh phó nháy ở xã trên xuống chụp chơi mấy “pô” làm kỷ niệm. Bữa cơm tiễn tôi, anh có vẻ buồn. Vừa dùng đũa tém tém mấy khúc rắn om mặn chát nổi muối trong đĩa, anh vừa nói:
- Hiện tôi đang cố gắng hoàn thành thiên hồi ký, thuật lại tất cả những gì có liên quan đến thế sự, kể từ khi tôi bước chân vào con đường hoạt động cách mạng cho đến những năm tháng gần đây. Trong hồi ký, tôi sẽ đề cập đến những việc mà từ trước đến nay tôi chưa hề tiết lộ với ai. Ví dụ như bản thảo tuyên ngôn của ông Hồ viết. Còn hay mất, nếu còn thì bây giờ ở đâu. Hoặc ông định sửa hai câu trong bản tuyên ngôn, nhưng không kịp vì bản chính đã đưa đi in mất rồi. Là trưởng ban tổ chức ngày lễ, tôi phải phụ trách in ấn những tài liệu có liên quan đến vận mệnh của đất nước này. Như chú biết đấy, hiện nay trong bảo tàng Hồ Chí Minh cũng như bảo tàng Lịch sử, không có bản Tuyên ngôn Độc lập. Tôi sợ sẽ làm không kịp mất, gần tám chục tuổi đâu rồi còn gì, mà lại không có điều kiện làm việc, ban đêm coi như chịu chết, đèn đóm tù mù, đúng là đóm thật.

Anh im lặng một lúc lâu rồi ngẩng lên nhìn tôi, nói tiếp:
- Chú có biết điều lo lắng nhất của tôi hiện nay là gì không? 
Không đợi tôi đoán, anh nói luôn:
- Tôi lo nhất là không biết chết ở đâu. Lúc sống thì tôi ở nhờ nhà ai mà chẳng được ở đây cũng như ở trên Hà nội. Nhưng lúc chết thì người thân mấy cũng làm phiền người ta. Có ai muốn một người không phải ruột rà máu mủ chết ở nhà mình? Ngay cả cái chái bếp này cũng vậy, tôi nằm chết sẽ làm phiền nhà trường, các thầy cô giáo, các cháu học sinh. Bởi vậy mà hai năm nay tôi không muốn lên Hà nội. Ở đây, tại quê hương bản quán, tôi đã chọn sẵn chỗ để nằm chết. Chú ra đây tôi chỉ cho, đứng ở đây cũng nhìn thấy.
Tôi theo anh ra đứng lên cái trụ xi măng cầu ao cá. Gió mùa Đông Bắc lạnh thấu xương thổi thốc vào mặt hai anh em. Anh chỉ tay về phía một bụi tre gần cuối xóm, đơn độc giữa cánh đồng, ngọn tre đang vật vã trong gió buốt:
- Đấy, dưới chân bụi tre ấy có một chỗ trũng nhưng bằng phẳng, phủ đầy lá tre rụng, rất vừa người tôi. Tôi sẽ nằm ở đó chết để khỏi phải phiền ai. Tôi đã chọn con đường ngắn nhất để có thể bò kịp đến đó trước khi nhắm mắt xuôi tay.
Trở vào nhà, cả người tôi nổi gai, ớn lạnh, chắc là vì bị cảm lạnh. Tôi dốc hết rượu ra bát uống ực một hơi chống lạnh. Rượu vào lời ra, tôi cất giọng ngâm to mấy câu thơ của Phùng Cung mang về tặng anh:
        Mắt già rộng chớ
        Rắc mãi phong lưu
        Góp nhặt đem về thúng cũ
        Quỳ dưới chân quê
        Trăm sự cúi đầu
        Xin quê rộng lượng
        Chút thổ phần bò xéo cuối thôn!


Tháng 12, 1992

============================================================

VC bán huy chương


Tuesday, September 9, 2025

Ngã ba sông, truyện ngắn


NGÃ BA SÔNG

Vũ Ngọc Giao
1.
Chị đi trước, lưng áo đẫm mồ hôi, mái tóc dài cột vổng đong đưa theo bước chân nhún nhảy, đến bến đò ngoái lại thấy anh còn loay hoay với giỏ bắp mới hái. Đò cập bến, tiếng máy nổ phành phạch ồn ã một khúc sông.
- Đò qua rồi, anh về đi!  Chị cười, giơ tay vẫy vẫy.
- Bắp mới hái trên biền. 
Anh đưa cái giỏ nặng trịch nhìn chị âu yếm, nói tiếp:
- Xách nổi hông? Nói má anh gửi lời hỏi thăm, cuối tháng này xong việc anh qua chơi.
Chị quay đi nhìn khúc sông mù mịt khói.
- Anh đừng qua... má không vui.
- Ừ… vậy.  
Giọng anh như gió thoảng, buồn thiu. Anh đứng nhìn chị xuống đò, cuộn khói đen sì phụt ra, phành phạch bay là là trên sông. Con đò chật kín người tròng trành trong chiều muộn, ra giữa dòng anh còn thấy chị ngoái lại cười, đôi môi bậu khi cười cũng buồn rượi.
Đò chạy dọc bãi Bói, chiếc áo màu cánh gián của chị nhòa dần rồi mất hút.

2.
Chị và anh, như những đứa trẻ nơi này, sinh ra và lớn lên bên bến sông. Nhà chị cách nhà anh một quãng đồng và con sông rộng.
Anh có họ đằng nội với chị.
Hồi nhỏ mỗi năm vào ngày giỗ, anh lại theo má qua sông, còn nhớ ngày đó chị là con bé gầy nhom, môi hồng tươi hay cười. Lần nào thấy anh qua cũng lăng xăng bắt anh làm cho con diều cong cong thả đồng.
Vậy mà giỗ năm đó anh không còn thấy con bé lăng xăng nữa, lúc má con anh sửa soạn về, con bé ra chào, anh sững sờ đứng ngó trân trân. Con bé gầy nhom ngày nào giờ phổng phao, đằm thắm, mặn mà.
Anh nhìn con bé, mắt bỗng dờn dợn chẳng dám nhìn lâu.

3.
- Anh Hai ơi! 
Tiếng con Út gọi. Anh núp sau vạt bắp tủm tỉm cười nhìn con Út chạy quanh, một lúc nghe bước chân lại gần, thấy anh nó phá lên cười:
- Anh Hai ngồi đây mà em tìm muốn chết!
- Ủa, tưởng em lên biền cắt cỏ chớ, tìm anh chi vậy?
- Má biểu tìm. Con Út hạ giọng:
- Má nói đưa chị Lành ra bến rồi về chớ ở chi ngoài đó.
Anh lặng thinh nhìn bến đò chiều vắng hoe. Chuyến chị lên là chuyến cuối, đò về neo bến bên kia.
Con Út len lén nhìn anh Hai, gương mặt anh nó trong chiều muộn buồn thiu, ráng chiều in xuống sông, hắt lên gương mặt lấp loáng.
Trong nhà, con Út thương anh Hai nhất, ba má đẻ bầy con, có mình nó con gái.
Anh Ba, anh Tư, anh Năm lên thành phố trọ học rồi kiếm việc làm thêm, mỗi năm chỉ về vào kỳ nghỉ hè, rồi lại đi.
Học hết cấp ba anh Hai ở nhà, nói ở nhà phụ ba má chuyện ngoài đồng, ba má ngày càng già yếu, anh đi rồi mấy lứa bò ai lo.
Trong nhà anh Hai cưng nó nhất, từ lâu nó đã biết anh Hai thương chị Lành, nhưng nó giấu không nói ai hay.
Có lần tình cờ nó nghe má nói với ba chuyện này, ba nó gầm lên: “Xa đến đâu cũng vẫn là có họ!”, hóa ra ba má nó biết hết.
Con gái làng nó đẹp, đi đâu người ta cũng khen. Anh nó ngày hai buổi, sáng ra đồng, chiều lên biền, thấy gái làng cũng như không.
Hôm trước con Út nghe bà Sáu Hân thầm thì với má, bà nhắm chị Tâm xóm trên cho anh Hai.
Chị Tâm trạc tuổi chị Lành, lanh lợi giỏi giang lại có tiệm làm tóc trong xóm, nghe đâu chị Tâm cũng để ý anh Hai từ lâu.
Mỗi khi thấy bóng anh Hai trên biền vác cuốc về chị thường kiếm cớ ra đứng xớ rớ bên hàng rào đợi anh đi qua rồi cười thiệt tươi. Lần nào anh Hai cũng cười lại rồi đi luôn.
Con Út biết, giờ có mười chị Tâm thiệt đẹp cũng chẳng ăn thua.
Chiều nay thấy anh Hai buồn nó cũng buồn cắn móng tay nhìn ra bến, chùm thù lù anh hái cho nó cũng chẳng buồn ăn. Nó nhích lại gần cầm tay anh lắc lắc, nói như thằng bạn thân:
- Hai à, Hai quên chị Lành đi, thương có được đâu, có duyên không nợ mà thương chỉ khổ thân mình.
Nói rồi nó mơ màng ngước nhìn đám mây. Anh Hai tư lự nhìn ra khúc sông, quay qua cốc nhẹ lên đầu nó, đứng lên phủi áo:
- Về thôi Út, má chờ!
Nó chưng hửng đứng lên hấp tấp theo sau. Hai anh em về đến đầu ngõ đã thấy má chờ ở cửa, hớt hải chạy ra thì thào:
- Chớ anh em bay làm chi ngoài bến? Cái con Út, má biểu kêu anh về, rồi nó đi luôn đến giờ, lẹ lẹ vô ăn cơm, ba mày chờ; ổng sừng sộ má “con hư tại mẹ”.
Con Út biết không khí gia đình đang căng, nó nhanh nhảu xuống bếp bưng mâm cơm má đã sắp sẵn đặt lên tấm phản giữa nhà.
Ba lặng thinh ăn không nói một lời, ông lua một chặp đã hết ba chén cơm, con Út biết chuyện, ngồi im re chớ không rổn rảng như mọi ngày.
Cái bóng đèn tròn vàng chạch trong buổi chạng vạng không đủ sáng gian nhà giữa, lua cho xong chén cơm, anh Hai mệt mỏi đứng lên.
- Hai, ngồi xuống đó ba nói chuyện! 
Ba nó chỉ cái ghế. Mặt ông lúc có chuyện đanh lại, từ nhỏ anh em con Út đã biết sợ, mỗi khi có chuyện ông mời con cái ngồi như người lớn. Anh ngồi xuống ghế nhìn ba chờ đợi.
- Chiều ni con đi đâu mà chạng vạng mới về? 
Ông biết nhưng vẫn hỏi, ba con Út có cái tính lạ lắm.
- Dạ con đưa em Lành ra bến . Anh nhìn ba, trả lời rành rọt.
- Ờ, vậy con với con Lành là sao? 
Ông thủng thẳng. Anh yên lặng cúi xuống tránh cái nhìn của ông, ngón chân cái di di trên nền xi măng như cái hồi con Út tới lớp cô kêu lên bảng mà không thuộc bài.
- Ba cấm! Nghe rõ chưa?! Ông gằn giọng: Ba đã nói chuyện với con, nhà mình với nhà đó xa đến mấy cũng là họ, luật không cấm, nhưng cả cái làng này sẽ cười vô mặt ba má. Con hiểu chưa?
- Ba! Con biết, nhưng con với Lành…  Anh nhìn ba khẩn khoản.
- Im ngay! 
Ông đập xuống phản cái “rầm”, chén bát rung loảng xoảng.
- Tao cấm!

4.
Cuốc xong đám bắp, trời đã chiều. Biền vắng hoe, anh dõi mắt ra sông. Lâu rồi không thấy chị qua, nghe chừng chú thím bên đó biết chuyện anh với chị thương nhau, lại nghe ba đánh tiếng.
Lũ cò từ cánh đồng bên bay qua tìm mồi sà xuống cả đàn, chiều nào giờ này anh cũng ngóng xuống bến, khi chuyến đò cuối neo bến bên kia anh mới vác cuốc lững thững về.
Ba má dạo này đi đứng khó khăn vì căn bệnh thấp khớp, con Út năm nay thi trường huyện, nó cắm mặt học suốt ngày, sức vóc lại yếu, việc ngoài đồng, trên biền anh cáng đáng hết.
Bãi Bói bên sông vọng lên tiếng con bìm bịp kêu nghe buồn hiu hắt.
Ngồi đây mà anh nhớ chị, thương đôi mắt trong veo lúc nào cũng nhìn anh chờ đợi, thương cái miệng lúc cười cũng buồn rượi.
- Anh Hai ơi! 
Tiếng con Út gọi. Chắc bị ba má la rầy nên lại đi tìm anh, anh cười thầm cúi xuống núp bên con mương.
- Anh Hai ơi!  Tiếng con Út lần này nghe thất thanh.
- Chi vậy Út?  Anh đứng lên, phủi bụi đất bám trên mặt nhìn con Út cười cười.
- Anh Hai! Chị Lành… chị Lành . Giọng con Út run run.
- Chị Lành làm sao?  Anh hốt hoảng lắc vai Út.
- Chiều ni dưới bến mấy cô qua bỏ hàng nói ngày mai là đám chị Lành.
- Cái gì?  Anh nhìn con Út trân trân.
- Ngày mai là đám cưới chị Lành, nghe đâu chỉ lấy anh Tân con ông Ba Túc ở xóm bên.
- Thiệt hông, Út?
- Thiệt mà, bà Sáu Hân làm mối, mấy cô còn nói ba mẹ chị Lành ưng đám ni lắm, anh Tân là giáo viên trường huyện.
Con Út nói rồi bỏ chạy một hơi, không dám đứng lại nhìn anh Hai đang chết lặng...

5.

Mới đó đã ba năm.
Con trai chị lên hai. Cũng lâu rồi chị không qua sông. Nhiều lần chị tần ngần xuống bến, nửa muốn qua, nửa lại thôi.
Nhớ ngày cưới chị, đàng trai qua từ sớm, ngoài bến tấp nập, tiếng ghe máy đò dậy cả một khúc sông, đám con nít trong làng rủ nhau ra coi cô dâu chú rể, cười nói râm ran.
Chị mặc áo dài hồng tươi, khăn đóng cô dâu. Xe chạy đến ngã ba sông chị nhìn qua bãi Bói, thấp thoáng bóng ai như anh đang đứng trên biền, lặng lẽ.
Gia đình chồng khấm khá, chồng cũng hiền lành nên chị nhàn tấm thân. Chợ búa đã có mẹ chồng, ngày ngày chị chỉ chăm con, giặt cho chồng cái áo.
Tưởng như cuộc đời chị được sắp đặt gọn ghẽ. Hôm qua chị ra chợ về gặp mấy đứa bạn hồi nhỏ cùng xóm, tụi nó xuống bến mua bán, nhìn đứa nào cũng lam lũ.
Chị dừng lại hỏi thăm, tụi nó khen chị số sướng gặp được bến trong. Chị im lặng mắt chấp chới ra sông.
Chồng chị sắm chiếc ghe nhỏ cho chị qua lại khúc sông khỏi chờ đò. Từ dạo sinh con chị ít qua sông mua bán. Neo ghe vào cây sào chị lên bờ.
Nhà anh ở đằng kia, lâu rồi chị không được tin gì của anh, gặp con Út ngoài bến nó cũng chạy ù đi không kịp cho chị hỏi thăm câu nào.
- Lành hả con? Tiếng má anh từ nhà sau vọng lên.
- Dạ bác, con mới qua.
Chị ngồi yên nhìn căn nhà vắng, cái áo làm đồng anh treo trên móc chưa kịp giặt còn lấm lem, gió thổi qua bay phất phơ.
Nhớ mưa lụt năm đó chị theo đám con nít trong làng đi bơi ghe, anh biết được tới dỗ dành cõng chị về đưa cho má, còn dặn “Thím đừng la em Lành tội nghiệp”.
Ngoài sân cây trang ra bông đỏ rực, nhớ hồi anh trồng nó còn thấp lè tè giờ đã cao quá hàng rào. Chị ngồi đây mà nhớ ngày cũ, đôi vai gầy rung lên. Chị khóc.
Má anh đứng sau lưng chị từ lúc nào.
- Thằng Hai cứ ở vậy không chịu lấy vợ, có nhiều đám bác ưng mà nó đâu ưng.
Giọng bà buồn như gió thoảng. Căn nhà bỗng tối xuống, chị nhìn ra.
Anh đứng ở cửa áo quần lấm đất. Ba năm rồi sao? Chị đứng lên, đôi chân run run chẳng thể lại gần anh.
- Lành! 
Tiếng anh bật ra rồi nghẹn lại. Anh lặng lẽ nhìn chị ôm cái áo đi làm đồng của anh, nước mắt chị rớt xuống ướt đẫm. Anh cười quay quắt, nhìn thiệt thương.
- Coi kìa, làm mẹ rồi còn khóc! Anh chọc cho chị cười.
Chị đưa tay quệt nước mắt ngó ra sân. Má anh kiếm chuyện xuống bếp, tiếng thở dài của bà thườn thượt.
- Thôi em về, em ở chơi từ chiều giờ.
Chị đứng lên, xuống chào má anh rồi quày quả cầm cái nón tất tưởi ra ngõ. Chị đi trước, mái tóc không cột vổng đong đưa như ngày trước, giờ nó được vấn ra sau gáy, vội vàng.
Anh đi sau, cái dáng gầy gầy khiến anh thắt ruột vì thương.
- Em về đây! 
Đến bến sông chị đứng bên anh thật gần: Anh lấy vợ đi… cho hai bác vui.
Anh lặng thinh giúp chị đẩy mái chèo ra xa.
- Em về bên đó… người ta... có thương hông? -
Anh rưng rưng nhìn chị đang cúi đầu yên lặng.
Chị gật, mắt dân dấn nước. Ghe ra giữa dòng bóng chị mờ dần, bóng anh còn chênh vênh bên bến. Tiếng mái chèo quạt nước ì oạp trong chiều muộn, mắt chị mênh mang.
Chị biết anh còn ra bến ngóng một con đò bên kia sông.
Vậy chớ anh có biết, hồn chị cũng đã chảy vào sông? Những ngày trước, chiều nào xong việc chị cũng kiếm chuyện lên ghe chèo ra giữa dòng rồi đến bên bãi Bói um tùm tìm chỗ vắng.
Bên cây sào neo chị thõng chân khua nước cho đến khi tiếng con bìm bịp kêu chiều mới thẫn thờ gỡ neo trở về…
Bên kia sông anh có biết, con đò chiều nay dùng dằng rồi thôi cập bến ở ngã ba sông…

================================================

Ngã ba đường Đà Lạt xưa

==============================


Monday, September 8, 2025

TÔI CÓ BIẾT LÀNG HƯƠNG CẦN

Tôn Thất Tuệ

"Tôi có biết làng Hương Cần" / "Tôi và làng Hương Cần", tôi chọn công thức thứ nhất có nghĩa là không biết chi hết; công thức thứ hai có nghĩa trái lại biết rất nhiều.

Chừng 1953, tôi cùng người cậu đạp xe đi Hương Cần; đến nơi, cậu tôi cho biết ngôi nhà mái ngói nhỏ trước mắt là nhà ngói duy nhất của Hương Cần. [Tôi nhớ là vậy, có lẽ không đúng quá lắm là duy nhất trong xóm chừng mươi lăm gia đình]. Cậu tôi đến thăm ông chủ nhà, tôi chỉ ngồi ở mái hiên nhìn quanh vườn có đụn rơm. Khi mặt trời đã xuống nhiều, cậu cháu trở về Bến Ngự, tôi không biết làng có con sông, nhưng tôi nghĩ đình làng có mái ngói, không phải là nhà ở.

Cậu tôi và chủ nhà là su gia; cậu và mẹ tôi chú bác ruột. Trong thời gian nầy, cậu tôi nuôi một cháu ngoại, tên thằng Minh, tức là cháu nội của ông chủ nhà tại Hương Cần. Bố và mẹ cháu ở trong chiến khu cùng với đứa song sinh với Minh là thằng Hạnh, tôi chưa bao giờ thấy nó và bố nó; chỉ nhớ hình ảnh xưa của chị Nuôi là mẹ nó.

Có lẽ cậu tôi và ông nội hai bé song sinh thảo luận chi đó. Chừng tháng sau chị Nuôi cùng chồng và con về sống ở Bến Ngự chung nhà với cậu tôi. Từ đường nầy tôi tá túc khi nhà sập vì chiến tranh 1945.

Anh chị còn đem theo đứa con riêng của anh với đời vợ trước. Tên là con Trang, bằng tuổi tôi. Con Trang đã biết hát ''đây gió, đây trong rừng, đây cánh đồng..." bài ca của Nga, biết tên Ma Lăng Cốp kế vị Staline, tên các nước CS như Bun ga ri.

Chồng chị Nuôi tên Trần Giản có khuôn mặt hao hao giông giống với một học giả người Huế mang họ Trần có quê quán là một thôn của Hương Cần, hay là một làng kế cận với Hương Cần. Tiến sĩ nầy có tên ba chữ, thêm chữ giữa không rút ngắn như Trần Giản.

Thời ấy, vô ra chiến khu như đi chợ, ngoài thành đem vô chiến khu những tuýp thuốc như Aspirine đau đầu, Dagenan trị mủ làm độc , Ganidan đau bụng, và quý hơn là ký nin trị sốt rét. Về vật phẩm, quý nhất là đồng hồ và viết máy.

Thật vậy, anh Giản mang về cây viết Parker, thứ rất xịn. Nghe nói Parker là rùng minh, nét lớn, chữ viết uy nghi dùng mực blue noir. Anh Giản không phải là kẻ lè kè cây viết để làm ra trí thức, anh viết rất đẹp và thường nói đến thời sự như các trận đánh Pháp Việt, dĩ nhiên anh chú ý chiến cuộc ở Bê ca đít sết (BK dix sept, cây số 17) trên đường đi Hương Cần. Anh còn biết các cuộc thi đấu Thế Vận Hội 1956 tại Úc.

Bây giờ nhìn lại thì hành tung của anh Giản khá bí mật. Anh mua một chiếc đò nhỏ neo ở cầu Bến Ngự như kiểu cụ Phan Bội Châu ngày nào; tối thì xuống đò ngủ một mình. Thời ấy dinh tê là một sự việc thông thường, không thấy khó khăn trong việc cư ngụ như ghi sổ gia đình v.v...

Có thể sau 1954, chính quyền bắt đầu thanh lọc và làm thẻ căn cước; chính quyền dòm ngó từng cá nhân. Phải chăng vì vậy, anh Giản đem cả gia đình đi Ban Mê Thuộc? Tôi không biết anh Giản làm gì trên Cao Nguyên và không liên lạc; lần cuối gặp nhau là nói về Olympic 1956.

Thằng Minh từ khi sinh ra sống ở Bến Ngự, nó thuận tay trái nhưng không ai ép nó dùng tay phải. Trong lúc ấy thằng Hạnh sống với bố mẹ bị ép dùng tay phải. Thằng Hạnh bị cà lăm nhẹ; người ta bảo là kết quả bị ép dùng tay phải. Có thể lắm chứ.

Tuy chỉ đến Hương Cần chừng một giờ, không thấy gì ngoài cái đụn rơm và ngôi nhà mái ngói khá nhỏ, tôi nghĩ lúc đó Hương Cần vẫn khá hơn, an bình hơn cái Hương Cần mà Đặng Văn Chánh tả trên FB Huế Online:

Ngày cách mạng vẻ vang chiến thắng
Một thời gian làng vắng cháu con
Lư hương bài vị chẳng còn

Không nơi thờ tự, cháu con xa rời. *


Ghi chú * 11 giờ 30 ngày 30.4.1975, VC phá húy các bàn thở bàn trong đình Hương Cần và lấy đình làm trụ sở xã Hương Toàn. Đồng thời đình thứ hai của Thôn Đông (gọi là phe Đông) trở thành kho hợp tác xã. Các nơi thờ cúng của dân chúng đều được phỏng dái. Dân địa phương nói rằng ngày 30, VC đã bắn một phát đại pháo "tống thần"", triệt hạ chỗ thờ các vị khai canh, lập làng từ mấy trăm năm trước.


Tuesday, September 2, 2025



CÁI TÔNG ĐƠ CỦA CÁCH MẠNG
Tôn Thất Tuệ

Cái nầy gọi là tông đơ từ tiếng Pháp là tondeuse; ngày nay nếu không cắt tóc bằng kéo hay lưỡi lam (lưỡi dao cạo râu) thì phải dùng tông đơ nhưng có khác là chạy điện hay chạy pin. Khác ở chỗ tông đơ xưa chỉ cắt bằng cách đẩy từ dưới lên, trong khi tông đơ điện của Mỹ có thể cắt từ trên xuống nếu tóc quá cứng và chửng lên. Bây giờ muốn cắt mai đen thì lắp một cái răng nâng tông đơ lên, trong khi ấy các ông thợ cúp xưa phải dùng một cái lược sừng mỏng và chạy tông đơ phía trên.
Cách mạng rất ưu ái ngụy quân là cho tiểu đoàn của tôi một cái tông đơ như trong hình nhưng còn rất tốt 90%. Đến ngày thứ chín, bộ đội sắp xếp dọn các thứ của nhà bếp, ngụy quân mừng quá chỉ còn một ngày nữa mà thôi. Nhưng vài giờ sau bộ đội đem cho một cái tông đơ, ngụy mình cụt hứng và hứng còn cụt hơn nữa, một bộ đội khác đến chỉ cách tìm nơi đào giêng, đào gần ụ mối thì đào cạn đã có nước.

Bên trên là lời của tôi dưới hình một tondeuse cũ. Sau đó có vị nói không hiểu vì sao cái tông đơn làm cụt hứng lính ngụy. Chuyện là thế nầy.
Chúng tôi cấp úy, cách mạng dạy đem thức ăn mười ngày, cấp tá đem theo thức ăn 30 ngày. Mọi người và ngay cả BBC khen cách mạng tử tế quá, chỉ bắt cấp tá học một tháng cấp úy học 10 ngày. Trước đó hạ sĩ quan và binh sĩ học ba ngày rồi cho về, úy 10 ngày, tá 30 ngày hợp lý quá. Chúng tôi tin như vậy. Khi chúng tôi vào Trảng Lớn, bộ đội chỉ nấu cơm trong các chảo lớn. Đến ngày thứ chín, bộ đội lo dọn đi, chúng tôi tin sẽ ở thêm một ngày là được về.
Đôi giờ sau thì có nhóm bộ nón cối khác đến quan sát chỗ chúng tôi ở và hỏi ai có thể cắt tóc thì ra nhận cái tông đơ, sau đó có bộ đội chỉ cho cách đào giếng có nước nhanh. Lúc ấy chúng tôi biết cái chuyện mười ngày là bịp và sẽ ở tù dài dài. Chỉ có ông Phạm Văn Ngộ, giáo sư trung học, cháu gọi thủ tướng Hà Nội Phạm Văn Đồng là chú ruột ở một tháng rồi "bị đi học tập riêng vì nặng tội hơn chúng tôi".
 
BBC là tiếng nói của Hà Nội từ xưa đến nay. Ai cũng tin theo BBC cấp úy 10 ngày cấp tá 30 ngày. Người Miền Nam vẫn cho BBC trung thực nhất. Thời tranh đấu PG chỉ nghe BBC là sướng cái lỗ nhĩ tuy ngoài đường Saigon không còn chi nữa sau vụ đột kích chùa Xá Lợi. BBC đã cho VC vào các tỉnh trước ba bốn ngày.
Người quốc gia đã thua rồi còn thua một cú nữa. Người quốc gia còn thua dài dài.