add this

Friday, January 19, 2018

lượng định thành bại Mậu Thân 68



hầu tộc, minh họa sách Bakur, Ba Tư (1483-1530)

Xin trình làng mấy dòng phúc đáp một email từ Canada chuyển một bài viết về Mâu Thân. Độc giả có thể đọc phần nào trước cũng được.

lượng định ngắn 
về mậu thân 68
tôn tht tu

Để bênh vực HCM, có hai đường lối trông rất tương phản nhưng được phối hợp.

Thứ nhất HCM là bậc kỳ tài trên thông thiên văn dưới thông địa lý nhưng rất tiếc đã ra đi quá sớm như bao nhân vật lịch sử và tiểu thuyết chết quá sớm mà người kế vị không đủ sức đi tiếp. Ví dụ Gia Cát Lượng; Khương Duy không đủ sức, đến độ phải tạc tượng gỗ quân sư ngồi trên kiệu cho dịch quân thấy mà sợ chạy. Người ta cũng tiếc Churchill bị dân Anh bỏ phiếu chống, để cho Atlee thay thế, mà Atlee là người không có tinh tế văn học của nhà văn, không kinh nghiệm để đối đầu với CS, trùng hợp Roosevelt chết, Truman không biết xoay xở ra sao, trong lúc Staline vẫn còn sống để theo chính sách đã có từ xưa. Vì bác chết sớm cho nên cực khổ thế nầy, bác thương miền Nam hơn chính bác; mọi thứ xấu xa đều vì bác chết như bảng đỏ (bỏ đảng) v.v… cho nên bác đi thì  thật bi đát. [bác và Pol Pot cùng học một trường của Mao, may bác chết nên không có chém giết như Khmer Rouge; bản sao mà đã khủng khiếp đến tận cùng địa ngục, bản chính sẽ vô lường khiếp đảm).

Đường lồi thứ hai là nói HCM là con gà chết, bị Tôn Thất Tùng chích cho mũi thuốc; tất cả đều do Lê Duẫn, cho nên có những cuốn sách như Le Duân's War. Cầm đầu lối nầy là Bùi Tín. Ông nầy một mặt xác nhận con số nạn nhân Mậu Thân, một mặt nói HCM không trách nhiệm gì, ngoài việc làm bài thơ mà chúng dùng làm mật khẩu (liên tưởng Bộ Chiêu Hồi dùng bài ca Ngày Về của Hoàng Giác).

Bài viết nầy trông như một người tập viết chiến tranh chính trị miền Nam: trích Đội quân từ rừng về coi những người dân làm việc trong bộ máy hành chính của chính quyền Sài Gòn hoặc liên quan đến chính quyền Sài Gòn đều là kẻ thù, là ác ôn phải loại bỏ. Chiến dịch diệt ác trừ gian nhằm vào dân thường cũng diễn ra khốc liệt nhất ở khắp các thành phố, thị xã. Ngưng

Trong một bài trước (link bên dưới) tôi đã trình bày cùng thân hữu nhận xét của Patrice Honey về phái đoàn VC tại Genève, cho thấy HCM và CSVN đã quyết tâm đánh miền Nam ngay khi hiệp định 54 chưa ký. Trường kỳ kháng chiến không ai muốn nhưng phương tiện chỉ cho phép như thế. Du kích chiến tự nó không thể giải quyết chiến cuộc mà phải rút lui dành đường cho chiến tranh quy ước. Nếu ông Giáp không thấy điều nầy thì đúng là kẻ bốc phét mà Trần Hồng Tâm đã viết rất nhiều.

Trận Mậu Thân không thể xẩy ra tùy hứng của một phe nào đó. Tại sao phải đưa HCM qua Tàu? Nếu là bù nhìn thì càng cần có mặt. Ngay như bác Tôn Lò phải đưa ra làm đại diện vô Saigon làm lễ mừng. Lê Duẫn thừa biết HCM là một thần tượng và cần dùng như một con bài nếu giả thuyết trong bài là đúng. Bây giờ người Tàu vô VN rất dễ nhưng lúc ấy một phi cơ vào không phận TC không dễ gì dấu ai, đảng CS Tàu phải biết. Chắc chắn Tàu biết kế hoạch Mậu Thân, hoặc qua tình báo, hoặc được nhờ giữ hậu tuyến khi Hà Nội đưa quân vô nam. Ông Giáp, nếu bị cho đứng ngoài thì cũng hiểu được vì phe phái. Tướng lãnh và chính trị bộ cho rằng ông Giáp rất hèn trong trận Điện Biên Phủ, chui rúc trong hầm, và đêm nào cũng có một em “dân tộc thiểu số” quanh vùng để hạ hỏa dịu thần kinh.

Người ta đã không hiểu nên chế nhạo khi có người khen HCM là nhà chiến lược. HCM là nhà chiến lược, nhất là trong quan niệm chính trị điều khiển tất cả, có từ thời Lenine. Chiến lược không chỉ ở phạm vi quân sự, gây căm thù qua việc đấu tố địa chủ cũng là chiến lược.

Mô tả Nguyễn Chí Thanh ăn cơm đạm bạc với HCM trông giống truyện Tàu đưa tiển Kinh Kha. Wikidepia đã không hiểu lý thuyết chiến tranh đã viết rằng Nguyễn Chí Thanh từ trong Nam đem theo kế hoạch tấn công Tết nhưng đã chết vì tim trước khi được phép thi hành. Nhưng ý kiến nầy cho thấy NCT chưa có gì để lạc quan đến độ sướng mà chết như bài nầy đã viết. (Chết ngày 6 thg 7, 1967, nhằm ngày âm lịch là 29 thg 5 Đinh Mùi, bảy tháng trước Tết Mậu Thân).

Nói Wikidepia không hiểu chiến tranh có nghĩa kế hoạch to lớn như vậy không đơn giản chỉ để một mình NCT khai triển hành động.
Theo tình báo Dinh Độc Lập, HCM ra tận phi trường đón NCT; phi cơ cất cánh từ nội địa Kampuchea. NCT bị sức khí ép của bom B52. Các quan sát viên quân sự nghi rằng tin bị thương không đúng mà chỉ để ngụy trang. Việc NCT bỏ chiến địa về Hà Nội cho thấy chính sách lấy nông thôn bao vây thành thị đã thành công; và du kích chiến phải chuyển qua diện địa chiến, xuất đầu lộ diện. Thật vậy, đó là cái gọi là tổng công kích Mậu Thân, và sau đó có những vụ như vượt Bến Hải, dùng xe tăng v.v…

Lại có trò bố khỉ. Sự ưu ái của HCM dành cho NCT làm nhiều người lo ngại. Không rõ vua thơ nào (Tố Hữu, Xuân Diệu, Chế Lan Viên …) đã tiếp đón người Sịa nầy với bài thơ có câu: Anh về Hà Nội nhiều phân xanh. (Phân xanh, không phải là lá mục mà là phân người). Chơi nhau đến thế chỉ có người CS với nhau. Sự đố kỵ nầy cho thấy khó lòng NCT đã hất hủi HCM.

HCM là người khôn ngoan đáo để, đàn em luôn bốc thơm. Ví dụ, HCM không muốn xây lăng? ướp xác? HCM khiêm tốn?!. Nhưng đó là một người đã tự làm thơ khen mình, xưng tôi và bác với Hùng Vương và Trần Hưng Đạo. Một người như vậy mà đã có đến ba di chúc khác nhau, than thở làm điều quấy sẽ bị nghiệp báo, thấy thấp kém hơn TT Ngô Đình Diệm, mong được diện kiến nhưng quá trễ. Học giả quốc gia hành chánh Đào Văn Bình đã viết thành cuốn sách từ những thứ nầy, lấy tin từ Paris, Bùi Tín?

Bài được chuyển viết bậy chỉ có mục đích giải tội cho HCM và trả thù cho VNG bịp ép “giữ l. chị em”. Cốt yếu vẫn để tâng bốc VNG, không có tay tui thì chuyện bất thành.

Nhưng cần biết vụ MT là một thành công của CS. Người mình hầu hết chỉ chú trọng đến thảm sát ở Huế mà không thấy VC đã chiếm tòa đại sứ Mỹ trong 6 giờ, đại sứ Bunker phải nhảy qua rào như Trí Quang nhảy từ chùa Xá Lợi qua USOM. Westmoreland đã chứng kiến xác hai bên ngập đất. CS đã kiểm soát trung tâm Chợ Lớn, từ các cao ốc bắn xuống uy hiếp, nhất là nhà hàng Soái Kình Lâm; trái rocket nhắm vào đây lại rơi vào bộ chỉ huy hành quân chết rất nhiều.

nh hưởng rộng lớn của MT là cho thấy không chỗ nào an toàn. Đó là vết thương mà miền Nam ca hát đã chữa trị, chơi kiểu người Pháp tô vẽ trận Waterloo là thất bại kiêu hùng; phe ta thì mời cọp ra khỏi rừng mà thịt, mà xơi tái. Vết thương trầm trọng, đánh Saigon, Huế nhưng điểm là White House.

Người trong Nam từ chóp bu trở xuống, ngày ngày nhai lại - như một thói quen cần thiết như thuốc an thần - tin tức cho tàu chạy ven biển, gió đông đông nam từ 5 đến 8 gút; mưa rào lẻ tẻ; tin chiến sự trong ngày hơn 200 địch bị loại khỏi vòng chiến, một số bị thương được đồng bọn mang đi, để lại vô số vũ khí; phía CH có 5 chiến sĩ hy sinh và hơn 15 bị thương được trực thăng chở về bệnh viện dã chiến. Cấp chỉ huy có một thứ thuốc an thần riêng, “mặt trận phía Tây vẫn bình yên” như trong tiểu thuyết, cho các ngài ngồi xoa mạc chược suốt ngày đêm mà các bà vợ phải la làng. Khi báo chí Tây phương đạ ngửi thấy, đã đưa ra Huế những ký giả và cameraman tài giỏi nhất, TT Thiệu đi Mỹ Tho ăn Tết nhà vợ. Sùng nổ Saigon không ai ứng đáp; Ông Kỳ ra chỉ huy thì ông Thiệu tưởng đảo chánh, cho người đi xem, bảo đảm thì ôngmới về Saigon thì hành chức tổng tư lệnh QLVNCH.

Dĩ nhiên đây là việc về sau: cuộc đổ bộ ngày 21 thg 11,1970 vào nhà tù Sơn Tây. Chuyện không thể có lần thứ hai, ít nhất về khía cạnh sửa soạn, dùng tất cả khả năng kỹ thuật và chiến tranh để giải cứu 61 tù binh Mỹ; trại tù chỉ cách Hà Nội 37 km. Không có chống trả, Mỹ chỉ có hai thương vong, một binh sĩ bị rớt khỏi trực thăng và một kỹ sư quỵ chân và bị các trang bị trên máy bay đè chết. Hà Nội xác nhận 6 lính canh và 7 dân sự thiệt mạng. Nhưng nhà tù trống trơn không một bóng tù binh. Kissinger quyết định đình hoản một tháng, người ta cho đó là cơ hội tin tình báo xì ra ngoài. Không giải thoát tù binh được không quan trọng bằng việc không thể xây dựng huyền thuyết khả năng “thượng đế, hiện diện nơi nơi (omnipresent) của Mỹ, nói rõ không chứng minh sự hiện hữu khắp nơi của Mỹ để trung hòa sự hiện diện của VC nơi nơi, không đủ sức vô hiệu hóa ám ảnh con ma hiện diện nơi nơi của VC.

SonTayPrisonCamp.jpgTưởng cũng nên nhớ rằng tám ngày trước Tết MT, 22 thg chạp, (21 Jan 68), trận Khe Sanh bắt đầu, không ngờ đã bôn tập đến hai sư đoàn BV. Yếu tố thời gian niên lịch nầy đã làm cho Westmoreland coi nhẹ Mậu Thân, theo ông chỉ là quấy phá để Mỹ Việt rút quân khỏi Khe Sanh cứu viện, nó không có tác dụng chính trị quân sự bằng Khe Sanh. Tây Gia Địa đã ý thức sự thay đổi từ du kích qua diện địa, điều rất đúng. Vì thích chơi súng lớn, ông say sưa với vinh quang của hỏa lực. Nếu chỉ đánh Huế mà thôi, lý luận của W có thể chấp nhận vì quân Khe Sanh từ Quảng Trị vô Huế rất gần, cứu nhân như cứu hỏa. Nhưng Saigon và những nơi khác nữa thì sao. So sánh vụ nhà tù Sơn Tây và vụ tòa đại sứ Mỹ là so sánh vào lúc xa lộ bị nêm cứng, giữa chiếc Mercedes tinh hảo và chiếc xe đạp cà tàng len lỏi lách qua lách về đến được nơi. Một bên cần đến ngần ấy kỹ thuật, ngần ấy người, một bên chỉ cần một trái lựu đạn trong rạp xi nê.

Không ai chịu nhận sự thất bại Mậu Thân. Không biết địch, không biết ta. Đừng tưởng bài các bạn đang đọc là một lượng định chính trị quân sự. Nó bóp méo sự thật, kêu la thảm thiết, một khổ nhục kế để giải trừ trách nhiệm cho HCM, một lối bốc phét cho VNG, cũng giống như đưa hình VNG tay cứng như gỗ trên phiếm đàn dương cầm; khiến một người hóm hỉnh nói piano Tàu dịch là cương cầm, cương thì phải dùng củi mà nện. CS đã không thương tiếc gì lịch sử, bóp méo sự thật để trả thù cho “đại tướng xưa kia giữ đồn, bây giờ đại tướng giữ l. chị em”.


Cả ngàn năm trước, thập tự chiến thứ 6 xuất phát từ Ý, thay vì đến Jerusalem đánh Muslim, đã vô Constantinople phá hủy cướp bóc; vết thương đó chính nó đã mở đường cho đế quốc Ottoman thanh toán đế quốc La Mã phía đông và địa bàn của giáo hội Eastern Orthodox. Vua La Mã và giáo lãnh Orthodox vẫn tin sự kiên cố thành trì, vị thế địa dư, cho đến khi như hát nhái Thanh Thúy: thức giấc lúc nửa đêm thấy chuyện ôi thôi rồi. Như Istanbul xưa, quân tấn công rút lui nhưng vết nức đã mở cho Muslim vào chiếm, VNCH đã lấy lại cố đô, tiếp tục cái "ba không" ồn ào mà bên dưới cái "ba có" đang hình thành. Mậu Thân không phải là một biến cố riêng rẻ như một trận đánh, mà là một thay đổi cực kỳ quan trong, đưa đến 30.4.75; nó còn quan trọng hơn Điện Biên Phủ 1954. Westmoreland tin Khe Sanh là Điện Biên Phủ thứ hai vả không như Pháp sẽ xoay ngược bàn cờ. Rất tiếc những người liên quan đến VNCH đã không đọc Tam Quốc hay Đông Chu Liệt Quốc, nên chỉ thấy Mậu Thân là một đề tài chiến tranh tâm lý nhỏ mà em gái Dạ Lan một mình có thể gánh gồng cưu mang. She can handle it. Oh Da Lan, I love your triangle.

Xin tham khảo: 





Bài viết từ một nhà văn cộng sản ở Hà Nội
·   Lê Duẩn nghe báo cáo về sự thật Tết Mậu Thân bịt tai bỏ chạy.
·  Tướng Giáp là người duy nhất trong Bộ Chính Trị lên tiếng không đồng tình với ý tưởng Tổng Công Kích, Tổng Khởi Nghĩa Xuân 1968

Phạm Đình Trọng
Trích Về Với Dân


Đầu năm 1967, Bí Thư Trung Ương Cục miền Nam, Đại Tướng Nguyễn Chí Thanh mới từ mặt trận miền Nam trở ra Hà Nội đã cùng Bí Thư Thứ Nhất Ban chấp hành trung ương đảng Lao Động Việt Nam Lê Duẩn hình thành ý tưởng Xuân Mậu Thân 1968 Tổng Công Kích, Tổng Khởi Nghĩa, giành thắng lợi quyết định và chỉ đạo cục Tác Chiến Bộ Tổng Tham Mưu làm kế hoạch thực hiện.

Trong mười một ủy viên Bộ Chính Trị, Tướng Giáp là người duy nhất lên tiếng không đồng tình với ý tưởng Tổng Công Kích, Tổng Khởi Nghĩa Xuân 1968. Theo ông sức mạnh chiến tranh của quân Mỹ, quân đồng minh ở Nam Việt Nam và quân đội Sài Gòn đang trên đỉnh cao với hơn nửa triệu quân Mỹ và quân đồng minh, gần một triệu quân Sài Gòn. Chưa đủ thời gian thấm đòn chiến tranh nhân dân của ta, hơn nửa triệu quân Mỹ với máy bay chuyển quân bay rợp trời, xe tăng dàn trận bò kín đất đang chủ động mở những cuộc hành quân lớn đánh vào vùng đất quân giải phóng kiểm soát. Lúc đối phương lực đang còn mạnh và thế đang lên mà dốc vốn vào tổng công kích trận cuối cùng chỉ cháy túi, kiệt vốn, tự sát. Căn cứ quân nước ngoài không đặt trong thành phố, thị xã. Đánh vào tất cả thành phố, thị xã, trung tâm hành chính đông dân là nhằm vào người dân. Đẩy mức độ ác liệt của chiến tranh lên cao ngay trong thành phố là mang chết chóc đến cho dân lành và dàn mỏng lực lượng ta ra phơi mình trên địa hình trống trải, lạc lõng trong đường phố bàn cờ nhằng nhịt sẽ bị tiêu diệt đến người lính cuối cùng, chỉ tự chuốc lấy thương vong lớn, không thể có chiến thắng quyết định.

Thời điểm này chỉ nên mở cuộc tập kích chiến lược: Bất ngờ đồng loạt đánh vào tất cả các căn cứ quân Sài Gòn, quân Mỹ và đồng minh trên toàn miền Nam, cùng với tiêu hao sinh lực là đánh mạnh vào tinh thần chiến đấu của đối phương, thúc đẩy phong trào phản chiến của nhân dân Mỹ đòi Chính Phủ đưa con em họ về nước, tạo ra bước ngoặt về cục diện chiến tranh. Khi yếu tố bất ngờ không còn, sức mạnh của đội quân khổng lồ, sức mạnh của vũ khí, sức mạnh của công sự phía đối phương được phát huy thì ta phải thu quân bảo toàn lực lượng cho những chiến dịch đánh lớn và quyết định tiếp theo.

Lý giải đúng đắn đó của Tướng Giáp chỉ là một ý kiến lẻ loi đã bị bỏ qua.

Tháng 6 năm 1967, dưới sự chủ trì của Bí Thư Thứ Nhất Lê Duẩn, hội nghị trung ương 14, khóa ba quyết định Tổng Tấn Công và Tổng Khởi Nghĩa Tết Mậu Thân 1968.

Chiều 5. 7. 1967, Bí Thư Trung Ương Cục miền Nam Nguyễn Chí Thanh được Chủ Tịch Hồ Chí Minh mời cơm trước hôm lên đường trở lại miền Nam triển khai chiến cuộc Xuân Mậu Thân 1968. Từ bữa cơm đạm bạc, thân tình ở ngôi nhà sàn trong phủ Chủ Tịch trở về nhà riêng ở phố Lý Nam Đế, Bí Thư Trung Ương Cục miền Nam rạo rực nghĩ đến chiến thắng trong tầm tay. Niềm tin chiến thắng Xuân Mậu Thân mạnh đến nỗi suốt đêm đó Bí Thư Trung Ương Cục miền Nam Nguyễn Chí Thanh âm thầm vui sướng đến mất ngủ. Quá phấn khích, rạng sáng ngày 6.7.1967, ông bị cơn nhồi máu cơ tim cướp đi mạng sống.
Còn Bí Thư Thứ Nhất Lê Duẩn, đồng tác giả Tổng Công Kích Xuân Mậu Thân 1968, cũng có niềm tin vững chắc vào chiến thắng Xuân Mậu Thân 1968 đến mức ông đã trù liệu cả việc giành độc quyền chiến thắng, không cho những đối thủ chính trị được ghé tên, chia phần chiến thắng của ông bằng cách không để Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp có mặt ở trong nước trong suốt thời gian chuẩn bị và quá trình diễn ra chiến cuộc Xuân Mậu Thân 1968.
Không có mặt ở trong nước là không can dự gì vào chiến cuộc Xuân Mậu Thân 1968. Chiến cuộc Xuân Mậu Thân 1968 chỉ hoàn toàn từ Lê Duẩn, do Lê Duẩn, của Lê Duẩn.

Từ 5.9.1967, Hồ Chí Minh cùng người thư kí riêng thân tín đã phải lẻ loi, âm thầm rời đất nước sang Bắc Kinh nghỉ ngơi theo “ quyết định của Bộ Chính Trị và hội đồng bác sĩ ”!
Gần bốn tháng sau, mãi đến 23.12.1967 Hồ Chí Minh mới được điện mời về để tham dự cuộc họp Bộ Chính Trị ngày 28. 12. 1967 và để đọc lời chúc Tết Mậu Thân 1968 cho đài phát thanh Tiếng Nói Việt Nam ghi âm. Xong việc, ngày 2.1.1968 Hồ Chí Minh lại tất tả, lủi thủi lên máy bay sang Tàu.

Là Chủ Tịch Đảng, Chủ Tịch nước, có quê hương đất nước, có mấy chục triệu thần dân sùng bái mà Tết Mậu Thân 1968 tuổi già Hồ Chí Minh phải đón Tết bằng bánh bao, cơm Tàu, trong cô đơn, trong trống vắng lạnh lẽo nơi đất khách quê người như một kẻ thất thế lưu vong, không người thân thích, không hoa đào mứt tết, không bánh chưng, dưa hành. Đối xử như vậy với đương nhiệm Chủ Tịch đảng, đương nhiệm Chủ Tịch nước lại đã ở tuổi 78, thật tệ bạc, tàn nhẫn và độc ác!
Lại nữa, với âm mưu gì mà bố trí để một người già gần 80 tuổi đi chuyến bay vào đêm đông giá rét? Rồi khi máy bay hạ cánh trong đêm thì người lái lâu năm thuộc đường băng liền phát hiện ra đèn sân bay lệch mười lăm độ, máy bay phải lượn đến vòng thứ hai vẫn không dám hạ cánh. Báo cho sân bay nhưng đèn dẫn đường hạ cánh vẫn không thay đổi. Nếu là người lái chưa thuộc đường băng cứ hạ cánh theo đèn dẫn thì máy bay đã trượt khỏi đường băng và nổ tung rồi. Nhờ người lái lão luyện thuộc đường băng như thuộc đường ngõ xóm nhà mình nên cho máy bay hạ cánh theo trí nhớ, nhờ thế máy bay mới an toàn, người đi chuyến bay đó là Hồ Chí Minh mới còn mạng sống.

Không biết trong toan tính giành độc quyền chiến thắng Xuân Mậu Thân 1968, Bí Thư Thứ Nhất Lê Duẩn có tính đến sự cố chuyến bay chở Hồ Chí Minh hạ cánh xuống sân bay Gia Lâm đêm 23. 12. 1967 không nhỉ? Một sự cố nghiêm trọng như vậy mà cho chìm xuồng lặng lẽ, không điều tra làm rõ cũng là điều rất không bình thường. Sự cố tày đình đó do sơ xuất của những người quản lí, khai thác sân bay gây ra, tất sẽ được tìm ra và truy cứu trách nhiệm đến nơi đến chốn. Không được điều tra làm rõ, chỉ có thể là sự cố được bí mật tạo dựng bởi quyền lực tối cao như từ trên trời rơi xuống, không ai dám đụng đến, không thể khui ra, thôi đành cho qua!

Trong những ngày Hồ Chí Minh sống khắc khoải cô đơn bên Tàu thì Võ Nguyên Giáp cũng phải ngậm ngùi sống ở trời Tây Hungary hiu quạnh.
Chiến cuộc Xuân Mậu Thân 1968 đã diễn ra đúng như những gì Võ Nguyện Giáp đã cảnh báo: Mang chết chóc đến dân lành và đội quân ở rừng đánh vào thành phố, ở lại giữ thành phố đã phải chịu tổn thất nặng nề nhất trong suốt cuộc chiến tranh ba mươi năm.
Hai bên tham chiến đã thỏa thuận ngừng chiến dịp Tết Nguyên đán để người dân được bình yên ăn tết.Bội ước thỏa thuận, đúng giao thừa Tết Mậu Thân, đêm 31.1.1968 lịch tây, đội quân ở rừng do Hà Nội chỉ huy, thực sự là đội quân miền Bắc, nổ súng đánh vào tất cả các thành phố, thị xã, thị trấn trên toàn miền Nam. Bị bất ngờ, quân miền Nam và đồng minh không kịp phản ứng, đành để mất nhiều khu vực trong các thành phố, thị xã cho đội quân miền Bắc làm chủ. Tình thế này dẫn đến hai hậu quả.

Một. Vùng thành phố, thị xã do quân miền Bắc làm chủ trở thành nơi chiến sự ác liệt nhất, nơi tập trung bom đạn của cả hai phía, nơi tắm máu dân lành. Thành phố Huế là nơi quân miền Bắc ở lại lâu nhất, 28 ngày, cũng là nơi tang thương nhất. Hơn 116 000 ngôi nhà bị tàn phá, trong đó 9 776 ngôi nhà bị san bằng, 3 776 dân lành bị bom đạn giao tranh giết chết. Đội quân từ rừng về coi những người dân làm việc trong bộ máy hành chính của chính quyền Sài Gòn hoặc liên quan đến chính quyền Sài Gòn đều là kẻ thù, là ác ôn phải loại bỏ. Chiến dịch diệt ác trừ gian nhằm vào dân thường cũng diễn ra khốc liệt nhất ở khắp các thành phố, thị xã.

Hai. Đội quân miền Bắc đánh vào thành phố chỉ nhờ yếu tố bất ngờ mà giành được thắng lợi ban đầu. Yếu tố bất ngờ không còn, đội quân đánh vào thành phố từ chủ động thành bị động, phải lấy thế yếu, thế bị động, thế cô lập, bị bao vây, chia cắt, phơi mình ra trên địa hình đường phố trống trải và lạ lẫm đương đầu với thế mạnh áp đảo của đội quân miền Nam. Cố giữ các thành phố, thị xã, những trung tâm hành chính để hòng dựng lên một chính quyền cách mạng thay thế chính quyền Sài Gòn nhưng càng cố giữ thành phố, thị xã thì các thành phố, thị xã miền Nam càng trở thành vực thẳm không đáy chôn vùi quân miền Bắc.
Đơn vị sau thế chỗ đơn vị trước đã bị xóa sổ nhưng đơn vị thế chỗ càng về sau quân số càng ít ỏi! Nhiều đơn vị, cả bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, cả du kích bị xóa sổ nhiều lần! Nhiều đảng bộ, chi bộ hy sinh trắng không còn một đảng viên!
Tết Mậu Thân 1968 là thảm họa người Việt giết người Việt với quy mô lớn nhất, quyết liệt nhất, mê say nhất, tàn bạo nhất và số người bị giết lớn nhất, phải tính tới con số hàng trăm ngàn mà bên bị tổn thất về người nặng nề nhất chính là đội quân dồn dập đánh vào các thành phố, thị xã miền Nam dưới sự đôn đốc từ Hà Nội do sự háo danh của người nhiều tham vọng quyền lực.

Lứa nhà văn quân đội chúng tôi hình thành trong cuộc chiến tranh Nam Bắc được Tổng Cục Chính Trị tập hợp về từ giữa năm 1976 đến mùa hè năm 1984 vẫn đang có mặt đông đủ ở Vân Hồ Ba, Hà Nội. Và Vân Hồ Ba Hà Nội trở thành địa chỉ thường xuyên lui tới của những người cầm bút đất kinh kỳ.
Một buổi chiều muộn nhà văn Bùi Bình Thi phóng xe máy từ nhà sáng tác Quảng Bá, Hồ Tây đến Vân Hồ Ba hấp tấp kể với chúng tôi câu chuyện nhà văn vừa chứng kiến về người khởi xướng vụ tắm máu Tết Mậu Thân 1968 chạy trốn, chối bỏ trách nhiệm trước người dân, trước lịch sử.
Sau một ngày đóng cửa hì hục viết, trước bữa cơm chiều, các nhà văn đang ở trại sáng tác Quảng Bá thường sang phòng nhà văn quân đội, Đại Tá Xuân Thiều tán chuyện đợi nhà bếp mở cửa. Chiều nay vừa đủ mặt thì bỗng Tổng Bí Thư Lê Duẩn cùng người bảo vệ xuất hiện ở cửa phòng.
Từ đại hội lần thứ tư cuối năm 1976, đảng Lao động Việt Nam đã đổi tên thành đảng Cộng sản Việt Nam và chức Bí Thư Thứ Nhất đổi thành Tổng Bí Thư. Khu nhà nghỉ của cơ quan Trung Ương đảng Cộng sản bên Hồ Tây, cách nhà sáng tác của hội Nhà Văn dăm phút đi bộ. Tổng Bí Thư Lê Duẩn đang nghỉ ở đó. Buổi chiều ông đi dạo và ghé vào nhà sáng tác của các nhà văn.
Các nhà văn đều là đảng viên Cộng sản nhận ra Tổng Bí Thư của mình liền nồng nhiệt đón tiếp. Tổng Bí Thư vui vẻ hỏi tên từng nhà văn. Nghe nhà văn Xuân Thiều tự giới thiệu là Đại Tá, Tổng Bí Thư tươi cười hỏi: Đại Tá hỉ? Nhà văn Đại Tá hỉ? Tốt hỉ? Nghe nhà văn Bùi Bình Thi xưng tên, ông bảo: À, à, Thi lãnh đạo hội Nhà Văn hỉ? Nhà văn cao lớn Bùi Bình Thi có nước da ngăm ngăm đen, có khuôn mặt đầy đặn và hàng lông mày rậm giống nhà văn Nguyễn Đình Thi vội cải chính: Dạ, thưa bác, cháu là Bùi Bình Thi, không phải Tổng Thư Ký hội Nhà Văn Việt Nam Nguyễn Đình Thi ạ!

Trong không khí vui vẻ, nhà văn Xuân Thiều giãi bày: Thưa bác, tôi là Xuân Thiều, Đại Tá, nhà văn quân đội. Tôi đang viết tiểu thuyết về Huế trong tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Tôi thấy Tết Mậu Thân sáu tám ở Huế chết chóc nhiều quá, mất mát đau thương lớn quá. Bộ đội chết không còn người để chôn nhau. Dân chết cũng nhiều...
Mới nghe có thế, Tổng Bí Thư đã đứng bật dậy, đỏ mặt quát: Ngu! Ngu! Đại Tá mà ngu!... rồi ông đùng đùng bước nhanh ra cửa như chạy trốn.





Saturday, January 13, 2018

hư hao một chốn để về




hư hao mt chn để v

trn mng tú

Mỗi lần nhớ đến quê nhà là nhớ đến Sài Gòn trước tiên. Sài Gòn không phải là phần đất dành riêng cho người miền Nam nữa, đối với người miền Bắc di cư vào Nam năm 1954, người Trung chạy giặc Cộng năm 1968 thì Sài Gòn chính là phần đất quê nhà đáng nhớ nhất. Tôi lớn lên, sống cả một thời niên thiếu ở Sài Gòn. Đi học, dậy thì, yêu đương, mơ mộng, làm việc, lấy chồng, khóc, cười rồi chia ly với Sài Gòn.

Tôi nhớ lại hồi bé theo bố mẹ di cư vào Sài Gòn. Ba tôi làm việc ở Nha Địa Chánh, nên từ những căn lều bạt trong trại tiếp cư Tân Sơn Nhất, gia đình tôi được dọn vào ở tạm một khu nhà ngang trong sở của Ba ở số 68 đường Paul Blancy (Hai Bà Trưng) sau lưng Bưu Điện. Tôi đi học, đi bộ băng qua hai con đường là tới trường Hòa Bình, bên hông nhà thờ Đức Bà. Tôi vào lớp ba. Ngày đầu tiên cắp sách đến lớp, ma xơ dĩ nhiên là người Nam, hồi đó còn mặc áo dòng trắng, đội lúp đen. Xơ đọc chính (chánh) tả: Hoa hường phết (phết là dấu phẩy). Cái tai của con bé con Bắc kỳ không quen với phát âm miền Nam nên “hoa hường” thành “qua tường” và phết thành một chữ nữa. Tôi viết: Qua tường phết.

Bài chính tả dài một trang của tôi chắc chắn là ăn một con số 0 mầu đỏ to tướng vì nguyên bài bị gạch xóa bằng mực đỏ lè. Tôi như một người ngoại quốc nghe tiếng Việt. Nhưng tôi học thuộc lòng trong sách thì giỏi và thuộc nhanh lắm. Khi khảo bài tôi được điểm tốt, mặc dù bạn học chung lớp khó hiểu con nhỏ Bắc kỳ đọc cái gì. Ma xơ cứ nhìn sách, nghe tôi đọc làu làu, biết là tôi có thuộc bài. Tôi nhớ một bài học thuộc lòng về thành phố Sài Gòn như thế này:

Sài Gòn vòi nước bùng binh
Này bảng báo hiệu này vòng chỉ tên
Trụ đèn, giây thép, tượng hình
Lính canh, cảnh sát giữ gìn công an
Mặc dầu đường rộng thênh thang
Ngựa xe đi lại luật hành phải thông
Mặc dầu đường rộng mênh mông
Mũi tên chỉ rõ bảng trông dễ tìm
Trần Hưng, Lê Lợi, Chu Trinh…


Trần Hưng là đường Trần Hưng Đạo, Chu Trinh là đường Phan Chu Trinh, viết tắt trong bài học thuộc lòng. Từ bài học đó, tôi hiểu được hai chữ “bùng binh” là gì. Ngôi trường đó tôi chỉ học hết lớp ba, sau đó Ba Mẹ tôi tìm được nhà ở bên Thị Nghè, tôi được đi học lớp nhì, lớp nhất ở trường Thạnh Mỹ Tây, có rất nhiều bạn cũng Bắc kỳ di cư như tôi.

Image may contain: 6 people, people smiling, people sitting

Kỷ niệm về Sài Gòn tôi nhớ nhất là lần đầu tiên con bé Bắc kỳ tròn xoe mắt, nhìn thấy đồng bạc xé làm hai, nếu chỉ muốn tiêu một nửa. Mua cái bánh, gói kẹo nào cũng chỉ xé hai đồng bạc. Xé rất tự nhiên, tiền mới hay tiền cũ gì cũng xé. Người mua xé, mua; người bán xé để trả (thối) lại. Tôi đã biết bao lần, vào những buổi tối mùa hè, mẹ cho một đồng, hai chị em mua ngô (bắp) nướng của người đàn bà, ngồi dưới chân cột đèn điện trước cửa sở Địa Chánh với cái lò than nhỏ xíu, bán bắp nướng quẹt hành mỡ. Dưới ánh sáng hắt lờ mờ của bóng đèn từ trên cao xuống, cái lò than nhỏ xíu, thơm lừng mùi bắp non. Gọi là lò, thực sự chỉ có mấy cục than hồng để trong một miếng sắt cong cong, bên trên có cái vỉ bằng giây thép, rối tung, những cái bắp được xếp lên đó, bà bán hàng trở qua, lật lại. Đôi khi cũng là một cái lò gạch nhỏ đã vỡ, mẻ mất mấy miếng rồi, không thể kê nồi trên đó, bà hàng mang ra để nướng bắp.

Hai chị em đứng líu ríu vào nhau (anh và chị lớn không có tham dự vào những sinh hoạt của hai đứa em nhỏ này), cầm tờ giấy bạc một đồng, đưa ra. Tôi luôn luôn ngần ngừ không dám xé, đưa cho bà bán hàng; bà cầm lấy, xé toạc làm hai, khi tôi chỉ mua một cái bắp. Bà đưa phần nửa tiền còn lại để chúng tôi có thể cất đi, tối mai lại ra mua bắp nữa. Mỗi lần thấy đồng bạc bị xé, tuy không phát ra tiếng động, tôi cũng giật mình đánh thót một cái như nghe thấy đồng bạc của mình bị bể hay bị gẫy. Cảm tưởng như mất luôn cả phần tiền đưa ra và phần giữ lại. Phải mất bao nhiêu lần nhìn đồng tiền bị xé mới quen mắt cái hình ảnh “Đồng bạc xé hai” này và tin là nửa kia vẫn dùng mua bán được. Bẻ cái bắp làm đôi, tôi với em tôi chia nhau. Ngon ơi là ngon! Bắp dẻo, thơm mùi lửa than, thơm mùi hành mỡ. Chị em tôi ăn dè xẻn từng hạt bắp một. 

Ăn xong chúng tôi dắt nhau đi tìm ve sầu ở những thân cây me trong bóng tối. Buổi tối ve sầu mùa hạ, chui ở đất lên, bò lên các thân me, lột xác. Chúng tôi bắt những con chưa kịp lột cho vào cái hộp (không) bánh bích quy đã mang theo sẵn, đó là những con ve mới ngơ ngác bò lên khỏi mặt đất, mang về nhà. Thuở thơ dại những trò chơi này là cả một thế giới thơ mộng và đầy hấp dẫn. Chị em tôi mang hộp ve sầu vào giường ngủ, ban đêm những con ve này sẽ chui ra bò lên màn, lột xác. Đêm chúng tôi đi vào giấc ngủ, thì ve chui ra, lột xác xong bỏ lại những vệt dài nhựa thâm đen trên những cánh màn tuyn trắng toát. Khi chúng tôi thức dậy nhìn thấy, chưa kịp dụi mắt tìm mấy con ve, đã thấy mẹ đứng ở ngoài màn với cái chổi phất trần trên tay. Chúng tôi chưa bị roi nào thì đã có bố đứng bên, gỡ cái chổi ở tay mẹ mang đi, trong lúc những cái lông gà trên chổi còn đang ngơ ngác.

Sài Gòn còn cho tuổi thơ của chúng tôi biết thế nào là cái ngọt ngào, thơm, mát của nước đá nhận. Trong sân trường tiểu học của trường Thạnh Mỹ Tây, tôi được ăn cái đá nhận đầy màu sắc đầu tiên. Một khối nước đá nhỏ, đặt trên một lưỡi dao bào, bào vào cái ly bên dưới, khi đầy ly, ông bán hàng ấn (nhận) nước đá ép xuống, đổ ngược ly lại, lấy cái khối nước đá xôm xốp, có hình dáng cái ly ra. Rắc si-rô xanh đỏ, có khi còn có mầu vàng và mầu xanh lá cây với vị bạc hà nữa. Gọi là nước đá nhận. Học trò trẻ con, bạn thân, sung sướng chia nhau ở sân trường, mỗi đứa mút một cái, chuyền tay nhau. Nước đá nhận, bánh kẹo ở sân trường trong những giờ ra chơi đều được mua bằng đồng bạc xé hai này.

Ba tôi bảo cầm đồng tiền xé hai một cách tự nhiên như thế quả là một điều rất dung dị, xuề xòa, dễ dãi mà chỉ người miền Nam mới có được. Xé tiền mà như xé một tờ giấy gói hàng, giấy gói bánh, như xé một tờ báo. Mảnh xé ra có giá trị lúc đó, mảnh còn lại cũng vẫn còn giá trị sau này. Người Hà Nội cầm tờ giấy bạc rách, thì vuốt cho thẳng thắn lại, có khi lấy hạt cơm dẻo miết lên chỗ rách cho dính vào nhau, rồi cẩn thận gấp lại trước khi cho vào túi. Một thời gian sau, tiền không xé nữa, được thay bằng đồng bạc 50 su bằng nhôm, hình tròn, một mặt có hình tổng thống Ngô Đình Diệm, mặt sau là hình khóm trúc. (Biểu hiệu cho Tiết Trực Tâm Hư).

Cuộc di cư 1954 đó giúp cho người Việt hai miền Nam, Bắc hiểu nhau hơn. Người Bắc sống và lớn lên ở Sài Gòn ở thế hệ chúng tôi học được cái đơn sơ, chân phương của người miền Nam và ngược lại những bạn học người Nam của tôi cũng học được cách ý tứ, lễ phép (đôi khi đến cầu kỳ) của người miền Bắc. Tôi đã được nghe một người miền Nam nói: Sau 1975 thì chỉ có những người Bắc di cư 54 là đồng bào của người miền Nam mà thôi. Hóa ra những người Bắc sau này ở ngoài cái bọc (đồng bào) của bà Âu Cơ hay sao? Nếu thật sự như thế thì thật đáng buồn!


khai-tri-1

Sài Gòn đầu thập niên sáu mươi vẫn còn có xe ngựa, đưa những bà mẹ đi chợ. Người xà ích lúc đó chưa biết sợ hãi trên những con đường còn mù sương buổi sáng. Tiếng lóc cóc của móng ngựa chạm xuống mặt đường như đánh thức một bình minh. Tôi nhớ có chỗ gọi là Bến Tắm Ngựa, mỗi lần đi qua, hôi lắm. Sau vài mươi năm xe thổ mộ ở Sài Gòn không còn nữa, chỉ còn ở lục tỉnh.

Sài Gòn với xích lô đạp, xích lô máy, taxi, vespa, lambreta, velo, mobilette là những phương tiện di chuyển mang theo đầy nỗi nhớ. Kỷ niệm thơ mộng của một thời trẻ dại, hương hoa và nước mắt. Sài gòn với những cơn mưa ập xuống thình lình vào tháng năm tháng sáu, tiếng mưa khua vang trên những mái tôn, tắm đẫm những hàng me già, ướt sũng những lối đi vào ngõ nhà ai, Sài Gòn với mùa hè đỏ rực hoa phượng vĩ in xuống vạt áo học trò, với những hoa nắng loang loang trên vai áo bà ba của những bà mẹ là những mảng ký ức ngọt ngào trong tâm của chúng tôi.

Mỗi tuổi đời của tôi đi qua như những hạt nắng vàng rắc xuống trên những hàng me bên đường, như mưa đầu mùa rụng xuống trên những chùm hoa bông giấy. Những tên đường quen thuộc, mỗi con phố đều nhắc nhở một kỷ niệm với người thân, với bạn bè. Chỉ cần cái tên phố gọi lên ta đã thấy ngay một hình ảnh đi cùng với nó, thấy một khuôn mặt, nghe được tiếng cười, hay một mẩu chuyện rất cũ, kể lại đã nhiều lần vẫn mới. Ngay cả vệ đường, chỉ một cái bước hụt cũng nhắc ta nhớ đến một bàn tay đã đưa ra cho ta níu lại.
Âm thanh của những tiếng động hàng ngày, như tiếng chuông nhà thờ buổi sáng, tiếng xe rồ của một chiếc xích lô máy, tiếng rao của người bán hàng rong, tiếng chuông leng keng của người bán cà rem, tiếng gọi nhau ơi ới trong những con hẻm, tiếng mua bán xôn xao khi đi qua cửa chợ, vẻ im ắng thơ mộng của một con đường vắng sau cơn mưa… Làm lên một Sài Gòn bềnh bồng trong nỗi nhớ.

                Image may contain: tree, plant, outdoor and nature

Sài Gòn mỗi tháng, mỗi năm, dần dần đổi khác. Chúng tôi lớn lên, đi qua thời kỳ tiểu học, vào trung học thì chiến tranh bắt đầu thấp thoáng sau cánh cửa nhà trường. Đã có những bạn trai thi rớt tú tài phải nhập ngũ. Những giọt nước mắt đã rơi xuống sân trường. Sau đó, với ngày biểu tình, với đêm giới nghiêm, với vòng kẽm gai, với hỏa châu vụt bay lên, vụt rơi xuống, tắt nhanh, như tương lai của cả một thế hệ lớn lên giữa chiến tranh.

Sài Gòn như một người tình đầu đời, để cho ta bất cứ ở tuổi nào, bất cứ đi về đâu, khi ngồi nhớ lại, vẫn hiện ra như một vệt son còn chói đỏ. Sài Gòn như một mảnh trầm còn nguyên vẹn hương thơm, như một vết thương trên ngực chưa lành, đang chờ một nụ hôn dịu dàng đặt xuống. Sài Gòn khi đổi chủ chẳng khác nào như một bức tranh bị lật ngược, muốn xem cứ phải cong người, uốn cổ ngược với thân, nên không còn đoán ra được hình ảnh trung thực nguyên thủy của bức tranh.

Sài Gòn bây giờ trở lại, thấy mình trở thành một du khách trên một xứ sở hoàn toàn khác lạ, xa lạ. Tôi thương Sài Gòn và thương cho chính mình, đã hư hao một chốn để về.



Ngô Thụy Miên -  Sĩ Phú

A-Celebration-of-Women-Feature-Banner-e1352628808407 (1) 512




Tuesday, January 9, 2018

thủm cả Thăng Long


ác hương 
Phm Lưu Vũ


Vua Lê đi đánh phương Nam, bắt được chúa nước ấy là Trà Toàn cùng vợ cả, vợ lẽ, quyến thuộc… của nó, tổng cộng mấy trăm người. Lại thu được một cái hộp, bên trong đựng viên ngọc đen nhánh, to gần bằng quả cam, ban đêm hầu như không nhìn thấy, nhưng nếu có ánh sáng, dù chỉ là ánh sáng của một ngọn nến để cách xa vài dặm, nó cũng thu lấy rồi phát quang rực rỡ, ngay chỗ đó có thể đọc sách được. Vua Lê thích viên ngọc ấy lắm, giao cho viên thái giám tin cẩn là Nguyễn Đảm giắt kỹ trong mình để đem về cung.

Trên đường trở về kinh sư, ngang qua Tây Đô thuộc phủ Thanh Hoa, vua sai dừng quân để bái yết Lam Kinh, tự mình đọc bài văn bố cáo thắng trận và dâng tù lên miếu Tổ, đồng thời cho quân sĩ nghỉ ngơi vài ngày.
Phía đông nam phủ Thanh Hoa thuộc về phương tốn, có một cái đầm lớn, rộng ước chừng vài trăm mẫu, gọi là đầm Quảng Phú. Giữa đầm nổi lên một cái gò tròn như trăng rằm, gọi là gò Mặt Nguyệt, chu vi mấy dặm, cây cối tốt tươi, chim thiêng thú lạ, phong cảnh cực kỳ diễm lệ. Tuyên phủ sứ Thanh Hoa bấy giờ là Trịnh Đan Qua, từ lâu đã sai người đóng sẵn thuyền rồng. Nay nhân cơ hội có thiên tử quang lâm, muốn chìu lòng vua, bèn vào tâu, đại ý cung thỉnh xa giá dạo chơi một đêm trên mặt đầm. Vua Lê phần vì vừa trải qua một chiến dịch vất vả, phần cũng muốn hưởng lạc những “chiến lợi phẩm” mê hồn lạ lẫm đất phương nam nên vui vẻ chuẩn tấu.
Hôm ấy nhằm ngày rằm, trăng đầu mùa hạ rất đẹp. Vua Lê mặt rồng rạng rỡ cùng tùy tùng thỏa thích dong thuyền dạo chơi ngắm cảnh trên mặt đầm. Mãi khuya mới lui vào hành cung dựng ngay trong khoang. Liền cho đòi mấy nàng hầu, vợ lẽ của Trà Toàn vào hầu. Bấy giờ nhà vua mới biết thêm điều bí ẩn nữa của viên ngọc đen. Ấy là dưới ánh sáng của nó thu từ trăng rằm mà phát ra, thì có thể hành lạc cả đêm không biết mệt. Chính Trà Toàn cũng vì điều kỳ diệu ấy mà tư thông bừa bãi trong cung, bất kể đó là vợ cả, vợ lẽ, nàng hầu hay vợ con họ hàng thân thích…

Vua Lê cũng muốn tự mình thử ngay điều kỳ diệu ấy, liền sai người gọi thái giám Nguyễn Đảm mang viên ngọc tới. Đảm thấy vua gọi, vội vàng từ cuối thuyền đi gấp về phía hành cung, vừa đi vừa thò tay vào trong người móc viên ngọc ra. Gần tới cửa phòng, Đảm không ngờ chỗ đó, đáy thuyền đóng cao hơn một bậc nên bị vấp mạnh, ngã nhào người xuống. Theo phản xạ, hai tay Đảm vung lên trên không làm tuột mất viên ngọc, nó văng ra khỏi thuyền, vẽ một nửa vòng cung trên không rồi rơi tõm xuống nước, từ từ chìm xuống đáy. Mọi người hoảng hốt nhìn theo. Viên ngọc đen quả là kỳ diệu. Vừa rời khỏi tay viên thái giám, lập tức nó thu lấy ánh sáng từ mặt trăng rồi phát quang rực rỡ, chìm tới đâu nhìn rõ tới đấy. Thái giám Nguyễn Đảm sau phút hoàn hồn, vốn là tay võ nghệ siêu quần, lại bơi lội giỏi nên không dám chần chừ, liền lao ngay xuống nước, nhằm phía ánh sáng của viên ngọc lặn xuống.

Bơi tới gần viên ngọc, đang định đưa tay ra chộp lấy nó, bỗng cảm thấy một luồng kình lực từ phía trước quạt lại làm Đảm giật nảy mình, vội vàng thu tay lại quan sát. Dưới ánh sáng lung linh của viên ngọc, Đảm nhìn thấy một con thủy quái khổng lồ, đầu như đầu rắn, hai lỗ mũi to như đồng xu, cặp mắt xanh lè, lồi ra hai bên như hai quả xoài cũng đang lăm lăm nhìn viên ngọc. Không nom rõ thân nó hình thù thế nào, chỉ thấy lù lù một đống đen sì, bề ngang ước chừng bốn, năm thước. Nguyễn Đảm hơi có chút e dè song quyết không chịu bỏ cuộc, bèn từ từ vươn tay về phía viên ngọc, mắt vẫn cảnh giác canh chừng. Không ngờ con thủy quái cũng có ý ấy. Thoắt một cái, nó vươn dài cổ ra, há miệng đớp gọn lấy viên ngọc, nhanh hơn Đảm trong vòng gang tấc.
Con thủy quái vừa đớp viên ngọc, liền ngậm ngay miệng lại. Lập tức, ánh sáng từ viên ngọc vụt tắt. Đáy hồ trở nên tối tăm mù mịt, không nhìn thấy gì nữa. Đảm biết là thua cuộc, vả lại cũng đến lúc hết hơi kiệt sức, đành vội vàng quay người ngoi lên.

Vua Lê bị mất viên ngọc ấy thì tiếc lắm. Không ngờ trong đầm lại có thủy quái. Tuyên phủ sứ Trịnh Đan Qua tâu xin tuyển thợ lặn giỏi để bắt, song biết tìm nó ở đâu giữa cái đầm mênh mông như thế này, vả lại biết đâu còn có nhiều con khác… Lại tâu huy động dân tát cạn đầm, vua cũng gạt đi, bởi không muốn mệt sức dân…
Trở về kinh sư, vua chọn một số người phụ nữ Chiêm đẹp nhất cho vào hầu trong cung, một số thì ban thưởng cho các quan và tướng sĩ có công. Số còn lại cùng bọn đàn ông người Chiêm thì lập một cái ấp ở phía tây nam kinh thành, cho ra ở đấy, gọi là đất Chiêm Sở.

Bấy giờ vua Lê thường có cái thú ngự thuyền rồng để câu cá ở hồ Lục Thủy. Thậm chí có bận còn cao hứng cho thiết triều nhẹ ở ngay trên thuyền rồng. Từ khi bình định phương Nam trở về, nhà vua vẫn không bỏ thói quen ấy, nhất là những khi công việc thư nhàn, triều đình vô sự. Một hôm, vào tầm gần đến giờ ngọ, đang mải câu cá, bỗng có một luồng ánh sáng từ đâu đó dưới đáy hồ chiếu thẳng vào mặt làm nhà vua lóa mắt. Bèn hướng cặp mắt nhìn kỹ về phía đó, thấy đáy hồ hình như có vật lạ phát ra ánh sáng le lói. Liền truyền dong thuyền tới gần, sai một viên nội thị lặn xuống xem đó là vật gì. Viên nội thị tuân chỉ nhảy xuống hồ, nhằm chỗ phát sáng lặn xuống. Tới nơi, y kinh hoàng nhìn thấy trước mắt một con rùa rõ to đang quay đầu về phía thuyền rồng, trong miệng cắn một viên ngọc to gần bằng quả cam, chính đó là cái vật lạ phát ra ánh sáng. Viên nội thị nom thấy rõ ràng rồi bơi trở lên, tâu với nhà vua.

Vua Lê cùng cận thần hết sức kinh ngạc. Các quan tâu cho người quây lưới để bắt rùa, cướp lấy viên ngọc. Riêng quan hàn lâm viện trực học sĩ Lương Thế Vinh, bấy giờ cũng theo hầu thì tâu rằng:
“Con rùa này chắc chẳng phải tầm thường. Nó đã quay đầu về phía thuyền rồng, cố ý chiếu ánh sáng của viên ngọc cho bệ hạ nhìn thấy, tức là nó có ý dâng viên ngọc. Thần xin vâng mệnh soạn một bài chiếu thả xuống. Nếu nó nổi lên thì càng hay, đỡ công đánh bắt…”
Vua Lê nghe tâu cũng có ý mừng, bèn bảo Vinh:
“Nghe nói thủy quái là loài biết chữ. Vì thế ngày xưa mới có việc làm văn đuổi cá sấu. Vả lại Thái Tổ ta ngày trước, cũng đứng trên cái hồ này mà trả kiếm cho thần Kim Quy. Biết đâu con rùa kia chính là hậu thân của thần. Vậy khanh hãy làm thử xem sao”.
Lương Thế Vinh vâng mệnh soạn ngay bài chiếu.  Đại khái ca ngợi nó là thần Kim Quy, đã từng cho mượn gươm báu, giúp Thái Tổ lập quốc, nay nếu lại dâng ngọc quang kiến quốc nữa thì sẽ được phong thần, đời đời ân hưởng công đức…

Chiếu văn thả xuống. Quả nhiên trong giây lát, con rùa từ từ nổi lên. Nó nhẹ nhàng bơi lại sát thuyền rồng rồi vươn cao cái cổ lên. Viên ngọc trong miệng nó càng phát ra ánh sáng rực rỡ làm mọi người lóa mắt. Không chút e dè, nhà vua lập tức tiến tới, vòng tay vái nó một cái, đoạn xòe hai bàn tay đưa ra. Con rùa nhẹ nhàng nhả viên ngọc vào lòng bàn tay nhà vua rồi ngay lập tức, nó từ từ lặn xuống.
Vua Lê được viên ngọc, mừng rỡ không sao tả xiết. Bèn đưa cho các quan xem xét kỹ, hóa ra đó chính là viên ngọc đã mất ở đầm Quảng Phú ngày trước. Không những thế, thái giám Nguyễn Đảm, bấy giờ cũng ở trên thuyền, còn khẳng định, rằng con rùa lúc nãy cũng chính là con rùa mà y đã nhìn thấy lần trước…

Câu chuyện viên ngọc và con rùa làm xôn xao cả triều đình. Đầm Quảng Phú, xứ Thanh Hoa cách kinh thành hàng trăm dặm. Con rùa làm cách nào mà ra tận đây. Nhưng viên ngọc thì rõ ràng đúng là viên ngọc đen ngày ấy, các cung nữ người Chiêm cũng xác nhận như vậy, kể cả những công dụng kỳ diệu của nó…
Bấy giờ trạng nguyên Lương Thế Vinh, vốn là người thông minh bác vật, tinh thông đủ các môn y, nho, lý, số, cũng đồng thời rất giỏi phong thủy, sau khi xem xét tính toán kỹ, lại bàn với bọn đồng sự là Đỗ Hân… bèn mạnh dạn dâng sớ, tâu rằng đầm Quảng Phú có long mạch thông tới kinh thành. Con rùa đó chính là theo đường long mạch mà ra…

Vua Lê xem sớ, đưa xuống cho các quan bàn luận. Triều đình rối rít cả lên, người thì tin, người thì không tin. Bọn không tin nói xưa nay việc trời thông biến, gọi là thông thiên, việc đất ngăn chặn, gọi là triệt địa. Có lẽ đâu một cái hồ và một cái đầm cách nhau hàng trăm dặm, lại có long mạch thông nhau bao giờ… Kết quả vua Lê xuống chiếu quở mắng bọn Lương Thế Vinh, Đỗ Hân là học hành không đến nơi đến chốn, tin vào những sách phong thủy nhảm nhí. Việc đó bèn thôi.


Lại nói chuyện xứ Thanh Hoa. Thời ấy trong thành Tây Đô có một  kỹ viện nổi tiếng phong tình, gọi là ‘Khả Phong Lâu’. Một hôm bỗng xuất hiện một tuyệt thế giai nhân tên hiệu là Nhất Trần Tuyệt Thế Quỳnh Cô. Quỳnh Cô thông minh xinh đẹp, đàn giỏi hát hay, làn thu ba như tiên nữ giáng trần, có thể làm ngất ngây mọi giống hữu tình, bao gồm cả thiên long bát bộ. Nàng vừa xuất hiện ở Khả Phong Lâu, thì lập tức có rất nhiều công tử, khách đào hoa thập phương nghe hơi tìm tới. Lạ một điều là không hiểu vì lý do gì, mà các chàng chỉ gặp một lần rồi lập tức lặn biến tăm hơi.

Bấy giờ trong phủ quan thừa tuyên sứ có một viên làm chức tham nghị họ Ngô, tên Câu Hội. Câu Hội vốn là người lưu manh đểu giả, lại rất mực dâm đãng, nhờ làm chức quan trông coi việc xây cất, đất đai… mà ăn cắp ăn xén, khi cần cũng sẵn sàng ăn cướp của dân nên lắm tiền nhiều của, thường ra vào không thiếu một kỹ viện nào. Nay nghe tiếng Quỳnh Cô thì lòng dục nổi lên bừng bừng, Câu Hội bèn cùng một tên sư gia tin cẩn mò tới.
Đại tẩu của Khả Phong Lâu từ trước vốn đã sợ oai Câu Hội, giờ nhìn thấy thầy tớ y thì không dám chậm trễ, sẵn sàng phục vụ chu đáo. Lại thấy y đòi đích danh Quỳnh Cô, bèn cứ thực tình thưa lại. Song Câu Hội bỏ ngoài tai tất cả, nhất mực đòi cho kỳ được. Gặp Quỳnh Cô, Câu Hội quả nhiên chết lặng trước nhan sắc mê mẩn của nàng, liền lập tức lao vào ôm lấy, rồi cuống quýt vầy vò… Tới lúc cao trào, cả hai đều trút bỏ xiêm y, Câu Hội sung sướng nhắm nghiền mắt lại, một tay ôm chặt vòng một của Quỳnh Cô, tay kia lần lần rờ xuống phía dưới vòng ba… Cảm thấy ngay một làn nước tràn trề, vừa ấm hôi hổi như mình gà, vừa nhơn nhớt như lòng trắng trứng thì càng nổi hứng cao độ. Theo thói quen trong thú phong tình bấy nay, Câu Hội bèn dùng mấy ngón tay vớt lấy một ít cái thứ nước ấy, đưa lên miệng mút. Bỗng có một thứ gì xộc thẳng vào mũi làm Câu Hội ngạt thở, ngực như bị nén lại, chân tay đờ ra, miệng sùi dãi dớt, giây lát bất tỉnh nhân sự.

Đại tẩu của Khả Phong Lâu dường như cũng đoán trước việc ấy, bèn cùng gã sư gia vội vã xông ngay vào, dùng nước thơm, dầu xức… hối hả cấp cứu. Một lát thì Câu Hội tỉnh lại, thấy nàng Quỳnh Cô đang sợ hãi, cúi đầu quỳ ở bên cạnh. Câu Hội bấy giờ mới hiểu ra nguyên nhân làm cho bọn công tử, khách phong tình kia lần lượt bỏ đi, bèn nuốt nước bọt tiếc rẻ rồi mặc quần áo, cùng gã sư gia đi về.
Trên đường về, Câu Hội vẫn còn chưa hết bàng hoàng tiếc rẻ, lẩm bẩm nói với gã sư gia:
“Thật tiếc cho một món đào hoa dường ấy, toàn thị là quý tướng, duy chỉ một tiện tướng “ác hương” (dâm thủy có mùi khắm) mà làm hỏng tất cả…”
Gã sư gia dường như cũng biết ý chủ, bèn nghĩ ra một kế, liền buông lời ỡm ờ:
“Bẩm, biết đâu chính nhờ cái “tiện tướng” ấy, mà quan lớn được thăng quan tiến chức thì sao?”
Câu hội quay phắt sang hỏi:
“Ngươi nói thế là có ý gì?”
Nguyên gã sư gia này biết rõ, rằng Câu Hội tuy đang ở vào một vị trí thuận lợi, tiền bạc, đất đai thu của dân vào làm của riêng dễ như trở bàn tay. Song Câu Hội vốn không muốn dừng lại ở đó, mà còn đang ngấp nghé cái chức thừa tuyên phó sứ kia. Bèn hỏi lại:
“Chẳng hay quan lớn có muốn lấy lòng quan thừa tuyên sứ (trỏ Trịnh Đan Qua) hay không?”
Câu Hội biết gã sư gia đã thấu rõ lòng mình, liền sốt ruột:
“Chính thế, chính thế. Vậy người có cao kiến gì?”
Bấy giờ gã sư gia mới thong thả nói:
“Quan thừa tuyên sứ tỉnh ta vốn là người dối trá, lại tham lam vô sỉ, vì tiền mà sẵn sàng bán đứng cả dân, cho nên bọn cơ hội ở mãi tận phía bắc, cũng hùa nhau vào đây mà đuổi dân cướp đất được... Một vị quan đã tham lam như thế, thì phải đút lót tiền bạc biết bao nhiêu cho đủ? Tôi xem ngài ấy mặt trắng mà mũi thâm, tướng ấy gọi là tướng “cẩu tỷ”. Người có tướng “cẩu tỷ” thì ngửi mùi thối thành mùi thơm, càng thối càng thơm… Tất không ngại gì cái món “ác hương” của nàng Quỳnh Cô kia, thậm chí còn thấy nó ngào ngạt quyến rũ nữa chưa biết chừng. Huống chi quan thừa tuyên sứ ấy còn dâm dục gấp mười ngài. Nay ngài hãy bỏ ra ít ngân lượng, chuộc Quỳnh Cô ra khỏi Khả Phong Lâu, mà đem dâng cho quan thừa tuyên sứ. Tôi dám chắc đường quan lộ của ngài sẽ đến ngay, chỉ nội trong nhất nhật mà thôi…”

Ngô Câu Hội vốn nung nấu hoài bão ấy từ lâu, năm nào cũng quà cáp biếu xén hậu hĩnh cho Trịnh Đan Qua mà vẫn chưa thấy động tĩnh gì. Nay nghe gã sư gia nói thì như người bừng tỉnh giấc mộng, mừng như mở cờ trong bụng. Lập tức y kế thi hành.
Thế là rốt cuộc, Nhất Trần Tuyệt Thế Quỳnh Cô cũng tìm được đúng người để gửi gắm tấm thân diễm lệ. Ai bảo cái tướng “ác hương” kia là tướng phải chịu cô quả? Đã có câu: “nồi nào vung ấy”, thì cũng có câu “mũi nào mùi ấy” chứ? Quan thừa tuyên sứ Trịnh Đan Qua quả nhiên mê mẩn cái mùi “ngào ngạt” của nàng mà không hề hấn gì như quan phó sứ. (Câu Hội quả đã được thăng ngay phó sứ, đúng như lời gã sư gia kia nói). Có điều ngài sung sướng bao nhiêu thì trong phủ đệ của ngài, mọi người từ vợ con, gia nhân, tôi tớ… tất cả ngót trăm con người phải khổ sở bấy nhiêu. Mỗi khi ngài cùng Quỳnh Cô hành sự, tới lúc cái món “ác hương” kia nó xông ra, thì tất cả đều quay cuồng chóng mặt, đều ngạt thở tức ngực, có người còn nôn thốc nôn tháo…

Thừa tuyên Phó sứ Ngô Câu Hội biết rõ chuyện ấy, nhân cơ hội bèn dâng kế lên quan thầy, là xây cất một hành phủ riêng cho nàng Quỳnh Cô ở. Khắp thành Tây Đô, không chỗ nào đắc địa hơn cái gò nằm giữa đầm Quảng Phú. Nơi ấy phong cảnh vừa tuyệt đẹp, vừa cách xa dân chúng, thành phủ… Tất nhiên Trịnh Đan Qua lập tức gật đầu. Thế là chẳng bao lâu sau, chính giữa gò Mặt Nguyệt, đầm Quảng Phú nổi lên một tòa dinh thự gọn gàng, xinh xắn, chốn “bồng lai tiên cảnh” của quan thừa tuyên sứ Trịnh Đan Qua và nàng tiên nữ họ Trần…

Lại nói chuyện ngoài kinh thành. Hôm ấy, vua Lê ngồi kiệu rồng do mười sáu  nữ đinh khiêng, hai bên hai hàng nội thị cùng các quan thái giám, trung tán… trong ngoài, theo đúng nghi vệ thiên tử tiến về phía hồ Lục Thủy để ngài ngự câu cá. Kiệu ra đến bờ hồ, bất ngờ một luồng ác hương ở đâu xông tới làm bọn nữ đinh hoa mắt tức ngực, chân tay bủn rủn, nhất thời làm rơi phịch cả cỗ kiệu xuống đất. Vua Lê ngồi trên ghế rồng xuýt nữa bị ngã bổ ngửa. Nhìn xung quanh thì tả hữu, thị vệ… cả dân chúng quanh hồ, ai ai cũng ôm ngực khó thở, đầu óc quay cuồng, mùi ác hương không biết từ đâu vẫn xông ra ngùn ngụt. Cả một vùng hồ Lục Thủy như gặp đại nạn.
May mắn chỉ độ nửa canh giờ thì ác hương nhạt dần rồi tan hẳn, không khí trở lại trong lành như lúc bình thường. Nhà vua cùng đoàn tùy tùng lập tức trở về. Vừa tới cung, vua Lê lập tức cho đòi quan tri phủ Phụng Thiên là Nguyễn Tông Tây tới, sai tra xét tất cả các nhà dân quanh hồ, xem cái mùi quỷ dữ ấy ở đâu phát ra. Tông Tây vâng mệnh sai lính tra xét kỹ càng suốt ngày hôm đó, vẫn tuyệt không tìm ra manh mối nào.
Ngày hôm sau cũng vào giờ ấy, ác hương lại xông lên, làm chao đảo cả một góc kinh thành. Những ngày sau cũng diễn ra y hệt. Nhưng cũng có khi nó biệt tăm hẳn vài ngày, song mấy hôm sau lại xông lên đậm đặc hơn trước, thậm chí một ngày xông đến mấy lần… Sự việc tưởng đơn giản chỉ là cái mùi khắm, nhưng quả thật đã đến hồi nghiêm trọng không thể coi thường. Lòng người đã bắt đầu náo loạn, có nhà đã phải bán cả nhà cửa, đưa gia quyến tìm nơi lánh nạn vì không thể chịu đựng nổi cái mùi khủng khiếp đó…

Đúng lúc ấy thì quan tổng trấn đất kinh thành là Nguyễn Kết xin vào bệ kiến, tiến cử một viên thuộc lại xưng là “trạng ngửi”, tự nhận có khả năng trỏ đúng chỗ cái mùi ác hương xông lên. Nguyên người này họ Hoàng, hiệu là Thiên Tỷ, vốn làm nghề thợ may trong thành. Hồi ấy Nguyễn Kết có một nàng hầu yêu, mới sinh cho Kết một công tử. Một hôm giặt yếm, phơi ở trên lầu, bị gió cuốn bay đi đâu mất. Cái yếm chả đáng giá gì, có điều trên đó có đính một hạt châu to bằng hạt gạo do Nguyễn Kết tặng. Kết bèn treo bảng, dấu chuyện hạt châu, chỉ thông báo rằng ai tìm được cái yếm sẽ thưởng năm chỉ vàng. Hoàng Thiên Tỷ xem bảng, liền vào yết kiến. Kết hỏi tìm như thế nào? Tỷ bẩm:
“Phu nhân mới sinh, nên cái yếm tất có mùi sữa tươi. Nếu cho tôi ngửi được mùi sữa tươi của phu nhân, thì nó dẫu cách xa trăm dặm, tôi cũng tìm thấy.”

Nguyễn Kết nghĩ người này khoác lác, song cũng cứ thử xem sao. Bèn cho Thiên Tỷ vào, bảo nàng hầu trật vú cho y ngửi. Thiên Tỷ nhắm mắt, hít hít hai bầu vú một hồi, rồi lẳng lặng quay người ra cửa, phăm phăm bước tới một cái lỗ cống cách đó khoảng vài trăm bước, y lội xuống lục lọi dưới đó một lát, quả nhiên lôi đúng chiếc yếm đó giơ lên. Nguyễn Kết bấy giờ mới tin thì phục lắm, nuôi ngay trong phủ làm thuộc lại, gọi là “trạng ngửi”.
Vua Lê nghe Nguyễn Kết tâu liền hỏi:
“Người ấy có tài gì mà gọi trạng ngửi?”
Kết bẩm:
“Muôn tâu, người này có thể trong vòng trăm dặm, chỉ đúng chỗ một con ruồi vừa… đái”.

Vua Lê nghe dẫu chưa vội tin ngay, song cũng chuẩn tấu, xuống chiếu giao cho Hoàng Thiên Tỷ trổ tài tìm chỗ phát tích của ác hương. Thiên Tỷ quả không phụ công lao tiến cử của Nguyễn Kết, bèn trổ hết tài nghệ mũi giời của mình ra, ngày ngày lặn lội, đánh hơi khoanh vùng, dần dần chỉ đúng cái chỗ mùi ác hương phát tích. Té ra nó nằm ngay chính giữa cái gò đất nhỏ nằm về phía nam của hồ Lục Thủy.
Đã tìm được chỗ xông lên của ác hương thì việc chế ngự nó cũng chả khó khăn gì, chỉ cần bịt kín đi, không cho nó xông lên nữa là xong. Các quan tâu nên xây ngay trên đó một cái đài, nói giả là đài ngự câu cá, gọi là Điếu Đài để yên lòng dân.

Điếu Đài xây xong, quả nhiên từ đó, ác hương không còn xuất hiện nữa. Vua Lê cùng triều đình mừng rối rít, trọng thưởng cho Nguyễn Kết và Thiên Tỷ, phong cho Thiên Tỷ tước bá, gọi là bá Tỷ, lại đặc cách vinh danh là trạng ngửi, cho vinh quy bái tổ. Duy có quan hàn lâm viện trực học sĩ là trạng nguyên Lương Thế Vinh thì vẫn có điều gì đó băn khoăn.
Bấy giờ Lương Thế Vinh có một học trò yêu người xứ Thanh Hoa. Một hôm vừa từ trong quê ra, liền đem chuyện quan thừa tuyên sứ Trịnh Đan Qua cùng nàng Quỳnh Cô ngày đêm vui thú hành lạc trên gò Mặt Nguyệt ra kể cho thầy nghe hết một lượt. Thế Vinh nghe xong bỗng giật nảy mình. Không ngờ cái món ác hương ấy, nó cũng theo đường long mạch mà xông ra tới tận kinh thành, cũng giống như con rùa ngày trước. Nghĩ tới đó, Thế Vinh vội vàng vào trong nhà mặc mũ áo cẩn thận, rồi sai đóng kiệu, định tiến cung tâu rõ mọi việc cho vua Lê biết.
Ngồi trong kiệu, Thế Vinh trầm tư suy nghĩ. Rằng Trịnh Đan Qua là quan đứng đầu một trong 12 thừa tuyên của cả nước, tiền bạc của y đã mạnh, thế lực của y lại đầy rẫy trong triều, mình chắc gì đã là đối thủ, chưa chắc đã làm gì được y, có khi lại mang vạ vào thân. Trong khi đằng nào thì cái mùi ác hương ấy nó cũng được bịt lại rồi. Âu là… Mãi nghĩ, nhìn ra thì kiệu đã gần tới cửa cung, Thế Vình bèn bỏ ngay ý định, ra lệnh cho người nhà khiêng kiệu quay trở lại.
Trên đường trở về, Lương Thế Vinh lại ngẫm nghĩ. Mình đường đường là một vị trạng nguyên, được vua phong cho làm trực học sĩ, nghĩa là người ngay thẳng. Nay thấy việc nước có chỗ nguy biến, mà nhắm mắt làm ngơ thì không đúng với đạo thần tử, không khỏi có chỗ cho đời sau chê cười, còn mặt mũi nào mà đứng trong hàng kẻ sĩ... Nghĩ tới đó thì kiệu đã gần về tới nhà. Bèn quyết chí quay kiệu trở lại, một lần nữa tiến về phía cung vua.

Thế nhưng Thế Vinh lại nghĩ. Trước kia mình cùng với bọn Đỗ Hân đã có lần tâu vua, rằng có long mạch từ xứ Thanh Hoa, thông ra tới tận kinh thành. Con rùa vì thế mới theo đường đó mà mang viên ngọc ra được. Nhà vua lúc ấy đã không nghe, lại còn xuống chiếu quở trách. Lần này chắc gì nhà vua đã chịu tin cho, trong khi thế lực của bọn Trịnh Đan Qua kia, một khi đánh hơi thấy sự nguy hiểm, đời nào chúng nó chịu ngồi yên… Nghĩ tới đó thì cỗ kiệu đã sát tới cửa cung. Thế Vinh vội vàng thò đầu ra, hối hả bảo người nhà lại quay kiệu trở về…
Cảnh ấy còn lặp lại đến ba bốn lần nữa, cứ quay đi lại quay về, Lương Thế Vinh ngồi trong cỗ kiệu, trong lòng vật vã, dùng dằng không quyết. Mãi đến lúc thấy trời gần tối, mới thở dài bước ra khỏi kiệu. Rốt cuộc cũng không tâu gì với vua Lê.

Và câu chuyện ác hương ấy vào đời Lê sơ, tới đây xin được chấm dứt.

Về sau vào thời nhà Mạc, một hôm có sứ giả của Đoan quận công Nguyễn Hoàng từ phía nam ra, bí mật xin vào yết kiến Trình Quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm, đầu tiên hỏi về long mạch, có ý muốn tìm chỗ táng hài cốt cha là Nguyễn Kim để tính kế lâu dài. Bỉnh Khiêm bảo:
“Thanh Hoa có long mạch thông ra tận kinh thành, xuất phát từ gò Mặt Nguyệt nằm giữa đầm Quảng Phú. Bọn rùa chúa vẫn thường theo đó mà ra, mấy đời đế vương ngày trước cũng từ long mạch ấy mà phát tích. Đến đời Hồng Đức gặp nạn ác hương, cũng tại bởi cái long mạch đó. Tiếc rằng vua Lê ngày ấy đã không tin lời bọn Lương Thế Vinh, không triệt hẳn phần gốc, lại chỉ bịt phần ngọn. Ác hương tuy bị chặn không xông lên được, nhưng nó uất kết lại trong lòng đất, biến thành những thứ kịch độc. Chẳng qua chỉ trong vòng 500 năm nữa, gặp đúng thời thì nó sẽ lại xông lên. Khi đó các loài sinh vật sẽ bị hại vô số, kể cả con người cũng khó tránh khỏi tai họa…”
Sứ giả nghe nói, tưởng đã hết hy vọng thì Bỉnh Khiêm lại thong thả nói tiếp:
“Tuy nhiên, bọn Lương Thế Vinh ngày trước chỉ biết chỗ ấy có long mạch hướng ra phía Bắc, mà không biết rằng còn một nhánh nữa hướng về phía Nam. Đất Thuận Hóa nằm sau lưng dãy Hoành Sơn, chính là nơi mà nó kết huyệt. Đó là đất có thể lập nên nghiệp đế đấy…”
Sứ giả nghe nói mừng rỡ, liền bái tạ Bỉnh Khiêm rồi ra về.

Nguyễn Hoàng nghe lời Bỉnh Khiêm, giả vờ xin vào trấn thủ Thuận Hóa. Về sau quả nhiên hùng mạnh ở phương Nam. Tới đời Nguyễn Ánh lập nên nghiệp đế. Ánh không chọn đóng đô ở Thăng Long như các triều trước, mà lập kinh đô ở Phú Xuân là vì lý do đó. [FB Phạm Lưu Vũ]

See the source image



                                  


Thursday, January 4, 2018

trong bếp dòm qua Tây



động Ardèche
phú lăng xa là chi?
Sudhir Hazareesingh, ttt dịch

Một trong những lời phát biểu có ảnh hưởng sâu rộng về tính cách quốc gia của Pháp đã được sử gia Ernest Renan nêu lên năm 1882. Đối nghịch với quan niệm của Đức (bám sát vào chủng tộc và tôn giáo), luận văn Qu’est-ce qu’une nation? minh định quan niệm của Pháp về quốc gia như một nguyên tắc về luân lý hành động (ethical) dựa trên những hy sinh chung, những ký ức chung; và như là một ý nguyện tập thể muốn cùng nhau làm những việc lớn. Quốc gia, theo sự diễn đạt danh tiếng nầy, là cuộc trưng cầu dân ý xẩy ra hằng ngày.

Hình ảnh nầy đã thu tóm đúc kết ngắn gọn ý niệm về một “Pháp tính” [Frenchness, francité). Mặc dù vinh danh quan điểm cổ điển của Rousseau về ý nguyện chung và chủ quyền dân chúng cũng như tính cách phổ quát của cách mạng Pháp 1789, quan niệm nầy hẵn rõ là một viễn tượng về chính quyền quốc gia; những tính chất thế tục và Âu vọng (Eurocentric) của nó ăn khớp với lý tưởng về công dân của Đệ Tam Cộng Hòa Pháp (không chấp nhận quyền công dân của dân các xứ thuộc địa).

Hơn nữa, luận văn Qu’est-ce qu’une nation? nằm trọn trong khung dạng của Pháp quốc như một quốc gia “duy lý”, có gốc rễ từ thời Descartes với danh ngôn: cogito ergo sum. Lý thuyết Descartes nói về nội dung bản thể nhưng cũng ảnh hưởng đến hình thức, đến lối hành văn. Như một đường kiếm báu, tác phẩm De la universalité de la langue francaise đã quả quyết: cái gì không trong sáng thì không là tiếng Pháp. Y như ban ngày, người Pháp rất sính những ý niệm trừu tượng; lý thuyết gia và tác giả Emile de Montegut đã nhận xét: “không có một dân tộc nào khác đã để cho các ý niệm trừu tượng đóng vai trò chính yếu, chất đầy lịch sử với những khuynh hướng triết lý theo lối nầy". Cái gì là Pháp còn thấy trong khuynh hướng tra hỏi và đối kháng. Năm 1868, Ferdinand Giraudeau đã viết trong cuốn Nos moeurs politiques: chúng tôi (chúng ta…) là người Pháp, do đó chúng tôi được sinh ra để chống đối.

Thật vậy, lý tưởng của Renan luôn luôn vẫn là một cột trụ chính, bởi lẽ việc chỉ định thế nào là quốc gia luôn gây sóng gió; tầm nhìn của Renan co giản đủ để dung chứa các điều tương phản trong việc đi tìm cái gọi là Pháp. Đặc biệt, lập luận của tác giả có thể đi cùng hệ phả của các thời đại lịch sử khác nhau: a. thế hệ cộng hòa, tức là nhóm đã kết hợp quốc gia với thời đại “Ánh Sáng”; b. rồi đến quân chủ, tức là phe nhóm nhấn mạnh di sản Thiên Chúa La Mã và chính quyền tuyệt đối; và c. nhóm đế quốc, là nhóm ngược thời gian tìm Pháp tính cho đến biến cố Caesar chiếm đất Gaul. Trong Histoire de Jules César (1865), Napoleon III xác quyết rằng quân đội La Mã đã giúp văn minh Pháp có các định chế riêng, các tập tục riêng và ngôn ngữ riêng. Nói vậy thì huyền thoại được xưng tụng phi thời gian “nos ancêtres sont les gaulois” là một sáng chế tân thời.

Sức mạnh của quá khứ trong việc hình thành khuôn mặt Pháp đã củng cố địa vị và vai trò của các sử gia trong đời sống văn hóa xứ sở, từ Francois Guizot, Ernest Lavisse cho đến Fernand Braudel. Làm sáng tỏ các đặc sắc của Pháp, Braudel, tác giả L'Identité de la France, 1986, đã viết rằng: quốc gia đã được hình thành theo một diễn trình tiệm tiến: Pháp tính là một hợp kim, là một tập hợp nhào trộn. Pháp tính đã có mặt, xuyên qua hằng ngàn thử thách, tín điều, cách nói, cách biện luận, trong một tiềm thức không hạn chế, trong những dòng nước mờ ảo hợp nhau chảy chung, xuyên qua các ý thức hệ chung, những huyền thoại chung, những giả tưởng chung. Giả tưởng sống lâu nhất có lẽ là huyền thoại Pháp là một đại cường quốc, une grande nation, có thiên mệnh hướng dẫn nhân loại về văn hóa và khoa học. Ý nghĩa làm gương sáng được cả hai phía bảo thủ và tiến bộ hậu thuẩn. Người chủ trương bảo hoàng Joseph de Maistre tuyên bố rằng nước Pháp đã sống còn, thoát ách cách mạng vì được Ơn Trên (Thiên Hựu) giao cho sứ mệnh cứu rỗi mọi người. Trong lúc ấy nhà tư tưởng cộng hòa Edgar Quinet cho rằng định mệnh của Pháp là tự hy sinh vì vinh quan của thế giới, giữ phần cho mình giống như phần chia cho kẻ khác, hy sinh cho lý tưởng vì nhân loại và nền văn minh thế giới. Nhưng thiếu một yếu tố trong các điều tự xưng tụng ấy là tính cách hiện thời. May thay, sự thiếu hụt nầy đã được Renan bù đắp. Ông nói các nguyên lý to lớn nhất (hủy bỏ nô lệ, nhân quyền, bình đẳng và tự do) “trước nhất đã được nói tới bằng tiếng Pháp, lập tự theo tiếng Pháp, và đã được đưa ra khắp nơi bằng tiếng Pháp”.

Tuy nhiên, ý niệm thổi phồng quá đáng về một nước Pháp vĩ đại được dùng để che đậy những chỗ yếu kém trong cách thức các nhà trí thức hình dung các quốc gia đối thủ chính. Talleyrand đã đánh phủ đầu Mỹ với công thức: “(có) ba mươi hai tôn giáo và (chỉ nấu được) một món ăn”. Khi Đức chia đôi, nhà văn Francois Mauriac – tế nhị hơn và không kém tồi tệ - đã phát biểu: Tôi yêu nước Đức lắm, nhiều lắm đến độ tôi hết sức vui mừng khi có hai quốc gia Đức. Kẻ thù chính trong lịch sử là Anh Quốc, xứ sở của một dân tộc kỳ dị và đóng kín chui không lọt. Trong tác phẩm phát hành rộng rãi Promenades dans Londres (1840), tác giả Flora Tristan, cũng là người chủ trương nữ quyền, có đoạn ghi: “đàn ông Anh luôn chịu sự áp bức của khí hậu và hành động vũ phu”; bà thấy quan cảnh Luân Đôn sầu não, đủ để gây sự ước muốn mạnh mẽ là tự tử.  Mọi thứ đổ lên đảo quốc nầy để thanh thỏa các sự kêu réo của cả nước về các chuyện thực hư: nào là hành động sát nhân (sát hại các hiệp sĩ Pháp ở Azincourt, tử hình Jeanne d’Arc); nào là bỏ đạo (giám mục Bossuet gọi Anh quốc là xảo trá); nào là thích trả thù và xảo quyệt (thủ hiến đảo Sainte Hélène có hành động hèn hạ đối với tù nhân Napoléon).

Sự lo âu về Pháp tính nầy được phơi bày qua sự khinh thường các nhóm địa phương bằng các công thức sẵn có. Óc tỉnh thị (provincialism) xưa nay được xem là một thứ tình cảm hạn hẹp, không khả năng phát sinh đường lối phổ quát hành động như Renan đã quan niệm; đó chính là huyền thoại tiêu cực mạnh mẽ lồng trong nền văn hóa quốc gia Pháp, từ thời Ánh Sáng. Madame de Sévigné đã kênh kiệu ví người miệt tỉnh là dân từ một thế giới khác. Theo cách nầy hay cách nọ, chủ trương tô vẽ xấu xa lệch lạc nầy được thực hiện trong giới quý tộc triều đình, nhóm cộng hòa và nhóm ưu việt văn học. Mãi cho đến cuối thế kỷ 19, nhờ sự cải cách giáo dục thời Đệ Tam Cộng Hòa những lối nhìn tiêu cực nầy mới được thay thế bằng điều gọi là tôn thờ “quê nhà nhỏ” (petite patrie). Văn học dân gian đến điểm cao nhất với tác phẩm của Augustine Fouillée,  Le Tour de la France par deux enfants, một cuốn sách giáo khoa thành công kỳ diệu với số ấn hành sáu triệu bản năm 1901. Những giá trị được ca ngợi nhằm diễn tả Pháp tính gồm các điều như sau: tự tín, cần mẫn, liêm khiết và trên hết là ý thức về trật tự đúng lý của vạn sự. Lý tưởng huyền bí nầy về “nước Pháp sâu sắc” (la France profonde), [tưởng nhớ công trạng của tiền nhân, vinh danh gia đình và dân quê, viên gạch xây móng quốc gia] nay được gộp chung vào huyền thoại về lòng ái quốc hiện thời theo tinh thần cộng hòa.

Một yếu tố khác là chiến tranh đã ghép thêm vào Pháp tính ý thức về sự an toàn đất nước. Renan đã lên tiếng như trên trong cảnh ngột ngạt của chiến tranh Pháp Phổ. Trên thực tế, mọi thế hệ từ cuối thế kỷ 18 cho đến giữa thế kỷ 20 đều chứng kiến các cuộc tương tranh rộng lớn; từ những cuộc chiến oai hùng thời Cách Mạng và thời Napoleon (đánh dấu bởi bản nhạc La Marseillaise 1792) xuyên qua hai thế chiến, cho đến những cuộc đấu tranh chống thuộc địa – đưa đến sự sụp đổ của đế quốc Pháp. Trước hết, văn chương chiến tranh của Pháp nâng cao ưu điểm quân sự; ví dụ ca ngợi huyền sử thần thánh Napoléon trong tác phẩm của Victor Hugo, Stendhal và Balzac; ngay cả trận Waterloo đã được hóa trang thành một “cuộc thất bại vinh hiển”. Sách vở thời tương tranh kế tiếp, khác hơn một chút, đi sâu vào các niềm đau chung cùng sự mong manh đời người. Những kinh nghiệm dồn dập về việc Đức xâm chiếm, kháng chiến và cọng tác với Đức đã được soi rõ bởi Joseph Kessel (L'Armée des ombres), Vercors (Le Silence de la mer), và Charles de Gaulle (Mémoires de guerre).

Nhằm lúc Pháp đang vật lộn với sự thay đổi trật tự thế giới giữa thế kỷ 20, những điều chắc thật trong huyền thoại quốc gia đã bị phá hủy một cách thú vị. Hình ảnh trong tâm thức về nước Pháp đã bị thách đố bởi thuyết hiện sinh của Jean Paul Sartre (bản thể luận phi lý của ông đã hạch hỏi ngay chính ý niệm về một định mệnh tập thể của quốc gia); bởi Frantz Fanon (Les Damnés de la terre),1961, phơi bày lý tưởng nhân bản đã tiêu ma với chủ trương thuộc địa); bởi Jacques Derrida (cơ cấu luận của ông xác quyết rằng lý tưởng cộng hòa “tình huynh đệ” đã bị đâm toạt bởi sự phân biệt giai tầng độc ác: nam /nữ, công dân / ngoại kiều, bạn / thù).

Sự tổng hợp hiện nay về Pháp tính đã được biểu tượng hóa trong loạt truyện tranh khôi hài với nhân vật chiến sĩ Astérix, người xứ Gaul. Là đấng anh hùng trong một làng Gaul can đảm chống lại cuộc chiếm đóng của La Mã, Asrerix là hiện thân một thực thể quốc gia gồm những thành tố: văn chương ca nhạc từng vùng; quan niệm vô tưởng của Rousseau về tính cách xã hội của công đồng; sự kháng cự ngoại xâm cổ truyền theo lối của de Gaulle; và viễn tượng một nước Pháp không thay đổi, được che chở, không bị tàn phá bởi sự tân tiến hóa. Phiêu lưu ký của Astérix là một phó bản xinh đẹp của huyền thoại nos ancêtres sont les Gaulois, nhưng nó cũng phát hiện ý thức thời hậu thuộc địa về tính chất mong manh; rõ nhất ở đoạn mô tả dân làng sợ trời sập rơi xuống bể đầu.

Thật vậy, từ cuối thế kỷ 20, khi liều thuốc tiên của làng Gaul và của de Gaulle mất hiệu lực, sự bất an ngày một rõ thêm. Tuyển tập Les Lieux de Mémoire (1984–92) của Pierre Nora đã ta thán khóc lóc về sự đổ nát của nền văn hóa Pháp tính thống nhất. Sách báo viết về số phận của quốc gia ngày một đen tối buồn thảm và hướng nội – quả là một cuộc khủng hoảng đập vào mắt bởi nỗi lo âu nước Pháp mất vị thế hàng đầu trên thế giới, và bởi hoài niệm ngày một thêm dành cho một quốc gia đồng nhất về văn hóa và chủng tộc (thường ngụy trang dưới chủ trương thế tục cộng hòa). Tinh thần suy thoái nầy được phản ảnh bởi hai bài bình luận L’Identité malheureuse (2013) của Alain Finkielkraut và Le suicide francais (2014) của Eric Zemmour; cũng như tiểu thuyết Soumission (2015) của Michel Houellebecq, cuốn tiểu thuyết gây hoãng sợ vì “nước Pháp sẽ có một tổng thống Muslim”.

Thảo luận về sự hội nhập dân thiểu số hậu thuộc địa đã khơi lại bản cũ của đường lối chối từ: công dân hậu thuộc địa được mô tả là cục mịch quê mùa tỉnh lẽ, không thể có những tư tưởng duy lý kiểu Descartes, làm nguy hại keo sơn dính bó xã hội của quốc gia. Lớn tiếng bác bỏ mọi tương nhượng trong lý tưởng đa văn hóa, sử gia và chính trị gia bảo thủ chủ trương tái lập huyền thoại lịch sử chặt chẽ Pháp tính (tính chất La mã toàn quốc).

Tête de femme en ivoire vue de face, avec une coiffure qui descend jusqu'au cou et une balafre de dessiccation sur le côté droit.
Dame de Brassempouy, 23 000 av. J.-C.
Tuy vậy, chủ trương thụt lùi trong văn học đã bị bên ngoài hạch hỏi. Bản thỉnh nguyện trên báo Le Monde năm 2007 đã kêu gọi giới sáng tác văn chương hãy bỏ khuynh hướng tự mãn và hướng ngã, hãy mở cửa tiếp đón toàn thế giới. Trào lưu mới nầy được công nhận bởi số phiếu dồn cho ứng viên tổng thống Emmanuel Macron, người xác nhận tính chất Âu Châu của Pháp và hứa hẹn thúc đẩy những cuộc đối thoại để dung hòa các ký ức lịch sử mâu thuẩn nhau trên toàn quốc. Cuộc vận động nầy đã được ươm mầm trong tuyển tập Histoire mondiale de la France gồm 122 tác giả. Tác phẩm xác định mối tương hệ tích cực giữa Pháp và thế giới; đồng thời diễu cợt sự ám ảnh nguồn gốc La Mã và Thiên Chúa bằng cách in các bức vẽ tiền sử trong động Ardèche, lâu, thật lâu trước văn minh La Mã và TCG. Histoire mondiale ...định rõ văn minh hiện kim của Pháp là một métissage, một dung hợp năng động và thân ái giữa các nền văn hóa. Tuyển tập nầy đã mở ra một viễn ảnh hấp dẫn, một viễn tượng Pháp tính thực sự phổ quát trong tinh thần cộng hòa.-