add this

Friday, February 2, 2018

Chị Hồng Lưu


Christ Jaune, tranh Gauguin
Chị Hồng Lưu

 Ho Nhiên Nguyn Tn Ích 

Căn nhà của ông bà nội tôi để lại nằm ngay khúc quanh của con đường làng. Một con đường đất rộng, ba chiếc xe bò có thể tránh nhau một cách dễ dàng. Cái cổng với hai trụ tròn xây bằng gạch nâng tấm bảng gỗ có viền hoa văn với ba chữ đại tự Nguyễn Tự Đường màu vàng nhụ. Bên trên là mái cong lợp ngói âm dương trông như vảy con rồng. Bên trái đoạn đường từ cổng vào nhà là hồ sen. Đến mùa hoa sen nở hương thơm tỏa ngát cả một vùng. Lối đi xung quanh bờ hồ có lan can sơn màu đỏ, nơi mà bác Cả, cha tôi và cụ Tú Mẫn thường hay dạo chơi và đàm đạo thơ văn vào những buổi chiều hè. Khu nhà xây gồm ba dẫy theo hình chữ U. Dãy giữa làm nơi thờ tự. Dãy bên trái là khu của vợ chồng bác Cả và người con gái tên Hồng Lưu mà chúng tôi thường gọi là Chị Hai. Dẫy bên phải là phần của gia đình cha mẹ tôi. Tiếp giáp ba khu nhà là cái sân lót gạch bát tràng rộng thênh thang.

Năm tôi lên ba, chị Hồng Lưu, con bác Cả về nhà chồng. Chồng chị còn là một thư sinh, con cụ Bang Hoành ở miệt trong. Anh Thân chồng chị Hồng Lưu theo Tây học, đang học lấy bằng thành chung ở trường Khải Định ngoài Huế. Anh chị chỉ được gần nhau trong ba tháng nghỉ hè.

Tháng 12 năm 1946, Việt Minh tuyên cáo “Toàn quốc kháng chiến”. Họ phát động phong trào “Tiêu thổ kháng chiến, vườn không nhà trống”. Kêu gọi toàn dân triệt hạ tất cả nhà cửa, vườn tược, bỏ thành thị tản cư đến vùng nông thôn. Quốc lộ Một hoàn toàn bị cắt đứt.

Anh Thân chồng chị Lưu bị kẹt ngoài Huế kể từ ngày tháng đó. Chị trông ngóng tin tức mỏi mòn. Một năm, hai năm rồi bảy năm chị chờ đợi.

 Vào đầu năm 1952, chị từ quê chồng về thăm gia đình. Đêm ấy chị bàn thảo với bác Cả và mẹ tôi:
 - Ba ngày nữa con sẽ đi Huế tìm chồng con.
Mẹ tôi hỏi:
- Tình hình ngăn sông, cấm chợ và lạ cảnh lạ người làm sao con đi?
- Quyết tâm là đi được. Con sẽ theo chân những người đi buôn, rồi dò đường ra Huế.
Chị Hai vừa nói vừa nắm chặt tay bác tôi và mẹ tôi như để cho hai người thân được yên lòng.
- Nhưng con ơi, bác tôi tiếp, thân gái dặm trường, từ đây ra Huế xa hàng mấy trăm cây số làm sao con chịu đựng nổi. Thôi thì ở nhà chờ đợi vài năm nữa rồi hẵng hay. Bác tôi vừa khuyên nhủ vừa vuốt mái tóc cháy nắng của con gái.



Image result for sugar cane

Hai ngày sau, Bác tôi moi dưới chân giường lấy ra một chiếc hộp thiếc đưa cho chị tôi. Trên mặt hộp có mấy tờ giấy bạc tín phiếu (tiền của Việt Minh phát hành tiêu dùng trong vùng) còn lại là toàn bạc Đông Dương hình người gánh dừa. Bác tôi, nước mắt lưng tròng nắm tay chị Lưu dặn dò:
- Con cố giữ mình. Mẹ khấn nguyện Phật Trời phò hộ cho con ra đi được suôn sẻ. Khi gặp được chồng con rồi, có điều kiện thuận lợi thì tin cho gia đình mừng.
Chị Lưu ôm bác Cả và mẹ tôi khóc nức nở. Chúng tôi đứa nào cũng sụt sùi trước cảnh chia tay. Chị đến ôm hôn từng đứa em một. Giọt nước mắt của chị rơi trên má tôi khiến cho tim tôi nhói đau tưởng chừng chị ra đi không còn trở lại.   

Ngày đám cưới của chị, lúc từ biệt về nhà chồng, chị cũng nước mắt giọt vắn giọt dài nhưng lòng tôi lại vui mừng hớn hở. Chúng tôi được nghe pháo nổ rộn ràng, được ngắm xem họ hàng chưng diện áo quần sặc sỡ đủ màu. Anh rể tôi, mặc bộ vét-tông vải tít-xuy màu trắng, mang đôi giày da màu trắng và chiếc nón cối cũng màu trắng theo thời trang Âu phục bấy giờ. Chị Lưu mặc áo cặp lụa hồng, quần lãnh trắng, guốc cao gót, tay cầm dù hồng được anh rể tôi đưa lên chiếc xe hơi màu đen lánh có dải lụa đỏ thắt nơ treo trước đầu xe. Ngày nay, chị Lưu từ biệt gia đình đi tìm chồng trên đất lạ quê người với tấm thân gầy gò, tàn tạ. Bộ áo quần vải ta đen nội địa dãi dầu mưa nắng đã trở màu bạc phếch. Hai hình ảnh trái ngược đó như khắc sâu trong ký ức của tôi không bao giờ phai nhạt.  

Chị Lưu ra đi vào lúc trời vừa hừng sáng. Chị em tôi tiễn chân chị đến ngã ba huyện lộ mới quay về. Từ ngày đó gia đình tôi không được tin tức gì về chị. Mãi đến hai tháng sau, vào một buổi chiều mùa đông, một người mặc áo tơi, đội nón lá đi vào nhà tôi dưới cơn mưa tầm tã. Người thanh niên trẻ tuổi nhưng gương mặt rắn rỏi, phong sương đi thẳng vào nhà để nguyên áo tơi ướt dầm dề nước mưa, đưa cho bác tôi một gói giấy rồi quày quả ra đi, không nói một lời nào. Bác tôi cầm gói giấy mà cả người run lên. Chị em chúng tôi cũng vô cùng hồi hộp. Chẵng biết bên trong gói giấy ấy có những gì. Tin vui hay tin buồn, niềm hạnh phúc hay nỗi đau thương tang tóc. Dù trong cơn nôn nóng, cả nhà cũng đành chờ đến tối mới dám mở ra.
Ngừa cảnh “tai vách mạch rừng”, mẹ tôi vội mang gói giấy bỏ vào ống tre nơi chuồng heo để che mắt những cặp mắt cú vọ đang làm công tác theo dõi “kẻ thù của giai cấp công nông”.  Trời mới chập choạng tối, chúng tôi đã vội vã lên đèn. Dưới ánh sáng của ngọn đèn dầu leo lét, bác Cả khui gói giấy vừa nhận lúc xế chiều.



Image result for sugar cane

Dù người khách lạ không nói gì nhưng chúng tôi đoán biết đó là tin tức của chị Lưu. Đúng là quà của chị Lưu gởi về gồm một lá thư và xấp tiền tín phiếu. Thư chị viết:
“ Kính thưa Mẹ và thím Ba, từ lúc con ra đi đến nay đã trên một tháng. Con theo mấy người đi buôn lậu vừa trốn tránh công an Việt Minh vừa phải đi bộ suốt mấy ngày mới tới khu giáp ranh. Từ quê mình đi bộ đến An Tân đợi đêm xuống mới lên chuyến đò dọc. Từ đây đi suốt đêm mới ra đến chợ Được, Quảng Nam. Từ chợ Được đi bộ men theo những con đường làng đầy đụn cát mất trên nửa ngày thì đến Tiên Đõa.Tại đây, bên bờ Nam sông Faifoo (Hội An) ban đêm Việt Minh kiểm soát ngăn chặn “bọn dinh tề”*. Bờ Bắc trở ra do lực lượng của Pháp và Nghĩa Dũng Đoàn của chính phủ Bảo Đại đóng đồn trấn giữ.
Trong lúc chờ đợi để lấy thêm tin tức về đường đi nước bước, con tận dụng số tiền mẹ cho mua hết hàng hóa rồi theo đoàn người trở vào An Tân bán lại cho con buôn đi tuyến đường trong Bồng Sơn thuộc tỉnh Bình Định. May mắn là những chuyến hàng của con đi trót lọt nên kiếm được một số tiền khấm khá. Nay con gởi lại số tiền mẹ đã cho con để phòng khi đau yếu. Đồng thời con biếu các em một ít để mua giấy bút đến trường. Tình hình ranh giới hiện nay rất căng thẳng, công an Việt Minh kiểm soát gắt gao lắm. Lý do là những ngày vừa qua có một số người từ Quảng Ngãi trốn qua vùng Tề tại địa điểm nầy, như thầy Nguyễn Ngọc Ngư, Ông Phạm Văn Diêu, ông Hồng Tiêu và bác sĩ Huỳnh Tấn Đối** người huyện Bình Sơn. Con biên thư nầy cho mẹ và thím Ba trước khi con thực hiện chuyến đi. Hy vọng ơn trên độ trì cho con thoát được. Cuối thư, con cầu chúc Mẹ và Thím cùng mấy em luôn được khỏe mạnh. Mong một ngày nào đó chúng ta sẽ đoàn tụ. Con gái của mẹ.".

Nghe chúng tôi đọc xong thư, bác Cả và mẹ tôi nước mắt chảy ròng. Đêm đó và những đêm kế tiếp, bác tôi không ngủ được cứ trằn trọc mãi, hết than vắn thở dài lại ngồi dậy nhai trầu. Bác thắp hương lên bàn thờ rồi bó gối ngồi trên giường lâm râm khấn nguyện. 


Image result for sugar cane

* * *
Suốt tuần lễ qua, một người đàn bà điên quần áo xốc xếch không biết từ đâu tới, miệng cứ nói lầm bầm không ra lời, đi nghều nghễu qua lại trên quãng đường từ làng Tiên Đõa đến chợ trời Kiến Tân nằm về tả ngạn con sông Hội An thuộc tỉnh Quảng Nam.

Đêm nay dưới cơn mưa rả rích của những ngày vào đông, người đàn bà điên lại ra đi trong bóng tối mịt mùng. Cơn mưa dần dần nặng hạt từ lúc xế chiều kéo dài đến khuya và cũng có thể đến ngày mai. Nước đã ngập trắng xóa cánh đồng dọc theo con sông trước mặt. Người đàn bà điên đi trong đêm tối không mấy người để ý đã vượt qua đoạn đường của lực lượng canh phòng Việt Minh. Bỗng, một loạt súng nổ vang. Bà điên phóng người xuống dòng sông. Đêm đen cùng với dòng nước đục ngầu đang chảy xiết đã cuốn người đàn bà điên mất dạng trong thoáng chốc.

Ba ngày sau, người đàn bà điên xuất hiện trong đoàn người đi nhận cơm của trại Quy-Thuận Hội-An. Bà ta hoàn toàn tươi tỉnh với bộ áo quần rộng thùng thình của trại cấp phát.  Trong danh sách tiếp nhận những thường dân bỏ vùng Việt Minh trốn sang vùng Quốc Gia, người đàn bà giả điên ấy khai tên Nguyễn Thị Hồng Lưu, sinh quán Quảng Ngãi.
Trời Phật ạ, đó là chị Hai con của bác tôi. Gia đình tôi biết được tin này nhờ người đi buôn ở chợ trời Kiến Tân bên này song Hội An thông báo. Cả nhà như trút được gánh nặng suốt hai tháng liền. Bác tôi thì luôn miệng cảm ơn Trời Phật.
Chị Lưu khai với Ủy Ban Tiếp Nhận rằng chồng chị hiện ở thành phố Huế. Anh ấy bị kẹt bảy năm không về nhà được. Nay chị xin chính phủ cho phép ra Huế thăm chồng.                                                               

  * * *
Gần nửa tháng trôi qua, chị Nguyễn Thị Hồng Lưu lơ ngơ, láo ngáo trên thành phố Huế như mang lạc xuống đồng. Ban đêm vào chùa xin nghỉ, ban ngày chị đi khắp hang cùng ngõ hẻm hỏi thăm tên Võ Hoàng Thân học sinh trường Khải Định nhưng chẳng một ai biết cái tên học trò xa lạ cách nay đã sáu, bảy năm, không gốc gác, không địa chỉ. Quả thật, chị Lưu như đang làm công việc mò kim đáy biển. Chị tỉnh táo lắm nhưng người ta nhìn chị như nhìn kẻ thất chí. Cuối cùng tiền hết, sức khỏe mòn mỏi, chị Lưu đành phải đi xin việc làm để nuôi sống bản thân và tiếp tục tìm chồng.

Sự may mắn đến với chị là được một gia đình ở gần cửa Đông Ba nhận vào làm việc nhà và trông coi hai đứa bé.  Chủ nhà là một thiếu phụ còn khá trẻ sinh trưởng tại Huế nên bà luôn giữ nếp sống và cung cách của người phụ nữ chốn kinh thành. Vẻ mặt dịu dàng thuần hậu, một nét đẹp đài các nhưng bình dị, lại nói năng từ tốn, điềm đạm khiến cho người người mến phục. Chồng bà là một sĩ quan thuộc lực lượng Việt- Binh- Đoàn của chính phủ Bảo Đại. Hai đứa bé có khuôn mặt bầu bĩnh, hồng hào trông rất khôi ngô. Đứa trai 3 tuổi, đứa gái lên 2. Ngay từ giờ phút đầu, chị Lưu đã cảm thấy quyến luyến với gia đình này và đặc biệt là hai đứa nhỏ.

Chị âm thầm làm việc, giữ kín tông tích của mình. Lợi dụng những ngày lễ lạc, chị xin phép chủ nhà đến các nơi hội hè trà trộn vào đám đông may ra tìm được manh mối về anh Thân, chồng chị.

Một buổi sáng, bà chủ đi chợ, chị Lưu tắm cho hai đứa nhỏ. Chị đang mặc áo quần cho bé trai, bất ngờ bé gái chạy lững thững mang cả mình nước vào phòng ngủ của bố mẹ nó. Chị Lưu vội chạy theo vào buồng. Thình lình, chị nhìn thấy một bức ảnh lồng trong khung đặt trên đầu tủ đối diện với cửa ra vào. Một chàng sinh viên sĩ quan mặc bộ lễ phục ôm vai bà chủ nhà. Một cặp vợ chồng đẹp như tranh vẽ, thật xứng đôi vừa lứa.  Chị Lưu tấm tắc khen và nghĩ thầm trong bụng: “Ông Tơ bà Nguyệt khéo xe”.  Tấm ảnh như thu hút cả tâm hồn và tình cảm của chị. Người chồng trong bộ quân phục uy nghi cùng với nét mặt cương nghị kề bên là khuôn mặt trái soan hiền hòa của người vợ với ánh mắt sáng rực tình yêu. Chị ngắm ảnh say sưa quên cả hai đứa nhỏ bên ngoài. Bất chợt, chị phát giác ở khuôn mặt người đàn ông trong ảnh có nét gì rất quen thân. Chị đến sát bức hình xem kỹ hơn. Và để nhìn được rõ ràng hơn nữa, chị mở tung cánh cửa sổ cho ánh sáng ùa vào phòng. Bỗng, tim chị nhói đau, đôi mắt mờ dần rồi đôi chân quỵ xuống. Chị gục đầu trên chiếc giường nệm trước mặt. Không khóc, nhưng lòng chị đớn đau, tê dại. Chị kêu lên: “Sao con tạo lại trớ trêu thế này, hở trời!”. Lồng ngực chị như muốn vỡ ra. Những cơn đau dồn dập như bóp nát quả tim chị.  Như hàng trăm mũi dao thi nhau rạch nát ruột gan. Chị ngất lịm..
Chị Lưu đã nhận ra chồng chị trong ảnh, anh Võ Hoàng Thân! Người chồng đã xa cách bảy năm. Người mà chị có thể hy sinh mang sống để tìm đến. Người đã khiến chị mất bao nước mắt nhớ thương đêm ngày. Người mà chị đã dành cả tuổi đời thanh xuân dâng hiến và đợi chờ. Ngày từ biệt vợ lần cuối cùng ra Huế tiếp tục học, anh Võ Hoàng Thân còn mang dáng nét thư sinh. Giờ đây khuôn mặt rắn rỏi, đĩnh đạc hơn nhưng làm sao chị quên được chấm nốt ruồi bên dưới đôi môi đầy đặn đó. Làm sao chị quên được chiếc mũi cao và to thể hiện tính kiên cường của đấng nam tử.


Bà chủ đi chợ về thấy người làm bị bất tỉnh liền gọi bác sĩ đến cấp cứu kịp thời.  Ngày hôm đó chị Lưu cáo bệnh và xin bà chủ được nghỉ vài ngày. Chị nằm trong phòng không đoái hoài đến ăn uống.  Chị để mặc cho nước mắt trào ra, để mặc cho nỗi đau đớn từng đợt đến cào xé trái tim chị. Trái tim của người đàn bà nhân hậu nhưng không tránh được nỗi ghen tức điên cuồng. Mặc dầu bà chủ nhà rất quan tâm đến chị nhưng chị từ chối tất cả những ân cần mà bà dành cho.
Ngày hôm sau, với đôi mắt sưng húp vì khóc, chị Lưu xin nghỉ việc. Bà chủ nhà nhìn đôi mắt chị, ngạc nhiên hỏi :
 -   Có chuyện gì đã xảy ra cho chị vậy ?
 -  Tôi vừa nhận được tin chồng của tôi chết rồi.

Bà chủ nhà đến nắm tay chị, với tâm trạng của người bạn, bà chia sẻ nỗi đau mất mát của người vợ. Bà tỏ ý tiếc rẻ một người giúp việc lúc nào cũng làm tròn bổn phận như chị và một mực thương yêu con trẻ, bà tiếp:
- Rất tiếc là anh Thân chồng tôi không có nhà để giúp đỡ được phần nào cho chị.

Nghe nhắc đến tên Thân, chị Lưu òa lên khóc rồi ôm mặt chạy vào phòng tức tưởi.  Sáng ngày hôm sau chị Lưu lên đường về lại quê nhà.
                                                                 
       * * *
Ngày xưa, cái sân lót gạch bát tràng trước nhà, gia đình tôi làm nơi đập lúa, phơi bắp, đậu và phơi đường mía. Nay nhờ cái sân rộng thênh thang ấy mà bác Cả và mẹ tôi biến thành khoảnh vườn tự túc trồng các loại rau quả dư ăn còn mang ra chợ bán. Cái hồ sen nay trở thành hồ nuôi cá, nhờ đó mà gia đình tôi không lâm vào cảnh thiếu thốn. Thi hành quốc sách của nhà nước “Tiêu thổ kháng chiến, vườn không nhà trống” căn nhà thờ ba gian cũng được tháo gỡ xuống chỉ còn trơ lại nền nhà để rồi chúng tôi cũng tận dụng cuốc lên trồng đậu phụng.

Chiều nay, chị em tôi phụ giúp mẹ và bác Cả gánh nước tưới vườn rau vừa mới bón phân. Thình lình chị Lưu xuất hiện ngoài ngõ. Chị ôm gói quần áo ủ rũ vào nhà. Bác tôi buông chiếc bình vòi sen chạy đến ôm chị vào lòng. Vốn có thể chất khỏe mạnh, tinh thần cứng cỏi, thế mà nay chị lại mềm nhũn, rũ xuống trong vòng tay mẹ chị. Chúng tôi đến giúp bác Cả đưa chị vào nhà. Đoán biết là việc tìm chồng của chị bị thất bại nên chẳng ai dám hỏi han điều gì.


Image result for sugar cane

Chị tịnh dưỡng được vài ngày rồi kể lại những ngày tháng mà chị đã trải qua nơi kinh thành Huế. Đến ngày thứ ba, công an địa phương đến nhà áp giải chị đến cơ quan huyện làm việc.
Chị khai rõ ràng là chị đã ra Huế tìm chồng, nhưng khi biết được chồng đã chết thì chị quay về sống với gia đình. Giới chức an ninh của Việt Minh nghi chị làm gián điệp cho Pháp, vì vậy họ chuyển chị đến nhà giam tỉnh.

Từ ngày biết chắc anh Thân đã có vợ và hai đứa con ở Huế, chị Lưu xem như chồng chị đã chết. Chị không muốn cảnh hạnh phúc của gia đình đó bị xáo trộn, bởi vợ con anh hoàn toàn vô tội. Ngay cả anh Thân, chị cũng không hề có một lời trách móc. Chị cho đó là hoàn cảnh tạo nên, là định mệnh an bài.

Qua mấy tháng bị điều tra, khai thác liên tục, tinh thần chị Lưu hoàn toàn bị suy sụp. Những lần chúng tôi vào nhà giam thăm, chị cứ nói lầm bầm trong miệng. Nhiều lúc chị ngồi một mình hướng tầm mắt vô hồn về nơi cõi xa xăm. Tình trạng nầy khiến cho những người làm công tác điều tra đặt thêm nghi vấn: “Giả điên là nghề của gián điệp địch để qua mắt cán bộ an ninh của ta”. Từ nghi vấn đó đã trở thành kết luận trong hồ sơ phúc trình lên thượng cấp: “Nguyễn Thị Hồng Lưu là điệp viên của Pháp”.

Tòa án Nhân dân Liên Khu Năm mở phiên xử đặc biệt dành cho một “nữ gián điệp của Pháp” đã xâm nhập từ vùng Tề vào vùng Tự Do. Bản án kết luận như sau: “Nhờ mạng lưới tình báo nhân dân của ta chặt chẽ nên đã bắt được tên nữ điệp viên nguy hiểm của địch tại địa đầu ranh giới. Nay, Hội đồng xét xử tuyên án tử hình tên phản quốc Nguyễn thị Hồng Lưu đã manh tâm làm gián điệp cho giặc”.

Mười lăm ngày sau, chị Lưu bị xử bắn tại Rừng Cầy. Hôm ấy, bác tôi nằm liệt giường, chỉ có hai chị em tôi đến chứng kiến. Người ta quấn dây chung quanh thân thể chỉ còn da bọc xương của chị vào trụ gỗ. Phía sau lưng là ụ đất cao để ngăn đạn. Ánh mắt vô hồn của chị nhìn về nơi cõi xa.
Một vị linh mục già đến làm phép giải tội và ban phép lành cho chị.
Người ta bịt mắt chị mà chẳng khác nào bịt cặp mắt người đã chết rồi.
Khi viên chỉ huy ra hiệu bằng thủ lệnh, bốn xạ thủ đồng loạt nã đạn vào người chị. Chị Lưu khụy xuống kéo theo cả phần dây cột. Một khắc sau, máu từ ngực chị thấm đỏ cả thân trước vạt áo màu lam. Viên thủ trưởng của toán hành quyết đến bắn vào nơi thái dương của chị một phát súng ân huệ khiến toàn thân chị giật mạnh rồi đầu chị gục xuống làm rớt chiếc khăn bịt mắt. Ngay lúc đó, chị em tôi cùng kêu lên “chị Hai ơi,” rồi chạy vụt đến ôm xác chị gào khóc. Người ta đẩy chúng tôi ra, rồi bỏ xác chị trong quan tài bằng ván cây gòn đã để sẵn tại địa điểm xử bắn do địa phương cung cấp. Bác Cả tôi làm đơn xin mang xác chị về chôn tại nghĩa địa của gia đình.

Hiệp định Geneve 1954, chia đôi đất nước. Tất cả các lực lương Việt Minh tập kết ra Bắc. Chính phủ Quốc Gia tiếp thu Liên Khu Năm. Khi tình hình đã ổn định, anh Thân nghe tin vợ trước đã mất, vội vã đưa vợ sau từ Huế về Quảng Ngãi đến nhà Bác tôi để tạ lỗi. Vợ chồng anh chị ấy đến trước bà thờ chị Hai thắp hương khấn lễ. Bỗng, chị vợ anh Thân thất thanh kêu lên “Kìa, Chị Lưu!” 

G
ương mặt thất thần tái mét, hai tay run lẩy bẩy như người lên đồng, chị chỉ vào khung ảnh người quá cố trên bàn thờ rồi quỵ xuống. Anh Thân vội vàng đỡ vợ đứng lên mà chẳng biết việc gì đã xảy ra. Bà chủ nhà gần cửa Đông Ba ở Huế đã nhận ra người giúp việc cho mình ba năm về trước là vợ trước của chồng. Bà quỳ bên bàn thờ khấn vái:
- Chị Lưu ơi, giờ đây em mới vỡ lẽ chị đã liều chết đi tìm chồng. Khi phát giác chồng mình đã yên bề gia thất, chị lại âm thầm quay về mà không hề có một lời trách móc kẻ đã giật hạnh phúc của mình. Ngày ấy chị đã khóc đến sưng húp cả đôi mắt, bỏ luôn ăn uống. Thế mà chị nói dối với em rằng: “Nghe tin chồng chết nên chị phải trở về quê”. Ôi, tâm hồn chị cao thượng quá, tấm lòng chị bao dung quá. Chúng em xin chịu tội trước linh hồn chị.
Chị Thân quỳ mọp trước bàn thờ một hồi lâu đến khi Mẹ tôi đỡ dậy thì khuôn mặt chị đã đầm đìa nước mắt. Chị ôm bác tôi nói trong nghẹn ngào:
“Mẹ ơi, xin mẹ tha lỗi cho con. Từ nay con sẽ thay chị Lưu như là con đẻ của mẹ. Vợ chồng con sẽ lo phần phụng dưỡng mẹ già.”

Sau đó, vợ chồng anh Thân xin phép Bác tôi được để tang, xây mộ và hàng năm về lo ngày giỗ của chị. Riêng phần đề nghị đưa bác Cả về Huế sống với anh chị và các cháu thì bác tôi từ chối bởi còn phải lo mồ mả của ông bà. ---


GHI CHÚ
* dinh tề: chữ Việt Minh gọi hành động bỏ chiến khu về vùng quốc gia.
** Nguyễn Hữu Ngư bút hiệu Nguyện Ngu Í;  Phạm Văn Diêu tác giả “Việt Nam
Văn Học Giảng Bình”, Hồng Tiêu em ruột ông Bút Trà (báo Sài Gòn Mới) chồng bà Tùng Long;
Huỳnh Tấn Đối, quân y trưởng  Liên khu Năm


Image result for sugar cane

Saturday, January 27, 2018

hỏa ngục mậu thân 68 huế


Image result for hue during the tet offensive
hỏa ngục mậu thân
Uwe Siemon-Netto
Lý Văn Quý & Nguyễn Hiền dịch


Đà Nẵng là một thành phố khốn cùng vào đầu tháng 2 năm 1968. Lạnh lẽo và mưa phùn chẳng khác nào như tôi vừa bay đến một vùng Bắc Âu. Các đường phố vắng tanh, ngoại trừ xe quân đội. Tôi đã ôm ấp hy vọng được qua đêm trên chiếc Helgoland tại Đà Nẵng để biết tình trạng chiếc tầu này ra sao trong vụ Mậu Thân và được ăn thức ăn Đức bổ dưỡng mà tôi đang thèm. Từ lúc rời khỏi Viên Chăn tôi chưa hề có được một bữa ăn ra hồn nào. Tuy nhiên, viên thuyền trưởng đã khôn ngoan mang chiếc tầu ra vùng an toàn của hải phận quốc tế rồi.

Vì vậy tôi đến trại báo chí MACV, tuy thiếu hấp dẫn nhưng có một nhà ăn tạm được và một quầy rượu rất đầy đủ. Tôi gọi một ly Dry Martini, ăn một miếng steak kèm một chai rượu vang, đi tắm nước nóng và cảm thấy sẵn sàng cho một cuộc phiêu lưu mà sau này hóa ra không thể có những thứ xa xỉ này trong một thời gian nữa. Trời vẫn còn tối khi tôi gia nhập một đoàn xe TQLC Hoa Kỳ sáng sớm hôm sau. Tôi bận hai bộ đồ trận chồng lên nhau, chẳng bao lâu sau còn tròng thêm một cái thứ ba nữa và tôi hài lòng là chiếc áo giáp còn giúp tôi ấm thêm chút ít.

Một số nhà báo từ trại báo chí đã can đảm dùng đường bộ đầy nguy hiểm đến vùng phụ cận của cố đô Huế vẫn còn nằm trong tay của Cộng quân.  Vì đây là cơ hội tốt nhất để chúng tôi có thể sớm đến nơi đó. Màn mây rất thấp và tình hình an ninh chung quanh phi trường Phú Bài bất ổn đến nỗi chúng tôi có thể sẽ phải chờ đợi nhiều ngày để có được một cái vé đi máy bay quân sự.

Trước khi được phép leo lên xe vận tải, mỗi người trong chúng tôi được phát một khẩu M.16. "Chúng tôi biết là điều này trái với thông lệ," viên thượng sĩ giải thích, ý nói là hiệp định Geneva quy định là phóng viên chiến trường không được mang súng. "Nhưng, ông ta nói thêm, chúng ta sẽ phải đi qua những vùng hết sức nguy hiểm và có thể bị phục kích. Trong trường hợp đó quý vị phải tự bảo vệ lấy. Vậy quý vị có hai sự lựa chọn: mang theo súng hay ở lại phía sau."
     
Chúng tôi đến Phú Bài phía Nam Huế không hề hấn gì, ngoại trừ một cảnh tượng đã làm nổi dậy tính hài hước của tôi. Ngồi cạnh tôi đàng sau chiếc xe vận tải có một cặp phóng viên tạp chí Stern gồm một nhiếp ảnh gia và một ký giả. Người chụp hình là Hilmar Pabel, một trong những người nổi tiếng nhất trong nghề chụp ảnh của giới báo chí Đức, và là một cựu chiến binh lão luyện phi thường. Bức hình chụp tôi trên bìa của cuốn sách này chính là tác phẩm của anh. Hilmar đã chụp nó trong một lúc tạm lắng giao tranh trong khu phố ở Huế.

Tay đồng nghiệp của anh là một chuyện khác. Hắn là một ký giả trẻ tuổi người Áo đặc trưng cho cái khuôn mẫu tả khuynh thổ tả đã từng nhiễm độc đời sống trí thức Tây Âu vào thời gian đó để đạt đến cực độ với cuộc nổi dậy của giới sinh viên trong đại nạn tháng 5 năm 1968 tại Paris, và nó đã lần lượt nhiễm độc toàn bộ lục địa và một phần lớn những gì còn lại của thế giới Tây phương.
Tên hắn là Peter Neuhauser. Bỏ qua cái ý thức hệ Mác-xít thì hắn lại là một gã vạm vỡ dễ mến không khác gì những người lính TQLC mà chúng tôi đang đi chung. Vì vậy họ rất thích hắn mà không hề biết gì về quan niệm thân cộng của hắn cả. "Anh trông giống như bọn tôi lắm, đám lính nói. Chỉ cần cắt cái mái tóc thôi," họ tiếp. Do đó khi chúng tôi đến tiền trạm của Sư đoàn 5 TQLC Hoa Kỳ đàng sau phi trường Phú Bài, họ lôi Peter vào một cái lều, cạo cái đầu hắn, dí một cây M.16 vào tay hắn và reo lên khoái trí: "Chào mừng Trung sĩ mới của chúng ta!" Từ đó thì họ gọi hắn là "Gunny," và Peter dưới mắt bao nhiêu người, gã Peter thân cộng này lại có vẻ thích thú với "cấp bậc" mới của mình vô cùng, mà ta có thể thấy rõ qua các bức hình Hilmar Pabel đã chụp cho hắn. Điều này đã chẳng giúp được gì cho sự nghiệp của hắn. Những tấm hình chụp Neuhauser trong tư thế tác chiến cùng với những tấm khác cụ thể hơn trong bộ sưu tập phim của Pabel rốt cuộc đã đến văn phòng chính của tạp chí Stern tại Hamburg vài ngày sau đó và đã gây phẫn nộ trong các đồng nghiệp của hắn. Không một ai thấy có gì buồn cười cả. Hắn không bao giờ được phái đi công tác ở ngoại quốc nữa.
     
Sáng hôm sau, khi Peter và tôi tháp tùng một tiểu đoàn TQLC vật vã tác chiến từng tấc đất vào Huế, hắn có vẻ được giác ngộ, dù chỉ là trong khoảng khắc. Trên con lộ dẫn vào cố đô của Việt Nam chúng tôi thấy cơ man các xác chết của dân thường, riêng rẽ hay từng nhóm, toàn là phụ nữ, cụ già và trẻ em. Họ đều ăn mặc tươm tất nhân dịp đầu năm mới. Qua vị thế của các tử thi chúng tôi thấy có nhiều phụ nữ đã cố gắng dùng thân mình để che chở cho con, chống lại bọn sát nhân.
"Bọn Cộng sản bạn mày đã làm điều này, Peter!" Tôi mắng Peter một cách tàn nhẫn.
Mặt hắn biến sắc trắng bệch. "Chắc chắn không phải đâu," Nó trả lời, "Những người này bị máy bay Mỹ giết."
"Không đâu, Peter, thương vong vì không tập chẳng như thế này," tôi vặn lại, "Trông những vết thương trên đầu và trên mình mẩy họ kìa.  Nhìn cách một số người phụ nữ đang giơ tay che mặt đi. Họ bị bắn ở tầm rất gần. Tin tôi đi, tôi đã thấy chuyện này rồi: Đây là thành tích của những toán chuyên giết người. Những gì chúng ta đang thấy đây là bằng chứng tội ác chiến tranh. Những người này đã bị thanh toán vì bất cứ lý do điên rồ nào đó mà bọn Cộng sản phải thủ tiêu cả đàn bà, trẻ em và người già.

Image result for hue during the tet offensive

Peter Neuhauser giữ im lặng, nhưng tôi biết đã không thuyết phục được hắn. Chính hắn đã xác nhận với tôi khi chúng tôi gặp lại nhau vài tháng sau tại Hamburg. Neuhauser qua đời vài năm sau đó vì nguyên nhân tự nhiên, nhưng vẫn trong tâm trạng tả khuynh không sao cứu vãn được. Suốt vài chục năm sau, thỉnh thoảng tôi cảm thấy một nỗi buồn đau đớn là mặc dù đã chứng kiến hàng loạt người vô tội bị thảm sát trên con lộ đến Huế, vậy mà điều này vẫn không lay chuyển nổi tâm trí của một gã mà đáng lẽ ra là một con người dễ mến này. Những ngày bên cạnh hắn đã dạy tôi một trong những bài học đáng sợ trong sự kiện Tết Mậu Thân là: chẳng có gì, ngay cả những bằng chứng không thể chối cãi nhất, có thể mong làm thay đổi tốt được những ý tưởng cố chấp về ý thức hệ.

Phú Bài và Huế chỉ cách nhau khoảng 10 dặm nhưng chúng tôi mất gần một ngày trời để vào đến khu trại MAVC gần bờ Đông Nam của dòng sông Hương có lẽ đã được đặt tên sai. Các cuộc đụng độ lẻ tẻ thiếu không trợ vì thời tiết bay xấu và nhu cầu phải dọn dẹp các xác chết trên đường đã khiến chúng tôi bị chậm trễ. Doanh trại nằm trong khu vực mới của thành phố, xây dựng theo lối Âu Châu với những đại lộ rộng rãi và những căn biệt thự kiểu Pháp đầy tiện nghi, một Cercle Sportif, tức Câu lạc bộ Thể thao xinh xắn và một cư xá đại học với những tòa nhà chung cư theo phong cách thập niên 1950 cho nhân viên giảng huấn được xây dựng theo kiểu mẫu xấu xí đặc thù trong thời kỳ đó của các dự  án gia cư rẻ tiền đầy rẫy ở vùng ngoại ô phía bắc Paris.

Vào thời điểm chúng tôi đến, quân đội Hoa Kỳ và VNCH đã tạm ổn định phần nào khu vực này của thành phố, ít nhất là vào ban ngày. Trong khi đó thì Cổ thành với vòng thành nội vi hoàng gia, còn gọi là "Purple City" bắt chước theo kiểu mẫu Tử Cấm Thành Bắc Kinh vẫn còn nằm chặt chẽ trong tay Cộng quân.
Doanh trại MAVC gồm một khách sạn khi xưa với khu vực ăn uống ở tầng trệt, phòng ngủ của sĩ quan ở hai tầng trên và một ngôi nhà phụ với 20 căn phòng. Bên cạnh tòa nhà phụ là những cái gọi là "hootches" tức những lều tạm bợ, khu vực mở rộng cho lính tráng. Khu vực này chật cứng với tạp nham đủ loại người khác nhau: quân nhân, ký giả, tình báo viên, nhân viên cứu trợ, nhân viên Việt Nam làm việc cho Mỹ và các viên chức chính quyền cùng gia đình tìm nơi trú ẩn tránh vùng giao tranh và tránh những toán ám sát của Cộng sản vẫn còn đang lùng sục để giết tại chỗ những người mà họ quy là phản động trong thành phố.
"Xin lỗi quý vị, chúng tôi hết giường tạm rồi, không còn chăn nệm nữa. Quý vị phải tự tìm lấy chỗ nằm thoải mái trên nền xi-măng này vậy," viên trung sĩ quân nhu đón tiếp chúng tôi tại khu vực trước kia là nhà ăn nói. "Có khẩu phần C ở góc đàng kia và rất nhiều túi giấy đựng xác để quý vị giữ ấm. Lấy bao nhiêu cũng được. Tối nay sẽ lạnh lắm đấy."
Khu trại đóng cửa ban đêm. Nội bất xuất ngoại bất nhập. Chúng tôi nghe tiếng giao tranh mãnh liệt phía Bắc dòng sông nhưng thỉnh thoảng cũng có tiếng súng đụng độ ngay bên ngoài chu vi doanh trại. Tôi thu người vào khoảng trống chật hẹp giữa mấy gia đình người Việt, trải ba cái túi đựng xác xuống đất dùng thay nệm, phủ lên mình ba cái túi đựng xác khác đúng ra dùng để chuyển những binh sĩ tử trận, có những lỗ đánh dấu phía nào là đầu phía nào là chân. Tôi gối đầu lên cái ba lô. Những người bên cạnh tôi nói được tiếng Pháp. Họ thì thầm với tôi là trong cái ngày trước Tết các toán sát thủ Cộng sản đã đến từng căn nhà với danh sách những người sẽ bị xét xử trước cái gọi là tòa án nhân dân và sau đó thì hạ sát họ tại chỗ, không cần xét xử.
"Anh có nghĩ là những ông giáo sư người Đức có tên trong các danh sách đó không?" Tôi hỏi người đàn ông bên phải tôi.
"Chắc chắn là có, giống như các linh mục người Pháp và những người ngoại quốc khác. Họ đều bị dẫn đi," anh trả lời tôiGiữa đêm, hàng loạt tiếng súng liên thanh ngay trong khu vực gần nhất chúng tôi nổi lên tạch tạch tạch, tạch tạch tạch, tạch tạch tạch, tạch tạch tạch, tạch tạch tạch (5 lần)...
"Xử tử," người đàn ông Việt Nam bên tay phải tôi nói. "Súng AK-47 Kalashnikov."
"Sao anh biết?" Tôi hỏi.
"Bây giờ nghe tiếng súng này quen quá rồi. Vừa rồi không phải là đánh nhau. Đó là năm loạt súng từ một khẩu liên thanh - có chủ đích rõ ràng."
"Có gần đây không?" Tôi hỏi tiếp.
"Không xa hơn trăm thước đâu."

Image result for hue during the tet offensive

40 năm sau, tôi kết bạn với anh Tôn Thất Di tại miền Nam California, anh có họ hàng xa với hoàng tộc. Chúng tôi thảo luận về biến cố Tết Mậu Thân 1968 tại Huế và khám phá ra là cha anh, hai người chú và hai người anh em họ khác có thể là nạn nhân của vụ thảm sát đêm hôm đó. Cha của anh Di tên là Tôn Thất Nguyên đã từng là thị trưởng thành phố Đà Lạt và sau đó làm công chức bộ Xã Hội tại Sài Gòn mà trụ sở tôi rất quen thuộc vì nằm sát cạnh tiệm cà phê La Pagode trên đường Tự Do.
Tháng Giêng 1968, Tôn Thất Nguyên bay đến Huế để ăn Tết với các anh em và các cháu tại biệt thự của họ. Di và tôi đã nghiên cứu tấm bản đồ Huế. "Đây là vị trí căn nhà họ," anh nói, chỉ vào một điểm không xa hơn 100 thước cách khu nhà ăn của trại MACV. "Chúng tôi chỉ tìm thấy lại xác của một ông chú. Do đó chúng tôi không thể làm đám tang cho ông cụ được."

Tôi không bao giờ biết được rằng tôi thực sự là nhân chứng nói của cái chết của họ hay đó là một vụ thảm sát khác, tuy nhiên khoảnh khắc đó nằm mãi trong trí nhớ của tôi, chính yếu bởi vì nó được tiếp nối bằng một một kinh nghiệm siêu thực khác đã từng xảy ra quá nhiều với tôi tại Việt Nam: một con gì đó thật to, nóng ấm, kêu quàng quạc chui vào dưới ba chiếc túi đựng xác của tôi. Hóa ra đó là một con ngỗng trắng với cái mỏ màu vàng và lông xám hai bên cánh. Tôi lúc nào cũng thích ngỗng, nhất là khi chúng được quay và dọn với bắp cải đỏ vào dịp Giáng Sinh. Nhưng tôi chưa hề có được một con ngỗng nào chui rúc vào mình như vậy cả, mà con này có vẻ hoảng hốt cùng cực. Cùng với hàng đoàn ngưòi tỵ nạn Việt Nam con chim khiếp sợ này đã trốn vào khu trại Mỹ từ lúc đầu trận Tết và chạy lạch bạch chung quanh khu đất từ đó, thỉnh thoảng  xem xét các chỗ ngủ. Lính Mỹ đặt tên nó là Garfield. Như một con ngỗng canh gác, Garfield hằng đêm ra một điểm quan sát luôn luôn tại một chỗ cố định để dòm chừng ra ngoài đường. Nhưng khi nó nghe thấy tiếng súng nổ ngay ngoài cổng, nó đã hoảng hốt tìm chỗ núp ngay bên cạnh tôi. Tôi đuổi nó ra khỏi khu vực ngủ, cho nó về chỗ canh gác lại.
Lúc bình minh, nhóm phóng viên chúng tôi được phép rời khỏi doanh trại với điều kiện phải mang theo súng M.16 để tự vệ. Peter Neuhauser, Hilmar Pable và tôi nhận mỗi người một khẩu, nhưng theo đề nghị của tôi, chúng tôi đã cãi lệnh và giao lại súng cho lính canh ngoài cổng. Trên đường đến khu chung cư của các giáo sư người Đức đã bị bắt cóc, tôi lý luận: "Thử hỏi nếu chúng ta chạm trán với một toán tuần tiễu Việt Cộng thì sao? Chúng ta sẽ bị chết ngay. Nếu không mang súng, ít nhất chúng ta còn vin cớ không phải là chiến binh, mặc dù chẳng biết có nghĩa lý gì với họ hay không."
Vừa run rẩy trong cơn mưa phùn lạnh lẽo, chúng tôi vừa đi bộ về hướng Tây đường Lê Lợi. Cái đại lộ từng là một con đường lịch sự giờ đây vắng ngắt và trông hết sức tiều tụy. Những căn biệt thự lỗ chỗ vết đạn, cây cối đổ nát hay bị gãy cành hết sống nổi. Khi chúng tôi đến gần Câu Lạc Bộ Thể Thao, nơi mà thỉnh thoảng tôi vẫn ăn tối với các giáo sư Đức và cũng là nơi mà bà Elisabeth Krainick thường đến bơi, tôi mơ màng hy vọng là một người hầu bàn trung thành sẽ có mặt để pha cà phê cho chúng tôi nhưng đó chỉ là một ý tưởng điên rồ. Không còn một ai nữa, không có ai ngoại trừ lính TQLC Hoa Kỳ vượt qua mặt chúng tôi trên xe jeep và thiết vận xa. Trong một lúc bầu trời mây che phủ sáng ra và chúng tôi nhìn qua phía bên kia sông Hương. Chúng tôi thấy lá cờ VC màu đỏ xanh với một ngôi sao vàng ở giữa đang bay trên pháo đài và nghe cả tiếng giao tranh ác liệt nữa.
Khu chung cư gia đình Krainick đang ở nhìn qua kinh Phú Cam. Một chiếc xe tăng Mỹ cũng đậu ở mạn Bắc của khu vực này. Đùng! chiếc xe tăng nã một phát đạn đại bác qua bên kia con kinh. Đùng đoàng! Cả căn chung cư rung chuyển khi chúng tôi đang leo lên chỗ ở của gia đình Krainick trên lầu bốn. Có cả một trung đội TQLC đang đóng tại chỗ đó và căn phòng trông hoang tàn khủng khiếp. Quần áo, sách vở, tài liệu khoa học và giấy tờ riêng tư bị ném bừa bãi khắp nơi. Tôi hết sức bực mình thấy Peter Neuhauser lục lọi đống giấy tờ và lén bỏ vào túi một số hình ảnh của gia đình Krainick
"Mày không mắc cở hả?" Tôi hỏi anh ta.
 "Phải làm vậy thôi nếu anh làm việc cho một tạp chí hình ảnh," hắn lạnh lùng trả lời tôi và bỏ đi.
Tay Trung đội trưởng là một Thiếu úy 23 tuổi dáng dấp chắc nịch quê tại New Mexico. Nhìn thoáng qua, tôi biết ngay hắn là một gã ngốc và cách ăn nói cũng đúng như vậy. Anh ta dưong oai diệu võ trong một chiếc áo thun trắng, chẳng chịu mặc áo giáp hay đội nón sắt gì cả. Đùng! Chiếc xe tăng bắn thêm một quả nữa.
"Xe tăng bắn vào cái gì vậy?" Tôi hỏi anh ta.
Viên Thiếu úy dắt tôi đến một cánh cửa kính mở trông ra ban công và chỉ vào một căn biệt thự xây theo lối Tây bên kia con kinh:
"Bọn Việt Cộng bắn tỉa," anh ta nói. "Tụi nó đang bắn về phía chúng ta."
"Tại sao anh lại đứng đây với cái áo thun trắng, để làm mục tiêu tuyệt vời cho tụi nó sao?"
"Thưa ông, tôi là TQLC, được huấn luyện để chiến đấu và để chết."
"Có phải là dân đóng thuế bên Mỹ tốn cả nửa triệu bạc để đào tạo một sĩ quan chuyên nghiệp không?" Tôi thách thức anh ta. "Mặc dù anh không thiết mạng sống anh, bộ anh thật sự nghĩ là anh có quyền đặt cái vốn đầu tư đó một cách cẩu thả như vậy hay sao? Và tạo cơ hội để lính tráng mất người chỉ huy?" Anh ta nhìn tôi chẳng hiểu gì cả.
Khi tôi bước ra khỏi cửa chính đi xuống cầu thang thì tôi nghe thấy một tiếng thét hãi hùng như chưa từng nghe thấy bao giờ. Tiếng hét không mang giọng người. Tôi quay lại. Viên Thiếu úy loạng choạng tiến về phía tôi tay ôm ngực bên trái máu phun ra có vòi. Anh lảo đảo ngã xuống, lăn nhào xuống cầu thang và chết tức tưởi. Bọn bắn tỉa đã lấy mạng sống của anh.
Tôi đi ngang qua bệnh viện trường Đại học mà giáo sư Horst-Günter Krainick, bác sĩ Raimund Discher và bác sĩ Alois Alteköster từng làm việc. 75 phần trăm cơ sở đã bị phá hủy trong cuộc xung đột. Nhìn thấy quân phục tôi, hầu hết những thường dân Việt Nam tránh ánh mắt tôi. Họ quá sợ bị trông thấy đang kết thân với một "người Mỹ," mặc dù bảng tên trên nón sắt của tôi xác định tôi là một phóng viên người Đức, Tây Đức giống như các bác sĩ đã thành lập nên cái trường Đại học Y khoa. Rõ ràng là họ ngại rằng bọn CS có thể trở lại và trả thù những người mà họ thấy đã hợp tác với kẻ thù – những người như tôi.
Một người đàn ông lớn tuổi lặng lẽ kéo tôi sang một bên để kể lại những câu chuyện kinh hoàng của những phiên tòa khôi hài được gọi là tòa án nhân dân. Nó được bọn Bắc Việt dựng lên để xét xử các cư dân thuộc tầng lớp quý tộc cũ, thành phần tư sản, các công chức VNCH, những người ngoại quốc, người công giáo tòa thánh La Mã, các linh mục, nói chung tất cả những ai bị nghi ngờ không đồng lòng với "Cách mạng."
"Họ không bị bắt một cách tình cờ đâu, thưa ông," ông ta nhấn mạnh, "Tên tuổi của những người đó nằm trên danh sách mà bọn cán bộ Cộng sản mang theo. Tại những phiên tòa như vậy, họ không có cơ hội để tự bào chữa. Họ bị tuyên án, mang đi và bị bắn bỏ."
"Có bao nhiêu người?"
"Làm sao biết được? Hàng trăm, hàng ngàn?"
Cho đến ngày hôm nay vẫn không có con số chính xác bao nhiêu nạn nhân. Những con số ước đoán vào khoảng từ 2.500 đến 6.000 người.
"Phần tệ hại nhất của cuộc tấn công này là khi giao tranh lan đến khu điều trị bệnh tâm thần," ông già tiếp tục câu chuyện. Ông không cho tôi biết tên tuổi hay chức nghiệp nhưng trông ông có vẻ là một người có học qua trường Tây. "Các bệnh nhân trở nên điền cuồng, họ chạy khắp nơi, đánh lẫn nhau trong cơn hoảng loạn. Ông không thể nào tưởng tượng được nó như thế nào. Nhiều người bị mất mạng vì họ không thể chạy khỏi lằn đạn hai bên bắn nhau. Thật giống như một cảnh tượng trong vở kịch Hỏa ngục của Dante."
"Lúc đó thì ông đang ở đâu?
 "Tôi trốn trong đám bệnh nhân, thưa ông, và làm bộ cũng là bệnh nhân vậy tuy thật sự không phải, và điều này đã cứu sống tôi."
Ông khuyên tôi nên đi qua thính đường chính của trường Đại học lúc đó đang chật cứng hàng trăm người vô gia cư, tất cả vẫn ăn mặc chỉnh tề, còn đang ở các trạng thái bàng hoàng với những nét mặt không còn cảm xúc gì nữa. Nhiều người bị thương và có rất ít, nếu có, y tá và bác sĩ để chăm sóc họ. Không có nước máy, không có điện và không có cả phương tiện vệ sinh.
"Hãy qua bên trường Quốc học nữa," ông già nói với tôi và đây là một lời khuyên đúng. Khi tôi đến khuôn viên trường, nó lại giống như một khu trại tỵ nạn nữa. Có ai nói với tôi là có khoảng 8.000 người tạm trú trong cái cơ sở đẹp đẽ đó, nhiều người run rẩy trong cơn giá lạnh chờ được phát thức ăn và nước. Mặc dù tôi không thể kiểm tra được con số đó nhưng thực tế là rất nhiều.
Trên đường quay về khu trại MACV tôi phát hiện ra hàng chữ vẽ nguệch ngạc trên tường của một căn biệt thự lớn. Hàng chữ viết "Cắt đầu Mỹ." Khi tôi nhìn kỹ hơn thì thấy chữ "Mỹ" chỉ mới thay chữ "Pháp" không lâu. Có lẽ tôi hơi nóng vội tiết lộ trước chương sau nhưng cái thông tin này phù hợp với chuyện vài tuần lễ sau, khi tôi đi thăm trở lại Huế thì cái khẩu hiệu này được đổi thành "Cắt đầu Cộng sản!" Điều này cho tôi biết là sự ghê tởm đối với hành vi của Việt Cộng đã làm thay đổi niềm ghét bỏ người ngoại quốc của dân Huế nếu có, cũng như đã thay đổi tư tưởng bài ngoại khá mạnh mẽ tại đây. Tư tưởng bài ngoại khiến người Mỹ cho tới Tết 1968 đã phải giữ một thái độ thật âm thầm trong cái thành phố này. 25 ngày đêm chiến sự tại Huế, sự bắn giết, đập đầu đến chết và chôn sống hàng ngàn cư dân, đưa đến 116.000 người mất nhà cửa trong một dân số vỏn vẹn 140.000 đã mang lại cái kết quả thất bại nặng nề nhất đối với Cộng sản: nếu có lúc nào Cộng sản được lòng dân chúng Huế thì nay chúng đã mất hết rồi.
Tôi đi nhanh về trại MACV để điện thoại tường thuật câu chuyện cho bạn đồng sự với tôi là Friedhelm Kemna ở Sài Gòn, cũng như để báo tin cho Nam tước von Collenberg tại tòa Đại sứ tin tức cập nhật về các vị bác sĩ Đức. Chỉ có một đường giây điện thoại ra ngoài mà có cả một hàng dài người đang chờ đợi để gọi đi. Hai tiếng đồng hồ sau mới tới phiên tôi.

Tôi lớn tiếng thét lên trong điện thoại dã chiến: "Huế đây, làm ơn cho tôi Phú Bài! - Phú Bài, cho tôi Đà Nẵng! - Đà Nẵng, cho tôi Nha Trang! - Nha Trang, cho tôi Qui Nhơn! Qui Nhơn, cho tôi Tân Sơn Nhất! - Tân Sơn Nhất, cho tôi Mãnh Hổ (trung tâm điện thoại quân sự Sài Gòn)! - Mãnh Hổ, cho tôi PTT - PTT, làm ơn cho tôi khách sạn Continental."
Sau hai lần thất bại, sau cùng tôi gọi được khách sạn, trong lòng cầu nguyện là "kẻ thù" của tôi, cái gã Ấn Độ từ Madras lúc nào cũng say mùi thuốc phiện không trực điện thoại chiều hôm đó. Nhưng hắn đã có mặt!
"Siemon-Netto đây, làm ơn cho tôi nói chuyện với Kemna đi," tôi nói bằng tiếng Pháp.
"Ông Siemon-Netto không có ở đây," gã nghiện thuốc phiện nói và cúp điện thoại cái rụp!
Cảm ơn Chúa, người đồng nghiệp Mỹ đằng sau đuôi tôi cũng ở khách sạn Continental và có một người nhận tin đang chờ sẵn tại đó. Anh ta đọc xong bản báo cáo và nói phía bên kia giữ đường đây để chạy qua gọi Freddy cũng ở cùng tầng lầu với nhau. Do đó, sau cùng tôi cũng xoay sở gởi bài tường thuật cho Freddy xong và yêu cầu anh chuyển lời nhắn qua cho Nam tước Collenberg.
Sau đó thì tôi cảm thấy thèm rượu. Cảm ơn Chúa, tôi có mang theo một bình huýt ky mỏng trong ba lô. Sau những kinh nghiệm rùng rợn của ngày hôm đó, một vài ngụm từ cái bình đó cộng thêm vài lát bánh mì pumpernickel thật là một niềm hạnh phúc hoàn hảo. Bây giờ tôi phải chờ quân đội Mỹ di hành.
Cố đô và cổ thành vẫn còn nằm trong tay của khoảng 10.000 quân Bắc Việt. Chúng tôi được nghe là Sư đoàn 1 bộ binh VNCH mặc dù chiến đấu dũng mãnh vẫn chưa vào được mạn Tây Bắc sau khi cố gắng tái chiếm pháo đài và đang chờ các đơn vị của Sư đoàn 1 TQLC Hoa Kỳ tấn công từ mạn Đông Nam. Nếu chuyện này xảy ra, tôi dự định sẽ bám theo một trong những trung đội đó.

Những gì xảy ra tiếp theo đó quá kinh hoàng khiến tôi chỉ còn nhớ lại trong đầu những mảng rời rạc của cái ngày tôi tháp tùng một Trung đội TQLC vượt qua con sông Hương vào lúc ba giờ sáng. Tôi còn nhớ là Trung đội đó đông hơn bình thường, quân số khoảng 53 người. Tôi cũng nhớ là các cấp chỉ huy có bản lĩnh hơn nhiều đám chỉ huy Trung đội tôi đã gặp trong căn chung cư của Krainick. Đau buồn thay là tôi chứng kiến hầu hết trong số họ bị thương hay thiệt mạng trước khi ngày hôm đó chấm dứt.

Mãi đến ba giờ chiều tôi mới có dịp coi giờ trên cái đồng hồ của tôi trong một lúc tạm lắng giao tranh. Tôi nhìn chung quanh. Những người lính cùng chung lưng với tôi 12 tiếng đồng hồ trước đây đâu cả rồi? Tôi đếm được 10, có thể là 15. Những người khác hoặc đã bị thiệt mạng hoặc bị thương. Một trung đội khác đến thay chúng tôi. Đã đến lúc tôi phải ra khỏi nơi này thôi. Tôi xoay xở về lại được sông Hương. Kỳ lạ thay là cộng quân đã để lại cây cầu chính còn nguyên. Tôi đi bộ qua đó và đến một khu vực bãi đáp trực thăng đầy những người bị thương nặng, có đến hàng trăm người, nhiều người đang rên rỉ vì đau đớn.
   
 "Thưa Thiếu tá," tôi hỏi viên sĩ quan phụ trách bãi đáp, "chuyện gì xảy ra ở đây vậy? Tại sao những người bị thương vong này chưa được tản thương đi?"
Hắn chỉ tay lên trời: "Điều kiện bay xấu!"
 "Nhưng thưa Thiếu tá, tôi đã từng thấy thời tiết tồi tệ hơn nhiều. Trần mây còn đủ cao mà," tôi phản đối.
 "Đúng vậy nhưng anh thấy đó, TQLC chúng tôi không có đủ trực thăng."
"Lục Quân thì sao? Tôi biết là cách đây 10 dặm ở Phú Bài có hai phi đoàn trực thăng của Lục Quân đang sẵn sàng tác chiến."
"Thưa ông, TQLC chúng tôi không gọi nhờ Lục Quân bao giờ."

Tôi nhớ đã tự nhủ trong lòng: một cái lá phong trên bộ quân phục rõ ràng không phải là giấy chứng nhận cho một chỉ số thông minh cao. Ðã đến lúc phải rời nơi đây thôi. Hí trường của sự phi lý đang biểu hiện dấu hiệu của sự điên rồ đây. Tôi đã thấy những mặt đẹp đẽ nhất cũng như những điều xấu xa nhất của nhân loại trong vài ngày vừa qua: sự hy sinh đầy thương tâm và lòng dũng cảm tương phản với sự ác độc không thể tưởng tượng nổi của Cộng sản và sự xuẩn ngốc của một thiểu số khờ khạo chứng nhận được mặc quân phục.

 Tôi nhớ là nước mắt tôi đã ràn rụa khi nghĩ đến những người tôi thấy đã ngã xuống tại Huế, hầu hết là phụ nữ và trẻ em, và những thương binh trẻ Mỹ nằm trên cáng rên rỉ trong đau đớn cùng cực mà không có ai để báo cho họ biết nguồn tin an ủi là họ đã đánh bại quân thù. Hơn một nửa trong số 80.000 Cộng quân tham gia Tết Mậu Thân đã bị thiệt mạng, hạ tầng cơ sở Việt Cộng hoàn toàn bị phá vỡ. Đây là một chiến thắng quân sự lớn.  Một chiến thắng cam go cho phe Đồng minh, nhưng là chiến thắng hiển nhiên.

“Ich habe genug vom Tod,” tờ báo Chủ nhật toàn nước Đức Bild am Sonntag đã lên tựa cho bài tường thuật của tôi từ Huế như vậy, có nghĩa là "Tôi đã chán cảnh chết chóc đó lắm rồi." Tôi rất nôn nóng thoát ra khỏi Huế. Nhìn thoáng qua bãi đáp trực thăng tôi đoán là tôi không có hy vọng gì mau mắn đáp được một chuyến trực thăng. Tuy nhiên tôi trông thấy một chiếc tầu đổ bộ LCU của Hải Quân Việt Nam gần đó. Tôi chạy đến chiếc tầu và gặp người chỉ huy là một trung úy với làn da sậm dầy như một thủ lĩnh da đỏ Comanche.
"Chúng tôi sắp ra khơi đây," anh ta nói, "Mình nên chào mừng cho sự tiến bộ: đây là lần đầu tiên kể từ khi bắt đầu Tổng công kích Tết có một chiếc LCU vận hành đến khúc sông này. Sẽ có rắc rối đấy!" Chúng tôi hướng về phía Đông và lập tức bị hỏa lực súng nhỏ bắn tới từ hướng Bắc với loạt đạn đụng vỏ tầu dội ngược ra. Nhưng chiếc tầu vẫn tiếp tục đi về phía đầm phá Tam Giang, mặc dù tôi không ở trên tầu lâu lắm. Tiếng súng lắng dần khi chiếc tầu tăng khoảng cách với Huế. Tôi ngủ thiếp đi. Khoảng giữa đêm, viên trung úy lay tôi dậy nói, "Anh nên xuống chỗ này đây." Anh đã đậu tầu lại tại bãi cảng của một căn cứ MACV nhỏ ở mạn Nam dòng sông.

 Tôi không còn nhớ bằng cách nào từ đó tôi về lại Đà Nẵng, có lẽ bằng trực thăng. Tôi chỉ biết là tôi đến doanh trại báo chí hoàn toàn như một cái giẻ rách. Tôi chưa cạo râu trong tám ngày trời. Hai bàn tay bẩn thỉu, những ngón tay vàng khè vì khói thuốc và mình mẩy hôi rình. Tôi không còn nhớ tôi có đói hay không nữa, bộ phận tiêu hóa của tôi đã hoàn toàn khép lại từ khi tôi rời khỏi trung tâm báo chí này hơn một tuần lễ trước đó.

Tôi mượn đồ lót và một bộ quần áo trận mới từ một sĩ quan Mỹ và xin một người phụ nữ làm việc quét dọn trong khu trại giặt quần áo cho tôi càng nhanh cành tốt. Lúc đi tắm, một làn nước màu đen xám chảy từ mái tóc và thân thể tôi xuống. Cạo sạch bộ râu lởm chởm là việc làm chính trong ngày. Sau đó tôi xuống hội quán uống hai ly Dry Martini nhưng không thể ăn được bất kỳ thứ gì. Do đó tôi nằm thẳng cẳng trên giường và ngủ một mạch bốn tiếng đồng hồ rồi dậy viết bài tường thuật và gọi điện thoại báo cáo cho Freddy ở Sài Gòn.

Cuối ngày hôm đó tôi ghé thăm chiếc Helgoland, cảm ơn thay, nó đã quay về bến. Tuy nhiên trên boong lại thông báo là chiếc tầu sắp rời cầu tàu và yêu cầu tất cả khách đến thăm hãy trở về. "Ở lại với chúng tôi đi," các y tá và bác sĩ khẩn khoản, "Trông anh tiều tụy quá. Hãy ăn một bữa cho ngon, uống một vài ly rượu, quên chiến trận trong một đêm và nghỉ ngơi đi." Còi tầu hụ lên. Tôi không thể nào nhấc mình nổi cho dù tôi có muốn đi chăng nữa. Những người bạn Đức đã cho tôi một khoảng thời gian rất yên trên hải phận quốc tế.

Những giây phút hạnh phúc đó không kéo dài lâu. Buổi sáng hôm sau tôi quay về trung tâm báo chí. Quần áo tôi đã có lại và tôi may mắn đón được một chiếc trực thăng bay trở lại Huế. Trong doanh trại MACV tôi chạm trán với Peter Braestrup, trưởng phòng Washington Post tại Sài Gòn.

"Họ đã tìm thấy một mồ chôn tập thể," anh nói, "chúng tôi đang định đi tới đó, vậy sao anh lại không muốn đi theo hả?" Một chiếc xe vận tải quân sự chở chúng tôi và các phóng viên khác đến một chỗ thuộc ngoại vi phía Tây Bắc của Huế mới giành khỏi sự kiểm soát của Cộng sản không bao lâu. Có hàng trăm phụ nữ, đàn ông và trẻ em trong nấm mồ đó, nhiều người rõ ràng bị chết cháy, nhiều người bị nện cho tới chết và nhiều người khác bị chôn sống, theo lời của một sĩ quan VNCH.
"Làm sao biết là họ bị chôn sống?" Tôi hỏi anh ta.
"Chúng tôi tìm thấy địa điểm này khi phát giác có những bàn tay mới làm móng chĩa ra khỏi mặt đất," anh trả lời, "Những phụ nữ này đã cố bò ra khỏi mồ chôn họ."
Peter Braestrup thúc cùi chỏ trái vào tôi và chỉ tay vào một toán truyền hình Mỹ gồm một phóng viên, một tay quay phim và một nhân viên âm thanh đang đứng trước khu mồ chôn một cách ung dung không có hành động gì cả.
"Tại sao các anh không quay cảnh này?" Peter hỏi họ.
"Chúng tôi đến đây không phải để quay phim tuyên truyền chống cộng," gã quay phim đáp.

"Thật là điên khùng, Peter, tôi nói, tôi đã chán ngấy cái thứ này lâu rồi. Tôi không trách bạn đâu. Chúng ta đang thua trận chiến này sau khi đã thắng về mặt quân sự. "

************************

Ghi chú: Trên đây là phần chính của chương 15 trong cuốn Tình Yêu Của Một Phóng Viên Cho Một Dân Tộc Nhiều Đau Thương. Diễn Đàn Cựu Sinh Viên Quân Y đã giới thiệu hai bản Anh và Việt tại Orange County California ngày 4 thg 5, 2013. Giá US$22 mỗi cuốn; sách bán nhiều nơi “on line” hoặc http://www.siemon-netto.org/ 


từ trái, Uwe Siemon-Netto, Lý Văn Quý, Nguyễn Hiền

Uwe Siemon-Netto trong một lúc dừng quân trận Tết Mậu Thân 1968 tại HuếUwe Siemon-Netto during a lull in the Tet Offensive 1968 at Hue




Wednesday, January 24, 2018

bên hông Chợ Cá



căn nhà đnh chun
tôn tht tuệ

Dẫn nhập: 2013 sau đúng 35 năm, tôi vui mừng gặp lại trên internet vị chỉ huy cũ và các đồng nghiệp trong Viện Quốc Gia Định Chuẩn, (VQGĐC, VĐC, ĐC). VĐC, cái tên khá lạ, vì chuẩn là chuyện khá lạ ở VN. Chuẩn lớn lên cùng, và hổ trợ, nền kỹ nghệ, kể cả sản xuất nông nghiệp. Ông Phí Minh Tâm tiến sĩ hóa học tốt nghiệp M.I.T. Mỹ, đã đưa đơn vị nhỏ nầy trong Bộ Kinh Tế thành một cơ quan khoa học độc lập. VĐC có phòng thí nghiệm trong khu kỹ nghệ Biên Hòa và văn phòng gần Phủ Tổng Thống. Viện thuê dụng nhiều chuyên viên tốt nghiệp Âu Châu Mỹ Châu và Úc Châu hoặc các người có bằng cao học (sau cử nhân) trừ ra tôi, biết đọc biết viết. VĐC đang trên đà phát triền thì chung với cả nước hạ màn và chưa biết bao giờ làm lại. Bài viết dưới đây là một ghi ký, không hư cấu và là một email gởi anh Tâm cùng gia đình ĐC. 


Hôm tôi đứng trên lầu của Định Chuẩn (ĐC), bên dưới người ta kéo nhau đến gốc những cây sao. Họ đổ cát ra khỏi bao để lấy những bao nylon xanh rêu.  Chiến tranh hết rồi, lấy chi những bao ấy, phòng thủ cho ai. Mà hỏi các anh vì sao có những bao cát ấy, rất nhiều.

Thì ra khán đài giữa đại lộ Thống Nhất và Pasteur, ở trên đó có ‘bác’ Tôn vừa đọc diễn văn vừa xịt thuốc suyển vào cổ họng, khán đài ấy là một hầm trú ẩn lộ thiên, phòng khi hữu sự, just in case. Người CS không mộng mơ như Karl Marx mơ một xã hội vô tưởng. Mấy hôm trước đó, nhiều chú lính dùng máy dò mìn, và cúi xuống đào những cây đinh sét khi có tiếng o o. Cẩn tất vô ưu. Mặt khác người CS cũng không mơ mộng khi họ cho kéo những nhà vệ sinh lưu động gần khán đài đó với những ghi chú như: nhà đái gái.

Chừng hai tuần sau, tôi giao chìa khóa tủ hồ sơ cho anh Nỡ quân quản để đi cải tạo.

Nghĩ lại bên cạnh những ưu ái của con người như các anh dành cho tôi, thiên nhiên cũng ưu ái cho tôi. Tôi bắt đầu sống ở Saigon và hết ở Saigon với những hàng cây me xanh, cây sao im mát. 1962 tôi từ Huế vào Saigon học bên đường Alexandre de Rhodes, cạnh Bộ Ngoại Giao, mỗi chiều nghe tiếng quân hành của Đại Đội Danh Dự đi từ phía sở thú vào dinh Độc Lập làm lễ hạ cờ. Và tôi cũng lìa Saigon từ những cây me che mát Viện Quốc Gia Định Chuẩn trên con đường Hàn Thuyên. Và nghiệp văn chương cũng vương vấn từ ngàn kiếp trước nơi hai con đường mang tên hai con người của văn học, Đắc Lộ và Hàn Thuyên, cả hai đối xứng qua đại lộ Thống Nhất và gần phủ đầu rồng. Từ khi đến và khi đi nằm trong con số kỳ dị mười ba năm.

Từ văn phòng Viện, tôi lửng thửng ra phía Tự Do nơi Bộ Xã Hội; tựa lưng vách tường nhìn ra công viên quanh nhà thờ. Quả là một chợ người. Tôi nói chợ người, không phải chợ bán đồng hồ không người lái. Ở đó có những người cai như cai mộ phu làm đồn điền. Họ đứng ra nhận ghi danh những nhóm như viết phim, viết báo, ca sĩ trình diễn, hoạt động đoàn thể. Nói mộ phu cũng không quá vì những danh sách ấy dùng cho các lớp cải tạo, cải huấn. Vui nhất tôi thấy bà Nguyễn Phước Đại, tròn mập như đòn bánh tét, cắt đầu cắt đuôi. Nữ luật sư ấy chơi một bộ bà ba màu nâu, trông chẳng giống ai. Một cô gái quê vừa ra khỏi đồng lầy chơi cái mini jupe sẽ đi đứng không tự nhiên như bà Đại mặc áo quần quê vẫn lộng cộng khôi hài. Quả tình là một thứ hành hạ bản thân, trước một thần linh không hồn.

Thế rồi tôi không còn nơi hàng cây xanh, nơi trước kia có những chiếc xe đẩy bán dừa xiêm hay những ly chanh đường. Đến với ĐC sau chín năm vô bổ trong ngành hành chánh, tôi còn thích những hàng cây xanh mát ấy. Sau nầy chúng gây cho tôi nét nửa chua cay, nửa nên thơ dành cho cô vợ:
              này cô bé ngày xưa em đi học,
              áo em xanh em trả hàng me xanh lá,
              ly mía ngọt ngày xưa em uống
              nay đắng nhiều với những ngày còn sót lại với đời ta.
                                                                     

Thật vậy, tôi ngồi sau thùng xe như chở heo, bên cạnh những thứ gì còn lại. Vâng, tôi ngồi như ngày ngồi trên xe đi tù, không biết xe chạy đi đâu ban đêm nhưng qua khe hở cũng biết cách mạng cho "đi xem" Bến Bạch Đằng, khu Nguyễn Huệ đến mấy vòng mà mồ hôi và hơi người đã xông lên. Anh tài xế lần nầy chạy qua đường Tự Do và tôi cố gắng nhìn lại con đường đến VĐC, à, tôi thấy một người quen, e rằng đó là chàng Ninh. Nhà tôi ngồi phía trước trên ghế danh dự. Chúng tôi từ giả căn nhà gần Chợ Cá Trần Quốc Toản để hồi hương tại Long Thành.

Tôi muốn vong ân như một thứ thời thượng của lòng người đảo điên nên nói một cách xách mé rằng ông giám đốc Kiệt trả ơn tôi mang giúp cây Garand nặng nề qua bãi cát trưa nóng tại Vũng Tàu khi đi học làm cách mạng hành chánh. Ông trả ơn bằng cách giúp tôi về VĐC. Nói chơi, nói láo chơi.

Nếu anh Kiệt sợ bãi cát nắng ấy một, tôi còn sợ gấp ngàn lần. Tướng Khánh đã vỗ vai tôi nói thân mật, tôi không hiểu ý định của ông; ông nói ông sẽ bỏ ra hằng tỷ đô la để xây dựng nông thôn. Sau đó có chuyện xây dựng nông thôn và áo đen và Phạm Duy cũng mặc bà ba đen, trong chuổi dài những lần thay áo của nhạc sĩ tài ba nầy như con tắc kè đổi màu. Và chính sách ấy đã tạo nên trung tâm nầy. Khi tôi đến, chỗ nầy không còn sung mãn một thời vì viện trợ Mỹ không còn nữa và chuyển qua hệ thống hành chánh VN.

Vài nhân vật khi nhận bộ đồng phục đen, phải đem ngâm đủ thứ cho nó cũ, cho nó phai màu cho có vẽ cách mạng. Rất tiếc họ quên ghi bản quyền nên các hãng áo quần Mỹ bắt chước làm phai màu và xé rách các ống quần jean với giá cao hơn cái mới. Trung tâm giữ thẻ căn cước của cán bộ và cho mượn lại để đi phép với đơn xin. Phép thường niên phải có lý do như cha chết v.v... Khi một cán bộ bị sa thải, người ấy được chở giao cho tiểu khu Vũng Tàu để nhập ngũ. Những khắc nghiệt không áp dụng cho tôi, nhưng bầu không khí ngột ngạt. Lại xuất hiện ban văn công mà nhạc sáng tác không khác gì đài Hà Nội. Bây giờ web Nhạc Của Tui xếp những bản của Viết Chung và Nguyễn Tùng vào loại nhạc cách mạng của CS; cháy nhà mới ra mặt ai là ai.

Về ĐC thì không có nha lại, cạo giấy. Tôi biết là tôi đã đi lầm đường vào hành chánh nhưng ở thế bắt buộc còn hơn suốt ngày lên mặt dạy đời của trường sư phạm. Tôi hy vọng còn một năm nữa với ĐC để đủ mười năm đáp lễ quỷ thần sau cái hợp đồng nhận học bỗng của trường. Điều tôi vui đầu tiên là không có cảnh: bản sao kính gởi ông Tỉnh Trưởng "để kính tường" và bản sao gởi Trưởng Ty  "để tường" vì thằng trưởng ty địa phương thấp hơn mình không đáng dành cho chữ kính. Tôi không gặp cảnh phải cho nhân viên đánh máy lại vì: tham chiếu qúi văn thư thiếu lễ độ cho nên phải viết: tham chiếu văn thư của Qúi Bộ. Tôi thừa biết bên ngoài chiến tranh gia tăng thay vì phi mã mà là phi tiển cho nên người ta lấy những văn thư bằng giấy để chống đạn. Tôi đã bị báo cáo nặng nề khi thay đổi dấu phết trên một khẩu hiệu. Làm hết việc, không làm hết giờ thành làm hết việc không / làm hết giờ.


Image result for displaced persons
rời bỏ xóm làng vì chiến tranh

Tôi đã bị đuổi khỏi bộ Xã Hội vì sự khám phá của người khác là tôi đã làm thơ. Trong một tờ trình công tác tại Quảng Tín, tôi viết một cách rất tự nhiên những khốn khổ của đồng bào phải rời làng mạc mà Bộ phải cứu trợ. Tôi không nhớ đã viết thế nào. Còn nhớ vài đoạn: Khi trực thăng thả tôi xuống trên thửa ruộng sau mấy ngôi nhà gạch, một thanh niên đón tôi và đưa vào bằng ngã sau. Tiếng rồ của con chuồn chuồn sắt thay thế bằng tiếng của một bà lão và ba đứa cháu đi xin, họ không biết đây là ty của chính phủ. Ông trưởng ty nói: "thưa ông thanh tra, đừng lo, họ ở trên trại và tụi tui lo đủ hết rồi". Trời lạnh mưa phùn miền Trung. Tôi hỏi áo quần cứu trợ gởi cho ông đâu hết mà thế nầy? Trả lời: mấy chục bành nằm trong kho tỉnh để bà tỉnh trưởng đi ủy lạo, thăm cô nhi viện, thăm chùa, nhà thờ...Thưa ông Bộ Trưởng, tôi bó tay không thể nói lúc nào bà tỉnh đi phát, hơn nữa áo quần nầy không phải để cho cô nhi viện, chùa, nhà thờ; thưa ông Bộ Trưởng, tôi về Saigon mang cho Bộ lời nhắn của ông trưởng ty rằng nơi quận ấy, xã ấy có mấy chục ngôi nhà xây bằng vật liệu bộ gởi; ông tỉnh trưởng cho biết địch tập trung trong khu vực, tiểu khu không thể bảo đảm an ninh cho tôi đi xem thực hư. Tôi mang thông điệp nầy như người đưa thư, và ai cũng biết người đưa thư không trách nhiệm về nội dung của phong thư, có khi là bức thư tình, có khi là lời hăm dọa tống tiền...

Ông bộ trưởng nói ai đọc tờ trình đều nói là thơ. Thì ra tôi đã là thi sĩ chứ gì; poète malgré lui, poet against one's will. Về ĐC, tôi không làm thơ tuy ở trong vùng cây mát, trong Viện lại có rất nhiều giai nhân tuyệt sắc. Khung cảnh thì gentleman hơn, lúc nào tôi cũng có cái khô mực màu mè, có cây kim hột trai giữ cho nó không lắc lư. Không hiểu có phải vì ảnh hưởng nghề nghiệp hay không, mà tôi nghĩ, ai ai cũng có một chuẩn mức trong giao tiếp; không quá tân thời mang về cùng bằng cấp Âu Mỹ; không quá câu nệ của một nền hành chánh quan cách.

Chỗ làm thì yên ổn như vậy, bên ngoài cũng yên ổn. Ấy cũng là lúc tôi về Saigon từ Vũng Tàu, và thường nghe Radio Catinat. Thực có giả có. Lúc ấy đã có tin tướng Đồng Văn Khuyên cố vấn cho tướng Cao Văn Viên về một mô hình rút quân. Chỉ một tin như vậy đủ thấy sự thay đổi trầm trọng. Ông Viên, sinh ở Vạn Tượng, Lào, trước khi có sự oanh tạc thật sự bắc vĩ tuyến 17, chủ trương như Lý Thường Kiệt, lấy công làm thủ bằng cách đánh qua Tàu, tức là tấn công Bắc Việt ít nhất bằng máy bay. Nay thì ông tướng nghĩ khác. Ở một mức độ nhỏ hơn, nhiều người đã bán đồ đạt, và ngủ trên sàn nhà. Trong thời gian trên, tình cờ tôi gặp Robert Shaplen tại một tư gia người bạn cao niên. Nhà báo Mỹ nầy mời tôi một điếu xì gà nhỏ của Cuba. Ôi thật là ngon, tự nhiên có cảm tình với anh Râu Fidel, cảm tình chốc lác, xin nói rõ.

Robert Shaplen rất khôn ngoan. Ông nói rất gần đây, người Mỹ sẽ rời VN. Ông giải thích rất chi là khoa học. Ông chỉ vào bà chủ nhà đã hơn 50 và nói các bà nội trợ Mỹ đã quyết định như vậy; họ bỏ phiếu cho những người muốn rút lui và không viện trợ. Vì sao? Vì các ông chửi Mỹ quá; chính trị gia và đàn ông như tôi không hề hấn, nhưng các bà thì rất sensitive. Tôi làm ra như thích thú với lời giải thích bằng cách không nói đến chuyện Mỹ Tàu đã sắp xếp. Chủ nhà rất muốn tôi nói chuyện để mong ông ấy tiết lộ thêm. Phần tôi, tôi cũng háu thắng và nói 1964, tôi đã nói việc Mỹ bỏ VN trên tuần báo sinh viên. Tôi minh xác đây không phải là tiên tri thời cuộc mà đáp lời tuyên bố ở phi trường của luật sư Trần Văn Tuyên rằng thế giới Tự Do không bao giờ bỏ tiền đồn VN, tôi chỉ nói một khả thể (possibility) tự nhiên của chiến lược. (Mỉa mai thay, trước 30.4.75 không lâu, LS Tuyên cầm đầu một số dân biểu đòi Mỹ rút quân và ngưng viện trợ cho VNCH). Jay Hendon, trưởng phòng UPI, có vợ VN, đã công khai nghi tôi có ý gì khác; dễ hiểu vì lúc ấy đang có vụ Maddox. Robert Shapleen  mời tôi điếu xì gà thứ hai với câu khen ngợi (!?): ông là một viễn tượng gia (visionary).

A Di Đà Phật, ra đi mẹ có dặn lòng, chanh chua mua lấy, ngọt bòng chớ mua. Lời của Robert Shaplen quả là ngọt bòng, xin không dám nhận.

Tôi không có một viễn tượng nào mà chỉ có nỗi buồn hơi khó chịu, tôi không để ý vì cứ nghĩ nó tiếp tục những nỗi buồn từ nhỏ vào thời chiến tranh. Tôi không bán đồ đạt, vì chẳng có gì mà bán ngoài gần trăm cuốn sách cũ mua gần cái nhà tiêu, đối diện với Khai Trí trên đường Bonard. Lạm phát phi tiển đi lên cùng nhịp độ của chiến tranh vây hãm đời người; thời ấy ai cũng nhớ đến nhát dao nhập cảng bởi các học vị kinh tế tốt nghiệp Âu Mỹ: tội về ai, TVA, taxe de valeur augmentée, cho nên chẳng có tiền mua cái gì. Dân tiếp vụ nơi đường Nguyễn Du bán rất nhiều mì ăn liền nikka ramen mối mọt. Tiếc quá lúc ấy chưa có thi sĩ Nguyễn Đức Sơn dạy cho cái khôn ngoan của loài người: dòi một bên còn ta một bên khi ông ăn trái mận rụng cuối mùa.


Image result for bastos cigarette

Hương vị của điếu xì gà thoáng qua, nhường chỗ cho những điếu Bastos xanh, người anh em của những điếu Gaulois hay Gital tabac noir đem từ bên Maroc hai trăm năm nay. Anh Cảnh đánh máy cũng chơi thứ hạng nặng nầy nên trở thành đồng minh của tôi, phòng khi môi hở răng lạnh. Anh Cảnh cũng như bác Tường thỉnh thoảng hé mở vài ý nghĩ chính trị, nhưng cũng rất chuẩn mức, đúng là trong nhà định chuẩn.

Về ĐC tôi không còn cảnh chiều thứ bảy không tiền xe về thăm gia đình. Tôi đứng ở Rạch Dừa bên dãy quán bán thịt chó, nhìn những chiếc xe quay về Saigon mang theo những khuôn mặt nắng rám. Tôi cố nhìn thử có ai trên quen trên những xế hộp ấy, không phải để xin đi một đoạn đường mà thử biết mình nằm đâu trong cái danh giá xã hội. Chẳng một ma nào quen. Tốt nhất là vào ngân hàng Bà Sương đầu ngõ vào trung tâm, quẹt cái credit card vô hình mua lửa bao thuốc lá. Đại Tá Quách Huỳnh Hà, vừa quá vãng giữa 2010 để lại bài viết huynh đệ chi binh, ra Vũng Tàu thực hiện cuộc cách mạng hành chánh, đã lấy căn nhà gỗ ngoài thị xã, cho nên nhà tôi và các cháu phải về nhà ngoại ở Phú Lâm.

Cuộc cách mạng hành chánh ấy gồm những bài lý thuyết chính trị, những phương thức giản dị hóa hành chánh dành cho tất cả nhân viên cao cấp mà giảng viên là những cán bộ vừa được học hôm trước thế nào là một bưu điệp, một điện tín. Các ông thầy cách mạng nầy đã vào trung tâm theo thể thức tuyển mộ của Mỹ, nay qui vào thể lệ VNCH thì không cần một điều kiện bằng cấp. Một thông dịch viên nhìn vào nét chữ đánh máy không dấu "danh ca", nói với Mỹ người kia trước khi vào trung tâm là một famous singer; đương sự không nhận mình là famous singer mà là đánh cá đánh tôm. Một cuộc cách mạng trong chuổi dài cách mạng của nước mình.

Các vị như anh Kiệt của chúng ta phải mang theo mình cây Garand. Trong lúc ấy, cây súng nầy đã được thay thế trên chiến trường bằng cây M16. Garand chỉ dùng cho đội cơ bản thao diễn, trong lễ chào cờ hay đám ma. Còn mấy ông phó tỉnh học sau tôi thì đem cả samsonite bạc để xài ở Saigon sau khóa học. Trong dịp này tôi được giới thiệu với anh Kiệt. Và do đó có sự can thiệp của anh Tâm với tổng nha công vụ và bộ quốc phòng đưa tôi về VQGĐC. Và từ đó tôi có một khung cảnh làm việc khác hẳn từ nội dung đến hình thức với các nét sơ phát nói trên.

Thực tế nhất là lương bỗng rất hậu, tôi không bị giới hạn trong chỉ số đốc sự mà theo cơ quan tự trị. Xem lúa mới cho mượn tiền. Với "bồ lúa" kha khá, tôi mua được bát hụi và sang căn nhà xập xệ thuộc khu gia binh gần chợ cá Trần Quốc Toản. Mỗi khi mưa to thì ngập lụt đôi chút nhưng không quá tệ như những con đường Saigon của thời cách mạng đỏ. Tuy đóng khung trong 4 mét ngang 15 mét dọc, với cái nóng xế chiều thiêu đốt từ hướng tây, nó cũng đủ sức dung chứa một gia đình 5 người lớn nhỏ. Ông hàng xóm của tôi là Trịnh Cung, người gây ồn ào lời qua tiếng lại về Trịnh Công Sơn và là người bây giờ có cô hầu non ngang tuổi cháu ngoại. Cứ nhìn chuyện của ông họa sĩ nầy, ta có quyền nói đây là dương cơ đại địa, theo danh từ phong thủy.

Nhưng
"Thưa ông, đây là chồng tôi, mới được về hôm nay, xin ông vui lòng cho chồng tôi ở lại vài ngày". Tôi đi theo nhà tôi như đứa tớ dưới làng lên tỉnh giúp việc, qua nhà ông công an khu vực. Ông bất động như một thiền sư chìm sâu trong tam muội. Tôi nghĩ thầm nếu ông không gật đầu, thế nào tôi cũng phải ra chợ Nguyễn Tri Phương ngủ, chứ ở trong nhà thì trăm điều khốn khổ xẩy ra. Nhà tôi nhanh trí nói: Xin ông cho ở chừng ba ngày để sắp xếp đưa mẹ con tôi hồi hương, giao nhà cho chính quyền. Ông ta bật dậy như ai lấy kim chích đít: 'Được, lo sắp xếp mà đi đi nhe' ".
Căn nhà xập xệ nầy cũng giống như con trâu của một nông dân ngoài Bắc. Con trâu phải dâng hiến cho hợp tác xã, mong họ lấy cho mà đừng đấu tố chủ nhân, đừng xếp vào hàng địa chủ.

Vâng, tôi xin được an toàn, bỏ của lấy người như nông dân kia. Nhà tôi hứa giao cho chính quyền địa phương để cho tôi ra khỏi cải tạo. Người em sầu mộng của muôn đời, kẻ có đến Viện hai lần lãnh lương, cho nó cái tên căn nhà định chuẩn. Vâng, phụ nữ nhiều nhân tính hơn đám đàn ông ồn ào chúng tôi. Cánh cửa Hòn Ngọc Viễn Đông đã khép lại, "mãnh quần hồng hoen ố rượu rơi". Và trái mận của thi sĩ Nguyễn Đức Sơn, sâu đã ăn hết từ đầu chí cuối, ăn hết cả gốc cây. Căn nhà bên hông chợ cá đổi lấy mảnh quần hồng rách nát, tồi tệ hơn hoen ố rượu rơi.


hoàng trọng        --      lưu hồng