add this

Thursday, September 25, 2025

femmes de deuxième rang

Tháp An Nam ở Triển Lãm 1905 Marseille

VỢ LỚN VỢ BÉ ĐỀU LÀ VỢ CẢ
Tôn Thất Tuệ
Chánh thất, chính thất là hai chữ Hán Việt ai cũng hiểu là vợ lớn, vợ cả, tiếng tây femme légitime.
Từ điển Thiều Chửu ở hai trang khác nhau giải thích  chánh thất là vợ cả và là chỗ ở của bà vợ cả.
Tôi không dám nói nghĩa nào đến trước nghĩa nào đến sau; không biết do người Tàu hay người Việt viết thành chánh thất; người Nhật đã dùng Hán Tự tạo ra vô số chữ cho người Tàu, Đại Hàn và VN xài.
Tôi tò mò tìm hiểu vì hai chữ "chánh thất" xuất hiện trên một bài của người Pháp đặng trên tạp san giáo chức Hà Nội 1935 của Pierre Lustéguy nhan đề: La Femme annamite de deuxième rang. Vị tiến sĩ văn chương và thanh tra thuộc địa Đông Dương đã phân tích vai trò và nhiệm vụ các bà vợ hàng thứ hai, ông dùng hiều danh từ tiếng Việt nhưng không kèm Hán Tự. Mặc dù ông đã dùng chữ "kế thất", ông không dùng chữ chánh thất là bà cả mà chỉ nói là chỗ ở của bà cả.
Chỗ ở của bà bé gọi lá "trắc thất hay thiên phòng". Chúng tôi tìm ra Hán tự 側室 trắc thất; thiên phòng thì không chắc là thiện hay thiên, tuy không thể là thiền phòng. Hán tự có chữ "thiên" 阡 là ngoài rìa của kinh thành, là tính cách của các phần kiến trúc phụ.

• Bài viết nói về vợ bé ở An Nam. Lúc ấy, VN vẫn có ba xứ khác nhau và có ba nền luật pháp khác nhau. Chúng tôi không dịch phần nghĩa vụ và quyền lợi; tuy nhiên vẫn dự đoán có sự khác nhau giữa ba miền.
Cho đến hiệp định Genève 1954, đa thê vẫn hợp pháp trên toàn cõi. Không rõ chính phủ Hà Nội đã giải quyết ra sao. Riêng trong Nam, chính phủ Ngô Đình Diệm đã hủy bỏ đa thê và tôn vinh độc thê. Ít lâu sau đó, miền Nam cấm ly dị theo tinh thần tôn giáo của Ngô Tổng Thống. 

◙  [Chúng tôi xin dịch đoạn mở đầu, có thêm ngoặc kép các chữ Việt trong nguyên bản].

Trong gia đình An Nam có sự phân biệt giữ các phụ nữ kết hôn. Một đàng là vợ chính, "thê hay vợ cả", một đàng là vợ thứ gọi  "thiếp hay vợ lẻ". Người vợ hàng thứ hai chỉ giữ địa vị thấp hèn trong lúc bà cả được xếp ngang hàng người chồng. Một người đàn ông An Nam chỉ có quyền lấy một người vợ chính, và có quyền lèo tèo với vô số người đàn bà khác, bao nhiêu cũng được tùy khả năng và thị hiếu. 
Nước Tàu tân triều không khác gì, một người Tàu mới chỉ có quyền kết hôn với một người vợ chính và sau đó được phép lấy thêm vợ thứ, bao nhiêu bà cũng chả sao. Xưa hơn nữa, Tàu còn có lệ lấy luôn cả cụm con gái của một nhà; đứa lớn tuổi nhất là vợ cả; ngoài ra thứ tự giống như thứ tự nhà cha mẹ. Gọi là đa thê chị em (polygynie sororale). Kinh Coran cho phép đàn ông muslim có bốn vợ chính thức và không giới hạn nàng hầu. Thời La Mã cổ đại xem việc lấy vợ hàng thứ hai là hợp cẩn ngoài hôn thú và không tạo nên những hệ lụy và quyền lợi nhân thân.
Những bà vợ hàng thứ hai An Nam tùy thuộc và phục tùng ông chồng họ gọi là "gia trưởng" và bà vợ gọi là "bà cả". Họ không được phép như bà chính ngồi chung bàn với chồng và không được tiếm quyền bà cả đảm trách việc nhà. Khi bà cả chết, bà hai cũng không đủ tư cách nối nghiệp làm "kế thất". Trong các buổi hội họp gia đình, mấy bà vợ hai được xếp ngang hàng con trong nhà. Con của mọi bà vợ, kể cả con của chính mình, gọi bà hai là "chị", hay "dì", em của mẹ. Giữa các bà hàng thứ, có trật tự theo số "chị hai, chị ba...".
Giống như bên Tàu, vợ hàng thứ hai xuất thân từ các giai tầng xã hội thấp kém. Con gái thuộc giai cấp sang không thích làm vợ bé; lý do ngoài sự lệ thuộc, địa vị mong manh, và khá hơn một chút khi có con nhất là có con trai. Ở An Nam cũng như trong các xứ muslim, việc sinh con bảo đảm uy tín và địa vị của người vợ. Trước khi có con các bà thường bị đuổi về nhà, hay ly dị (theo thời này).
Bà cả không muốn chồng lấy làm vợ bé kẻ có vai vế xã hội ngang mình vì tránh bị mất quyền, bà muốn hệ thống đẳng cấp được duy trì tuyệt đối; ngay cả giữa các bà bé với nhau cũng có lớn nhỏ, tính theo ngày về nhà chồng. Trong các gia đình quyền quý hách dịch, các bà bé xem như đầy tớ. 
Theo nguyên tắc phải lấy vợ chính trước rồi mới có vợ bé. Tuy nhiên có hai trường hợp ngoại lệ: vì lý do dị đoan nào đó hoặc vì người đàn ông không tìm ra ai xứng đáng là vợ chính.
Theo tập tục, vợ bé được quyền hưởng sự bảo vệ và trợ giúp của người chồng. Bà bé được quyền có một chỗ ở tương xứng với địa vị của mình và mức độ giàu sang của chồng. Bà bé thường ở các "trắc thất hay thiên phòng" là những phòng phụ, khác với chỗ ở của bà cả. Chỗ ở của bà cả là phần chính của ngôi nhà, gọi là "chánh thất".

Bulletin de la Société d'Enseignement du Tonkin Oct-Dec 1935


No comments:

Post a Comment